Các Giám mục trình bày Dilexi te tại buổi họp báo của Vatican vào ngày 9 tháng 10. Nguồn: Vatican Media.


Edgar Beltrán của The Pillar, ngày 10 tháng 10, 2025, cho đăng phản ứng của một số vị giám mục đối với văn kiện quan trọng đầu tiên của triều giáo hoàng Leo XIV:

Tông huấn dài khoảng 20,000 từ này được soạn thảo sau thông điệp Dilexit nos (“Người đã yêu thương chúng ta”) của Đức Giáo Hoàng Phanxicô ban hành vào tháng 10 năm 2024.

Trong bản văn, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV thừa nhận rằng ngài đã dựa trên một bản thảo đã được Đức Phanxicô chuẩn bị. Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông đưa tin rằng Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã viết lại một số phần của bản thảo gốc, được cho là do Đức Tổng Giám Mục Vincenzo Paglia, cựu Chủ tịch Hàn lâm viện Giáo hoàng về Sự sống và Viện Gioan Phaolô II, viết.

Vậy các giám mục và Hồng Y đang đón nhận văn kiện quan trọng đầu tiên trong triều giáo hoàng Lêô XIV như thế nào?

The Pillar đã trò chuyện với các giám mục và Hồng Y trên khắp thế giới để tìm hiểu phản ứng công khai đầu tiên của các ngài đối với Dilexi te.

Một số bình luận đã được dịch từ tiếng Tây Ban Nha và tiếng Bồ Đào Nha và đã được chỉnh sửa để rõ ràng và súc tích hơn.

Đức Hồng Y Michael Czerny, SJ – Tổng Trưởng Bộ Phát Triển Con Người Toàn Diện

Dilexi te là một bài suy niệm cảm động về truyền thống của chúng ta – bắt nguồn từ Chúa Giêsu – và phù hợp với giáo huấn gần đây hơn về vị trí của người nghèo trong sứ mệnh của Giáo hội. Đây là một lời nhắc nhở tốt đẹp rằng lựa chọn ưu tiên cho người nghèo không phải do Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Đức Giáo Hoàng Lêô XIV phát minh ra! Chúng ta hãy cùng Đức Giáo Hoàng Lêô cầu nguyện để Dilexi te giúp Giáo hội phục vụ người nghèo và đưa họ đến với Chúa Kitô!

Đức Hồng Y Víctor Manuel Fernández – Tổng Trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin

Tôi tin rằng điều rất quan trọng là phải nỗ lực chứng minh rằng việc chăm sóc người nghèo là một lựa chọn tạo nên một phần của Truyền Thống vĩ đại của Giáo Hội, từ Kinh Thánh, các Giáo Phụ, và trong suốt lịch sử của Giáo Hội. Mặt khác, điều quan trọng là phải làm nổi bật mối liên hệ rõ ràng với Dilexit nos theo cách mà ý nghĩa siêu nhiên của lựa chọn này được làm rõ.

Đức Hồng Y Jaime Spengler – Tổng Giám mục Porto Alegre, Brazil, và Chủ tịch CELAM, Hội đồng Giám mục Mỹ Latinh

Sự tồn tại của con người ngày nay, được đánh dấu bằng năng suất và tiêu dùng, bị cuốn vào hoạt động. Ngay cả thời gian rảnh rỗi cũng trở thành một thứ gì đó mang tính chức năng trong sản xuất. Nếu không có sự công nhận và các điều kiện cần thiết cho sự nghỉ ngơi, một ý thức hệ được áp đặt, hạ thấp con người xuống thành một chức năng. Sự tăng tốc của cuộc sống khiến chúng ta quen với việc nhìn nhận và phán đoán những gì thực sự đang bị đe dọa một cách phiến diện, nếu không muốn nói là sai lầm. [Chúng ta được kêu gọi nhìn thấy] sự nghèo đói của những người không có quyền, không có chỗ đứng, không có tự do; của những người không có điều kiện để lên tiếng về phẩm giá và khả năng của mình; của những người đang trải qua sự nghèo đói về vật chất, đạo đức, tinh thần, văn hóa và nhân bản trong cuộc sống hàng ngày!

Việc nhìn nhận và sẵn sàng chào đón với sự tôn trọng tất cả những người bị tổn thương và bị tước đoạt phẩm giá, tự do và bản sắc là một mệnh lệnh đạo đức, một lời kêu gọi lương tâm, đặc biệt là đối với các Kitô hữu.

Để thực hiện sứ mệnh này, [Đức Giáo Hoàng] kêu gọi chúng ta chuyển từ thế giới của những ý tưởng và thảo luận sang những hành động và cử chỉ cụ thể, đoàn kết những lực lượng tốt nhất của xã hội vì mục đích này. Cam kết vì lợi ích chung của xã hội và việc thăng tiến những người yếu thế và thiệt thòi nhất là cam kết của mọi người nam nữ có thiện chí.

Đức Hồng Y Anders Arbolerius, OCD – Giám mục Stockholm, Thụy Điển

Đức Giáo Hoàng Leo XVI tiếp bước Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Ngài cho chúng ta thấy diện mạo đích thực của Giáo hội là Mẹ của Người Nghèo và Người Túng thiếu. Ngài nhắc nhở chúng ta về ơn gọi yêu thương và tôn kính Người Nghèo như Chúa Giêsu đã làm.

Đức Hồng Y Stephen Brislin – Tổng Giám mục Johannesburg, Nam Phi

Mặc dù tôi chưa có cơ hội nghiên cứu đầy đủ về Dilexi te, nhưng rõ ràng là tông huấn này phù hợp với giáo huấn của Giáo hội qua nhiều thế kỷ. Nó trung thành với các tác phẩm của các Giáo phụ và, thực sự, với Tin Mừng.

Một phần mục đích của tông huấn là lay động những người đang sống trong bong bóng xa hoa, sống theo lối sống thượng lưu, xa lánh và thờ ơ với sự yếu đuối và đau khổ của người khác, hoặc thậm chí coi người khác như một món hàng “dùng một lần rồi bỏ”. Lời kêu gọi là hãy sống theo giáo huấn của Tin Mừng bằng sự tôn trọng phẩm giá con người, bình đẳng và liên đới.

Đây là một văn kiện không chỉ thách thức lối sống cá nhân mà, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã làm, còn lên án chế độ độc tài của một nền kinh tế thiên vị người giàu. Đây là một văn kiện khiến chúng ta phải đặt câu hỏi về hiện trạng mà chúng ta dễ dàng coi là hiển nhiên và trở thành người lân cận với những người yếu đuối và dễ bị tổn thương theo gương của người Samaritanô nhân hậu.

Đức Tổng Giám Mục Jesús González de Zárate – Tổng Giám mục Valencia, Venezuela, và Chủ tịch Hội đồng Giám mục Venezuela

Đức Giáo Hoàng Leo đã cho chúng ta một suy tư tuyệt đẹp và sâu sắc về một chủ đề cốt lõi của Tin Mừng: tình yêu thương dành cho người nghèo. Tông huấn này nhấn mạnh rằng, xuyên suốt lịch sử và trong nhiều thời đại, trong bối cảnh xã hội và văn hóa của chúng ta, Giáo hội, thông qua nhiều hình thức phục vụ những người nghèo khổ và dễ bị tổn thương nhất, đã và đang tiếp tục biểu lộ sự hiệp nhất sâu sắc giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân.

Tông huấn này tiếp nối một số chủ đề trong giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô về bộ mặt của nghèo đói ngày nay và nguyên nhân của nó trong các cấu trúc tội lỗi tạo ra nó. Tông huấn mang theo lời kêu gọi góp phần biến đổi những thực tại này.

Tông huấn này khẳng định chúng ta là một Giáo hội lữ hành tại Mỹ Latinh trong “lựa chọn ưu tiên cho người nghèo” và trong mong muốn trở thành một “Giáo hội nghèo giữa những người nghèo”.

Đây là một chương trình mục vụ cho Giáo hội và là một dấu chỉ tiên tri cho thế giới ngày nay.

Những gì được diễn đạt trong số 120 của Tông huấn đã ngay lập tức thu hút sự chú ý của tôi: “Tự bản chất, tình yêu Kitô giáo mang tính tiên tri: nó làm nên những điều kỳ diệu và không có giới hạn. Nó biến những điều dường như không thể thành có thể. Tình yêu trên hết là một cách nhìn nhận cuộc sống và một cách sống. Một Giáo hội không đặt ra giới hạn cho tình yêu, không biết đến kẻ thù để chiến đấu mà chỉ biết yêu thương con người, chính là Giáo hội mà thế giới ngày nay cần đến.”

Đức Cha Raimo Goyarrola – Giám mục Helsinki, Phần Lan

Tôi nghĩ rằng nội dung của Tông huấn này cần được đọc một cách bình tĩnh và cầu nguyện. Không có gì mới mẻ [trong văn kiện] theo nghĩa là ngay từ đầu, Giáo hội đã sống với người nghèo, vì người nghèo và giữa người nghèo.

Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng Đức Giáo Hoàng cũng nói trong văn kiện này rằng Chúa Giêsu đã sống nghèo, chết, sinh ra, sống và chết trong cảnh nghèo.

Vì vậy, điều quan trọng là phải nhấn mạnh đến sự nghèo khó tâm linh, nội tâm này. Nó rất quan trọng như một nhân đức đối với tất cả các Kitô hữu. Bạn không thể là một vị thánh, bạn không thể là một Kitô hữu đích thực nếu bạn không sống nhân đức nghèo khó. Đó là về lòng quảng đại, về việc thoát khỏi những thứ của thế gian để có một trái tim rộng mở yêu thương và đôi mắt trong sáng để nhìn anh chị em mình.

Giáo hội của tôi ở Helsinki là một ví dụ về một giáo hội nghèo, vì vậy tôi hiểu Đức Giáo Hoàng đang nói về điều gì và tôi hiểu nghèo đói là gì. Có rất nhiều loại nghèo đói. Ở đây, chúng ta có thể không chết đói, nhưng có rất nhiều người nhập cư và tị nạn nghèo đói, nghèo đói trong một giáo phận không có tiền, nơi chúng ta không thể trang trải cuộc sống ở nhiều giáo xứ và không thể xây dựng nhà thờ hay tìm nơi thờ phượng vì chúng ta không có tiền. Tôi hoàn toàn đồng cảm với văn bản này trong tông huấn này.

Cũng có sự cô đơn, nghèo đói về mặt tinh thần ở các quốc gia của chúng ta, và sự nghèo đói đó cũng cần được đồng hành, giúp đỡ và phải tìm ra giải pháp. Sự nghèo đói về mặt tinh thần đôi khi mang theo nỗi buồn và sự tuyệt vọng khác với nỗi buồn của những người đang chịu đựng sự nghèo đói về vật chất.

Nhưng dù sao đi nữa, đây là một văn bản cần được đọc một cách bình tĩnh, cầu nguyện và có thể giúp chúng ta tìm kiếm giải pháp. Các giải pháp không dễ dàng vì nó ảnh hưởng đến các cấu trúc xã hội, quốc gia, công ty; đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng nhưng là điều mà Giáo hội thúc đẩy.

Đây là một văn bản tuyệt vời và là một khởi đầu giáo lý tốt đẹp cho vị giáo hoàng này, người sẽ mang đến cho chúng ta nhiều niềm vui.

Đức Cha Erik Varden, OCSO – Giám mục Trondheim, Na Uy

Một điều gây ấn tượng với tôi khi đọc lần đầu văn bản phong phú này là phần nói về đời sống tu trì. Trong một bài đọc đầy cảm hứng về Luật Thánh Biển Đức, Đức Thánh Cha nói rằng các tu sĩ thời cổ đại đã tạo điều kiện cho việc hình thành một “phương pháp sư phạm hòa nhập” bằng cách “hình thành lương tâm và truyền đạt trí tuệ” thông qua việc chia sẻ văn hóa.

Từ “hòa nhập” được sử dụng rất nhiều ngày nay, thường không có một ý niệm rõ ràng về việc ai đó đề xuất bao gồm những người khác vào điều gì. Quan niệm cho rằng hòa nhập là một hình thức hiếu khách xuất phát từ một giao ước cộng đồng với mục đích tạo ra một xã hội được chuyển đổi là rất có giá trị và mang tính xây dựng.

Đức Cha Jan Hendriks – Giám mục Haarlem-Amsterdam, Hòa Lan

Dilexi te là một văn kiện tuyệt vời. Có lẽ đây đó chúng ta thấy ảnh hưởng của một vị Giáo hoàng người Mỹ, người không chủ yếu nhấn mạnh vai trò của chính phủ trong vấn đề này, mà nhấn mạnh đến bổn phận của mọi người là không được quên bác ái.

Tôi đặc biệt ấn tượng trước cái nhìn tổng quan toàn diện về cam kết của Giáo hội đối với người nghèo trong suốt hai nghìn năm qua. Điều này rất quan trọng, không phải để tự khen ngợi bản thân, mà trên hết là để thấy rằng việc chăm sóc người nghèo là một khía cạnh thiết yếu, cốt lõi trong sứ mệnh của Giáo hội trên thế giới này.

Văn kiện chắc chắn nhấn mạnh đến bổn phận của chính phủ trong việc đảm bảo một xã hội công bằng và tạo điều kiện cho người nghèo trở thành tác nhân cho sự phát triển của chính họ, và một xã hội biết quan tâm đến người nghèo, nhưng nó tập trung chủ yếu vào sứ mệnh của chúng ta, với tư cách là Kitô hữu, là sát cánh cùng người nghèo, bao gồm cả việc bố thí.

Đức Cha Toshihiro Sakai – Giám Mục Phụ Tá Osaka-Takamatsu, Nhật Bản

Trong số nhiều chủ đề đáng suy ngẫm, tôi tập trung vào hai điểm.

Một là vấn đề nhập cư. Tại Nhật Bản, các cuộc thảo luận về vấn đề nhập cư cũng diễn ra thường xuyên hơn trong những năm gần đây, và động lực đang gia tăng để hình thành một “chính sách nhập cư” mà vẫn chưa rõ ràng. Theo quan điểm của Giáo Hội Công Giáo, trong cộng đồng Công Giáo thiểu số cực lớn của Nhật Bản (chiếm 0,3% tổng dân số), tỷ lệ công nhân Công Giáo từ các quốc gia như Philippines, Mỹ Latinh và Việt Nam đang tăng đều đặn.

Ở một số khu vực, các gia đình trẻ nước ngoài có con cái hiện nay đông hơn các tín đồ Nhật Bản, vốn đang giảm dần do tỷ lệ sinh thấp và dân số trở nên già. Làm thế nào để chăm sóc mục vụ cho những tín hữu này là một trong những thách thức mà Hội đồng Giám mục Công Giáo Nhật Bản đang phải đối diện, nơi đã thành lập một ban chuyên trách cho mục đích này trong năm nay. Nhìn vào các giám mục, số lượng giám mục sinh ra ở nước ngoài đã tăng lên trong thập niên qua; hiện tại, 5 trong số 17 giám mục là công dân nước ngoài (từ Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Argentina và Ý).

Tôi muốn tìm hiểu thêm về hai vị thánh được đề cập trong Dilexit te: Thánh Gioan Baotixita Scalabrini và Thánh Phanxicô Xaviê Cabrini.

Một điểm khác liên quan đến công việc. Là một thành viên của Opus Dei, tôi nhận thấy rằng công việc thánh hóa rất quan trọng đối với tất cả mọi người. Lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô được trích dẫn ở cuối Tông huấn Dilexi te (số 115), “Nhờ lao động, chúng ta trở nên trọn vẹn hơn, nhân tính của chúng ta phát triển, người trẻ chỉ trưởng thành nhờ lao động”, áp dụng cho tất cả mọi người, kể cả người nghèo.

Một linh mục người Mexico đã làm việc tại Nhật Bản hàng thập niên từng nói với tôi: “Cha có biết sự khác biệt giữa Mexico và Nhật Bản không? Ở Mexico, cha phải nói với mọi người: ‘Làm việc cho đúng cách.’ Còn ở Nhật Bản, cha phải nói với họ: ‘Nghỉ ngơi cho đúng cách.’” Nhật Bản có văn hóa làm việc quá sức. Do đó, những người nghèo không làm việc (hoặc không thể làm việc) thường bị đối xử khắc nghiệt, và văn hóa cho đi khó mà bén rễ. Tất nhiên, cũng có một khía cạnh tích cực: tinh thần tình nguyện, làm việc không công cho những người thiếu thốn, rất mạnh mẽ.

Tôi muốn đọc kỹ Tông huấn này và sử dụng nó vì lợi ích của Giáo hội tại Nhật Bản và toàn xã hội.

Đức Cha Philipe Jourdan – Giám mục Tallin, Estonia

Tôi rất vui mừng về Dilexi te vì chúng tôi là một Giáo hội nhỏ trong một đất nước nhỏ bé. Chúng tôi đang ở bên lề Giáo hội, trong một đất nước đang sống trong nỗi sợ mất hòa bình, độc lập và tự do.

Việc thiếu an ninh cá nhân hay tập thể là một sự nghèo đói lan rộng ngày nay. Đó là một phần của sự nghèo đói về đạo đức mà Dilexi te nói đến. Sự nghèo đói về đạo đức và tinh thần là một sự nghèo đói lớn ở châu Âu và Estonia. Không có hòa bình và an ninh, thật khó để khám phá Chúa Kitô.

Chúng ta sẽ có cơ hội khám phá Dilexi te sâu hơn trong những ngày tới. Đây là điều thực sự nổi bật đối với tôi ngay lúc này: Nỗi sợ hãi là một sự nghèo đói lớn. Chỉ có Chúa Kitô mới có thể chữa lành sự nghèo đói đó.

Đức Cha Mathieu Rouge – Giám mục Nanterre, Pháp

Dilexi te dường như là một văn bản đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô lên kế hoạch: điều tích cực là Đức Lêô XIV cho thấy ngài đang tiếp nối công trình của vị tiền nhiệm. Tôi đặc biệt xúc động trước những lời ngài nhắc đến Thánh Augustinô và các Giáo phụ, cũng như những tổ chức tôn giáo lớn như Dòng Nữ tử Bác ái Thánh Louise de Marillac và Thánh Vincent de Paul, người từng là cha xứ trong giáo phận của tôi.

Sự suy ngẫm này, vừa mang tính xã hội vừa mang tính tâm linh, sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Giáo hội.