
1. “Ta đã yêu thương con” (Kh 3:9). Chúa phán những lời này với một cộng đồng Kitô hữu, không giống như một số cộng đồng khác, không có ảnh hưởng hay nguồn lực, và thay vào đó bị đối xử bằng bạo lực và khinh miệt: “Ngươi chỉ có ít quyền lực… Ta sẽ bắt chúng đến phủ phục dưới chân ngươi” (Kh 3:8-9). Đoạn văn này nhắc chúng ta nhớ đến lời thánh ca của Đức Maria: “Chúa hạ bệ những kẻ quyền thế, và nâng cao những kẻ khiêm nhường; Người ban của đầy dư cho kẻ đói nghèo, và đuổi người giàu có về tay trắng” (Lc 1:52-53).
2. Lời tuyên bố tình yêu này, được trích từ Sách Khải Huyền, phản ánh mầu nhiệm vô tận mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã suy tư trong Thông điệp Dilexit Nos về tình yêu nhân loại và thần linh của trái tim Chúa Giêsu Kitô. Ở đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đồng nhất mình với “những tầng lớp thấp kém nhất của xã hội” và bằng tình yêu tuôn đổ đến cùng, Người khẳng định phẩm giá của mỗi con người, đặc biệt là khi “họ yếu đuối, bị khinh miệt, hoặc đau khổ”. [1] Khi chiêm ngắm tình yêu của Chúa Kitô, “chúng ta cũng được thôi thúc để quan tâm hơn đến những đau khổ và nhu cầu của tha nhân, và được củng cố trong nỗ lực chia sẻ công cuộc giải phóng của Người như những khí cụ để lan truyền tình yêu của Người.” [2]
3. Vì lý do này, tiếp nối Thông điệp Dilexit Nos, trong những tháng cuối đời, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã soạn thảo Tông huấn về việc Giáo hội chăm sóc người nghèo, với tựa đề Dilexi Te, như thể Chúa Kitô đang nói những lời này với từng người trong số họ: “Ngươi chỉ có chút quyền năng,” vậy mà “Ta đã yêu thương ngươi” (Kh 3:9). Tôi rất vui mừng được lấy văn kiện này làm của riêng mình — thêm vào một vài suy tư — và ban hành nó vào đầu triều đại giáo hoàng của tôi, vì tôi chia sẻ mong muốn của vị tiền nhiệm kính yêu của tôi rằng tất cả các Kitô hữu đều hiểu được mối liên hệ mật thiết giữa tình yêu của Chúa Kitô và lời kêu gọi chăm sóc người nghèo của Người. Tôi cũng cho rằng việc nhấn mạnh vào con đường nên thánh này là điều thiết yếu, bởi vì “trong lời kêu gọi nhận ra Người nơi người nghèo và người đau khổ, chúng ta thấy được chính trái tim của Chúa Kitô, những tình cảm và lựa chọn sâu sắc nhất của Người, mà mọi thánh nhân đều tìm cách noi theo.” [3]
CHƯƠNG MỘT: MỘT VÀI LỜI CHÍNH YẾU
4. Các môn đệ của Chúa Giêsu đã chỉ trích người phụ nữ đổ dầu thơm đắt tiền lên đầu Người. Họ nói: “Sao lại phí phạm như vậy? Dầu thơm này có thể bán được một số tiền lớn, rồi lấy tiền đó mà bố thí cho người nghèo.” Tuy nhiên, Chúa Giêsu đáp lại họ: “Các ngươi lúc nào cũng có người nghèo bên cạnh, còn Ta thì các ngươi không có Ta mãi đâu” (Mt 26:8-9,11). Người phụ nữ ấy đã nhìn thấy nơi Chúa Giêsu Đấng Mê-xi-a khiêm nhường và đau khổ, Đấng mà trên Người bà có thể đổ tràn tình yêu thương. Sự xức dầu ấy hẳn đã mang lại biết bao an ủi cho chính cái đầu mà chỉ vài ngày nữa sẽ bị gai đâm! Dĩ nhiên, đó chỉ là một cử chỉ nhỏ bé, nhưng những ai đang đau khổ mới biết một cử chỉ yêu thương nhỏ bé ấy có thể lớn lao và mang lại biết bao sự khuây khỏa. Chúa Giêsu hiểu điều này và nói với các môn đệ rằng ký ức về cử chỉ của người phụ nữ sẽ tồn tại mãi mãi: “Bất cứ nơi nào Tin Mừng này được rao giảng trên khắp thế giới, việc bà đã làm sẽ được kể lại để nhớ đến bà” (Mt 26:13). Cử chỉ giản dị của người phụ nữ ấy nói lên rất nhiều điều. Không một dấu hiệu yêu thương nào, dù là nhỏ nhất, sẽ không bao giờ bị lãng quên, nhất là khi nó được thể hiện với những người đang đau khổ, cô đơn hoặc túng thiếu, như Chúa Giêsu lúc bấy giờ.
5. Vì vậy, tình yêu dành cho Chúa là một với tình yêu dành cho người nghèo. Chính Chúa Giêsu, Đấng đã nói với chúng ta: “Người nghèo thì anh em luôn có bên mình” (Mt 26:11), cũng hứa với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày” (Mt 28:20). Chúng ta cũng nghĩ đến lời Người nói: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25:40). Đây không chỉ là vấn đề lòng tốt thuần túy nhân bản mà là một sự mặc khải: việc tiếp xúc với những người thấp hèn và bất lực là một cách cơ bản để gặp gỡ Chúa của lịch sử. Trong người nghèo, Người tiếp tục nói với chúng ta.
Thánh Phanxicô
6. Giải thích về việc chọn danh hiệu này, Đức Thánh Cha Phanxicô kể lại rằng, sau khi được bầu làm Giáo hoàng, một Hồng Y bạn của ngài đã ôm hôn ngài và nói: “Đừng quên người nghèo!” [4] Đó cũng chính là lời kêu gọi mà các nhà lãnh đạo Giáo hội đã dành cho Thánh Phaolô khi ngài lên Giêrusalem để củng cố sứ mệnh của mình (x. Gl 2,1-10). Nhiều năm sau, vị Tông đồ vẫn có thể khẳng định rằng đây “thực sự là điều tôi đã tha thiết thực hiện” (Gl 2,10). Chăm sóc người nghèo cũng là một mối quan tâm lớn của Thánh Phanxicô Assisi: trong con người của một người phong cùi, chính Chúa Kitô đã ôm lấy Phanxicô và thay đổi cuộc đời ngài. Ngay cả ngày nay, Thánh Phanxicô, với tư cách là Người Nghèo Assisi, vẫn tiếp tục truyền cảm hứng cho chúng ta bằng tấm gương sáng ngời của ngài.
7. Tám thế kỷ sau Thánh Phanxicô đã khơi dậy một làn sóng đổi mới Tin Mừng trong các Kitô hữu và xã hội thời bấy giờ. Giàu có và tự tin, chàng trai trẻ Phanxicô đã bị choáng ngợp và hoán cải nhờ sự tiếp xúc trực tiếp với những người nghèo và những người bị xã hội ruồng bỏ. Câu chuyện cuộc đời ngài tiếp tục thu hút tâm trí và trái tim của những người tin, cũng như nhiều người không tin. Nó đã “thay đổi lịch sử”. [5] Một bước tiến xa hơn trên cùng con đường đó đã được Công đồng Vatican II thực hiện, như Thánh Phaolô VI đã chỉ ra khi ngài nói rằng “dụ ngôn người Samaritanô cổ xưa đã trở thành khuôn mẫu cho linh đạo của Công đồng”. [6] Tôi tin rằng việc ưu tiên lựa chọn người nghèo là nguồn gốc của sự đổi mới phi thường cho cả Giáo hội và xã hội, nếu chúng ta có thể giải thoát bản thân khỏi tính ích kỷ và lắng nghe tiếng kêu của họ.
Tiếng kêu của người nghèo
8. Đoạn Kinh Thánh trong đó Thiên Chúa mặc khải chính mình cho Môsê trong bụi gai đang cháy có thể là điểm khởi đầu thường xuyên cho nỗ lực này. Ở đó, Người phán: “Ta đã thấy cảnh khốn khổ của dân Ta bên Ai Cập; Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Ta biết nỗi đau khổ của chúng, và Ta xuống giải thoát chúng... Vậy hãy đến, Ta sẽ sai ngươi” (Xh 3:7-8,10). [7] Như vậy, Thiên Chúa cho thấy sự quan tâm của Người đối với nhu cầu của người nghèo: “Khi con cái Ít-ra-en kêu lên Đức Chúa, Người đã cho xuất hiện một vị cứu tinh cho họ” (Tl 3:15). Khi lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, chúng ta được mời gọi bước vào trái tim của Thiên Chúa, Đấng luôn quan tâm đến nhu cầu của con cái Người, đặc biệt là những người túng thiếu nhất. Nếu chúng ta không đáp lại tiếng kêu ấy, người nghèo rất có thể sẽ kêu lên Chúa chống lại chúng ta, và chúng ta sẽ mang tội (x. Đnl 15:9) và quay lưng lại với chính trái tim của Thiên Chúa.
9. Tình trạng của người nghèo là một tiếng kêu, trong suốt lịch sử nhân loại, liên tục thách thức cuộc sống, xã hội, hệ thống chính trị và kinh tế của chúng ta, và không kém phần quan trọng, là Giáo hội. Trên những khuôn mặt bị tổn thương của người nghèo, chúng ta thấy nỗi đau khổ của những người vô tội, và do đó, nỗi đau khổ của chính Chúa Kitô. Đồng thời, có lẽ chúng ta nên nói đúng hơn về nhiều khuôn mặt của người nghèo và về sự nghèo đói, vì nó là một hiện tượng đa diện. Thực tế, có rất nhiều hình thức nghèo đói: sự nghèo đói của những người thiếu thốn phương tiện vật chất để sinh tồn, sự nghèo đói của những người bị gạt ra ngoài lề xã hội và thiếu phương tiện để lên tiếng cho phẩm giá và khả năng của mình, sự nghèo đói về đạo đức và tinh thần, sự nghèo đói về văn hóa, sự nghèo đói của những người thấy mình trong tình trạng yếu đuối hoặc mong manh về mặt bản thân hoặc xã hội, sự nghèo đói của những người không có quyền, không có không gian, không có tự do.
10. Theo nghĩa này, có thể nói rằng cam kết đối với người nghèo và xóa bỏ các nguyên nhân xã hội và cấu trúc của nghèo đói đã trở nên quan trọng trong những thập niên gần đây, nhưng vẫn chưa đủ. Điều này cũng đúng bởi vì xã hội của chúng ta thường ưu tiên các tiêu chuẩn định hướng cuộc sống và chính trị vốn mang nhiều bất bình đẳng. Kết quả là, những hình thức nghèo đói cũ mà chúng ta đã nhận thức được và đang cố gắng chống lại đang bị xen lẫn bởi những hình thức mới, đôi khi tinh vi và nguy hiểm hơn. Từ điểm nhìn này, thật đáng hoan nghênh khi Liên Hiệp Quốc đã đưa việc xóa đói giảm nghèo trở thành một trong những Mục tiêu Thiên niên kỷ của mình.
11. Một cam kết cụ thể đối với người nghèo cũng phải đi kèm với một sự thay đổi trong não trạng, điều này có thể tác động đến bình diện văn hóa. Thực thế, ảo tưởng về hạnh phúc bắt nguồn từ một cuộc sống sung túc đã đẩy nhiều người đến một quan điểm sống tập trung vào việc tích lũy của cải và thành công xã hội bằng mọi giá, thậm chí gây tổn hại đến người khác và lợi dụng những lý tưởng xã hội bất công và các hệ thống chính trị - kinh tế thiên vị kẻ mạnh. Do đó, trong một thế giới mà người nghèo ngày càng đông đảo, nghịch lý thay, chúng ta lại chứng kiến sự phát triển của một tầng lớp tinh hoa giàu có, sống trong bong bóng tiện nghi và xa hoa, gần như ở một thế giới khác so với người dân thường. Điều này có nghĩa là vẫn còn tồn tại một nền văn hóa – đôi khi được ngụy trang khéo léo – chối bỏ người khác mà không hề hay biết và thờ ơ chấp nhận hàng triệu người chết đói hoặc sống trong những điều kiện không phù hợp với con người. Vài năm trước, bức ảnh một đứa trẻ nằm bất động trên bãi biển Địa Trung Hải đã gây xôn xao dư luận; thật không may, ngoài một số phản ứng nhất thời, những sự kiện tương tự đang ngày càng trở nên không còn liên quan và bị coi là những tin tức bên lề.
12. Chúng ta không được lơ là cảnh giác khi nói đến nghèo đói. Chúng ta nên đặc biệt quan tâm đến những điều kiện nghiêm trọng mà nhiều người đang phải đối diẹn do thiếu lương thực và nước uống. Ngay cả ở các nước giàu có, số lượng người nghèo ngày càng tăng cũng là một mối lo ngại không kém. Ở châu Âu, ngày càng nhiều gia đình không đủ tiền để sống qua ngày. Nhìn chung, chúng ta đang chứng kiến sự gia tăng của nhiều loại nghèo đói khác nhau, không còn là một thực tế đơn lẻ, đồng nhất mà giờ đây bao gồm nhiều hình thức bần cùng hóa kinh tế và xã hội, phản ảnh sự lan rộng của bất bình đẳng ngay cả trong bối cảnh phần lớn là giàu có. Chúng ta đừng quên rằng “Những người nghèo gấp đôi là những phụ nữ phải chịu đựng hoàn cảnh bị loại trừ, ngược đãi và bạo lực, vì họ thường ít có khả năng bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, chúng ta vẫn liên tục chứng kiến trong số họ những tấm gương anh hùng hàng ngày đáng kinh ngạc trong việc bảo vệ và che chở cho gia đình dễ bị tổn thương của họ.” [8] Mặc dù những thay đổi đáng kể đang diễn ra ở một số quốc gia, “tổ chức xã hội trên toàn thế giới vẫn chưa phản ảnh rõ ràng rằng phụ nữ có cùng phẩm giá và quyền lợi như nam giới. Chúng ta nói một đằng, nhưng quyết định và thực tại lại nói một nẻo,” [9] đặc biệt nếu chúng ta xem xét số lượng phụ nữ thực sự đang trong cảnh bần cùng.
Những định kiến ý thức hệ
13. Nhìn xa hơn dữ liệu — đôi khi bị “diễn giải” để thuyết phục chúng ta rằng tình trạng của người nghèo không quá nghiêm trọng — thực tại chung khá rõ ràng: “Một số quy tắc kinh tế đã chứng tỏ hiệu quả đối với tăng trưởng, nhưng không phải đối với phát triển con người toàn diện. Của cải đã tăng lên, nhưng đi kèm với bất bình đẳng, dẫn đến ‘các hình thức nghèo đói mới đang xuất hiện.’ Tuyên bố rằng thế giới hiện đại đã giảm nghèo đói được đưa ra bằng cách đo lường nghèo đói bằng các tiêu chuẩn từ quá khứ không tương ứng với thực tại ngày nay. Ví dụ, vào những thời điểm khác, việc thiếu khả năng tiếp cận năng lượng điện không được coi là dấu hiệu của nghèo đói, cũng không phải là nguồn gốc của khó khăn. Nghèo đói luôn phải được hiểu và đánh giá trong bối cảnh các cơ hội thực tế có sẵn trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.” [10] Tuy nhiên, nhìn xa hơn các tình huống và bối cảnh cụ thể, một tài liệu năm 1984 của Cộng đồng Châu Âu đã tuyên bố rằng “‘người nghèo’ sẽ được hiểu là những cá nhân, gia đình và nhóm người có nguồn lực (vật chất, văn hóa và xã hội) hạn chế đến mức loại trừ họ khỏi lối sống tối thiểu có thể chấp nhận được ở các quốc gia thành viên nơi họ sinh sống.” [11] Tuy nhiên, nếu chúng ta thừa nhận rằng tất cả mọi người đều có phẩm giá như nhau, bất kể nơi sinh của họ, thì những khác biệt to lớn hiện hữu giữa các quốc gia và khu vực không thể bị bỏ qua.
14. Người nghèo không phải ngẫu nhiên hay do số phận mù quáng và tàn nhẫn. Đối với hầu hết họ, nghèo đói không phải là một sự lựa chọn. Tuy nhiên, vẫn có những người dám khẳng định điều này, qua đó bộc lộ sự mù quáng và tàn nhẫn của chính họ. Tất nhiên, trong số những người nghèo cũng có những người không muốn làm việc, có lẽ vì tổ tiên của họ, những người đã làm việc cả đời, đã chết trong nghèo đói. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều người khác - cả nam lẫn nữ - vẫn làm việc từ sáng đến tối, có lẽ là nhặt nhạnh những thứ vụn vặt, mặc dù họ biết rằng công việc khó khăn của họ chỉ giúp họ sống qua ngày chứ không bao giờ thực sự cải thiện cuộc sống. Cũng không thể nói rằng hầu hết người nghèo là như vậy vì họ không "xứng đáng" được hưởng những điều khác, như quan điểm sai lầm về chế độ trọng dụng nhân tài, chỉ coi những người thành đạt là "xứng đáng".
15. Cả các Kitô hữu, trong nhiều trường hợp, cũng đã sa vào những thái độ bị định hình bởi các ý thức hệ thế tục hoặc các cách tiếp cận chính trị và kinh tế, dẫn đến những khái quát hóa thô thiển và những kết luận sai lầm. Việc một số người bác bỏ hoặc chế giễu các công việc bác ái, như thể chúng là nỗi ám ảnh của một số ít người chứ không phải là trái tim cháy bỏng của sứ mệnh Giáo hội, khiến tôi tin chắc rằng cần phải quay lại và đọc lại Tin Mừng, kẻo chúng ta có nguy cơ thay thế Tin Mừng bằng sự khôn ngoan của thế gian này. Người nghèo không thể bị lãng quên nếu chúng ta muốn duy trì dòng chảy lớn lao của đời sống Giáo hội, một dòng chảy bắt nguồn từ Tin Mừngvà sinh hoa trái ở mọi thời đại và mọi nơi.
CHƯƠNG HAI: THIÊN CHÚA CHỌN NGƯỜI NGHÈO
Sự lựa chọn người nghèo
16. Thiên Chúa là tình yêu thương xót, và kế hoạch yêu thương của Người, được triển khai và hoàn thành trong lịch sử, trước hết là sự giáng thế và đến giữa chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ, sợ hãi, tội lỗi và quyền lực của sự chết. Hướng đến thân phận con người của họ bằng ánh mắt thương xót và trái tim tràn đầy tình yêu, Người đã hướng về các thụ tạo của Người và nhờ đó đã chăm sóc cho sự nghèo khó của họ. Chính để chia sẻ những giới hạn và sự mong manh của bản chất con người chúng ta, chính Người đã trở nên nghèo khó và sinh ra trong xác thịt như chúng ta. Chúng ta đã biết Người trong sự nhỏ bé của một hài nhi nằm trong máng cỏ và trong sự sỉ nhục tột cùng trên thập giá, nơi Người chia sẻ sự nghèo khó tận căn của chúng ta, tức là cái chết. Vì vậy, thật dễ hiểu tại sao chúng ta cũng có thể nói về mặt thần học về một lựa chọn ưu tiên của Thiên Chúa dành cho người nghèo, một biểu hiện nảy sinh trong bối cảnh lục địa Mỹ Latinh và đặc biệt là trong Phiên họp Puebla, nhưng đã được tích hợp tốt vào các giáo huấn sau này của Giáo hội. [12] “Sự ưu tiên” này không bao giờ ám chỉ sự loại trừ hay phân biệt đối xử đối với các nhóm khác, điều mà Thiên Chúa không thể làm được. Nó có nghĩa là nhấn mạnh đến hành động của Thiên Chúa, được thúc đẩy bởi lòng cảm thương đối với sự nghèo khó và yếu đuối của toàn thể nhân loại. Muốn khai mở một vương quốc công lý, tình huynh đệ và liên đới, Thiên Chúa dành một vị trí đặc biệt trong trái tim Người cho những người bị phân biệt đối xử và áp bức, và Người yêu cầu chúng ta, Giáo hội của Người, thực hiện một hành động quyết liệt và triệt để sự lựa chọn có lợi cho kẻ yếu nhất.
17. Chính trong quan điểm này, chúng ta hiểu được vô số trang Cựu Ước, trong đó Thiên Chúa được trình bày như là bạn hữu và là Đấng giải thoát người nghèo, Đấng lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và can thiệp để giải thoát họ (x. Tv 34:7). Thiên Chúa, nơi nương náu của người nghèo, tố cáo qua các ngôn sứ – chúng ta đặc biệt nhớ đến Amos và Isaia – những bất công đối với những người yếu đuối nhất, và khuyên nhủ Israel hãy canh tân việc thờ phượng từ bên trong, bởi vì người ta không thể cầu nguyện và dâng lễ vật trong khi áp bức những người yếu đuối và nghèo khổ nhất. Ngay từ đầu Kinh Thánh, tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện sống động qua việc Người bảo vệ những người yếu đuối và người nghèo, đến mức có thể nói rằng Người có một tình cảm đặc biệt dành cho họ. “Trái tim Thiên Chúa dành một vị trí đặc biệt cho người nghèo... Toàn bộ lịch sử cứu độ của chúng ta được đánh dấu bằng sự hiện diện của người nghèo.” [13]
Chúa Giêsu, Đấng Mê-xi-a nghèo khó
18. Lịch sử Cựu Ước về tình yêu ưu ái của Thiên Chúa dành cho người nghèo và sự sẵn lòng lắng nghe tiếng kêu của họ – mà tôi đã đề cập ngắn gọn – đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu thành Nadarét. [14] Qua việc Nhập Thể, Người “đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân” (Pl 2,7), và trong hình hài đó, Người đã mang đến ơn cứu độ cho chúng ta. Sự nghèo khó của Người là một sự nghèo khó triệt để, bắt nguồn từ sứ mệnh mặc khải trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta (x. Ga 1,18; 1 Ga 4,9). Như Thánh Phaolô đã diễn tả một cách vắn tắt nhưng đầy ấn tượng: “Anh em biết rõ ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để nhờ sự nghèo khó của Người, anh em được trở nên giàu có” (2 Cr 8,9).
19. Tin Mừng cho chúng ta thấy rằng sự nghèo khó đã in đậm trong mọi khía cạnh của cuộc đời Chúa Giêsu. Ngay từ lúc Người bước vào thế gian, Chúa Giêsu đã nếm trải kinh nghiệm cay đắng của sự từ chối. Thánh sử Luca kể lại việc Thánh Giuse và Đức Maria sắp sinh con đã đến Bêlem, rồi nói thêm một cách chua xót rằng “không có chỗ cho họ trong quán trọ” (Lc 2,7). Chúa Giêsu sinh ra trong một hoàn cảnh nghèo nàn và được đặt nằm trong máng cỏ; sau đó, để cứu Người khỏi bị giết, hai ông bà đã trốn sang Ai Cập (x. Mt 2,13-15). Vào buổi bình minh của sứ vụ công khai, sau khi loan báo trong hội đường Nadarét rằng năm ân sủng sẽ mang lại niềm vui cho người nghèo đã được hoàn thành nơi Người, Người đã bị đuổi khỏi thành (x. Lc 4,14-30). Người chết như một người bị ruồng bỏ, bị dẫn ra khỏi Giêrusalem để chịu đóng đinh (x. Mc 15,22). Thật vậy, đó là cách mô tả hay nhất về sự nghèo khó của Chúa Giêsu: Người đã trải qua cùng một sự loại trừ là số phận của người nghèo, người bị xã hội ruồng bỏ. Chúa Giêsu là biểu hiện của đặc quyền nghèo đói này. Người tự giới thiệu mình với thế gian không chỉ là một Đấng Mê-xi-a nghèo khó, mà còn là Đấng Mê-xi-a của và cho người nghèo.
20. Có một số manh mối về địa vị xã hội của Chúa Giêsu. Trước hết, Người làm nghề thợ thủ công hoặc thợ mộc, téktōn (x. Mc 6:3). Đây là những người kiếm sống bằng lao động chân tay. Không có đất đai, họ bị coi là thấp kém hơn nông dân. Khi Hài Nhi Giêsu được Thánh Giuse và Đức Maria dâng trong Đền Thờ, cha mẹ Người đã dâng một cặp chim gáy hoặc chim bồ câu (x. Lc 2:22-24), mà theo quy định của Sách Lêvi (x. Mc 12:8), đó là lễ vật của người nghèo. Một đoạn khá quan trọng trong Ti Mừng kể về việc Chúa Giêsu, cùng với các môn đệ, đã nhặt bông lúa để ăn khi họ đi qua các cánh đồng (x. Mc 2:23-28). Chỉ những người nghèo mới được phép mót lúa trên đồng. Hơn nữa, Chúa Giêsu nói về chính mình: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8:20; Lc 9:58). Thực vậy, Người là một vị thầy lưu động, sự nghèo khó và bấp bênh của Người là dấu chỉ mối liên hệ với Chúa Cha. Chúng cũng là điều kiện cho những ai muốn theo Người trên con đường làm môn đệ. Bằng cách này, việc từ bỏ của cải, tiền bạc và sự an toàn trần tục trở thành dấu chỉ hữu hình của việc phó thác bản thân cho Thiên Chúa và sự quan phòng của Người.
21. Vào đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã xuất hiện trong hội đường Nadarét, đọc sách tiên tri Isaia và áp dụng lời của tiên tri vào chính mình: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Người đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4:18; x. Is 61:1). Như vậy, Người tỏ mình ra là Đấng, ngay tại đây và bây giờ của lịch sử, đến để thực hiện sự gần gũi yêu thương của Thiên Chúa, trên hết là công trình giải thoát cho những ai bị giam cầm bởi sự dữ, cho những người yếu đuối và nghèo khó. Những dấu chỉ đi kèm với lời rao giảng của Chúa Giêsu là biểu hiện của tình yêu và lòng cảm thương mà với chúng Thiên Chúa chăm sóc những người bệnh tật, người nghèo và tội nhân, những người, vì hoàn cảnh của họ, đã bị xã hội và ngay cả những người có đức tin gạt ra ngoài lề. Người mở mắt người mù, chữa lành người phong hủi, làm cho kẻ chết sống lại và loan báo Tin Mừng cho người nghèo: Thiên Chúa ở gần, Thiên Chúa yêu thương anh em (x. Lc 7,22). Điều này giải thích tại sao Người tuyên bố: “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Thiên Chúa tỏ ra ưu ái người nghèo: những lời hy vọng và giải thoát của Chúa trước hết được ngỏ cùng họ. Vì vậy, ngay cả trong cảnh nghèo khó và yếu đuối của họ, không ai nên cảm thấy bị bỏ rơi. Và Giáo Hội, nếu muốn là Giáo Hội của Chúa Kitô, phải là một Giáo Hội của các Mối Phúc, một Giáo Hội dành chỗ cho những người bé mọn và đồng hành với người nghèo, một nơi mà người nghèo có một vị trí đặc quyền (x. Gc 2:2-4).
22. Vào thời đó, những người túng thiếu và đau yếu, thiếu thốn những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, thường xuyên bị buộc phải ăn xin. Do đó, họ phải gánh thêm gánh nặng của sự xấu hổ xã hội, do niềm tin rằng bệnh tật và nghèo đói bằng cách nào đó có liên quan đến tội lỗi bản thân. Chúa Giêsu đã kiên quyết phản đối não trạng này bằng cách khẳng định rằng Thiên Chúa “cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như người bất chính” (Mt 5:45). Thật vậy, Người đã hoàn toàn đảo ngược quan niệm đó, như chúng ta thấy từ đoạn kết của dụ ngôn người giàu có và Ladarô: “Hỡi con, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận được phần phước của mình, còn Ladarô thì phải chịu toàn bất hạnh. Giờ đây, anh ấy được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu đau khổ” (Lc 16:25).
23. Vậy thì rõ ràng rằng “niềm tin của chúng ta vào Chúa Kitô, Đấng đã trở nên nghèo khó và luôn gần gũi với người nghèo và người bị ruồng bỏ, là nền tảng cho mối quan tâm của chúng ta đối với sự phát triển toàn diện của những thành viên bị lãng quên nhất trong xã hội.” [15] Tôi thường tự hỏi, mặc dù giáo huấn của Kinh Thánh rất rõ ràng về người nghèo, tại sao nhiều người vẫn tiếp tục nghĩ rằng họ có thể yên tâm bỏ qua người nghèo. Tuy nhiên, bây giờ, chúng ta hãy tiếp tục suy gẫm về những gì Kinh Thánh nói với chúng ta về mối quan hệ của chúng ta với người nghèo và vị trí thiết yếu của họ trong dân Thiên Chúa.
Lòng thương xót đối với người nghèo trong Kinh Thánh
24. Thánh Tông đồ Gioan viết: “Ai không yêu thương anh em mình mà mình trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà mình không trông thấy” (1 Ga 4:20). Tương tự như vậy, khi trả lời câu hỏi của người thông luật, Chúa Giêsu đã trích dẫn hai điều răn cổ xưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực ngươi” (Đnl 6:5), và “Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình” (Lv 19:18), hợp nhất chúng thành một điều răn duy nhất. Thánh sử Máccô thuật lại câu trả lời của Chúa Giêsu như sau: “Điều răn thứ nhất là: ‘Nghe đây, hỡi Israel: Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: ‘Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình.’ Không có điều răn nào khác lớn hơn hai điều răn đó” (12:29-31).
25. Đoạn trích từ Sách Lê-vi dạy chúng ta phải yêu thương người lân cận, trong khi các văn bản khác lại kêu gọi sự tôn trọng – nếu không muốn nói là yêu thương – ngay cả đối với kẻ thù: “Khi ngươi gặp bò hay lừa của kẻ thù ngươi đi lạc, ngươi phải dắt nó về. Khi ngươi thấy lừa của kẻ ghét ngươi bị thương nặng mà ngươi không muốn cứu, thì ngươi phải giúp đỡ để cứu nó” (Xh 23:4-5). Ở đây, giá trị nội tại của sự tôn trọng người khác được nêu rõ: bất cứ ai gặp khó khăn, ngay cả kẻ thù, luôn xứng đáng được chúng ta giúp đỡ.
26. Lời dạy của Chúa Giêsu về tính ưu việt của tình yêu đối với Thiên Chúa được bổ sung rõ ràng bằng lời khẳng định của Người rằng người ta không thể yêu Thiên Chúa nếu không mở rộng tình yêu thương đối với người nghèo. Tình yêu thương dành cho tha nhân là bằng chứng hữu hình cho thấy tình yêu đích thực của chúng ta dành cho Thiên Chúa, như thánh Tông đồ Gioan đã chứng thực: “Thiên Chúa chưa bao giờ được thấy. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo… Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4,12-16). Hai tình yêu này tuy khác biệt nhưng không thể tách rời. Ngay cả trong những trường hợp không có sự ám chỉ rõ ràng đến Thiên Chúa, chính Chúa Giêsu dạy rằng mỗi hành động yêu thương dành cho tha nhân, theo một cách nào đó, đều phản ảnh đức ái của Thiên Chúa: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
27. Vì lý do này, các việc bác ái được khuyến khích như một dấu chỉ cho thấy sự thờ phượng đích thực, vừa ca ngợi Thiên Chúa, vừa có nhiệm vụ mở lòng chúng ta ra cho sự biến đổi mà Chúa Thánh Thần có thể thực hiện trong chúng ta, để tất cả chúng ta có thể trở thành hình ảnh của Chúa Kitô và lòng thương xót của Người đối với những người yếu đuối nhất. Theo nghĩa này, mối quan hệ của chúng ta với Chúa, được thể hiện trong việc thờ phượng, cũng nhằm mục đích giải thoát chúng ta khỏi nguy cơ sống các mối quan hệ của mình theo luận lý học tính toán và tư lợi. Thay vào đó, chúng ta mở lòng đón nhận sự nhưng không bao quanh những người yêu thương nhau và do đó, chia sẻ mọi thứ làm của chung. Về phương diện này, Chúa Giêsu khuyên: “Khi con đãi tiệc hay đãi khách, đừng mời bạn bè, anh em, bà con hay láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại con, và con được trả lại. Nhưng khi con đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, và con sẽ được phúc, vì họ không có gì trả lại cho con” (Lc 14:12-14).
28. Lời Chúa kêu gọi hãy tỏ lòng thương xót người nghèo đạt đến tuyệt đỉnh trong dụ ngôn vĩ đại về ngày phán xét cuối cùng (x. Mt 25:31-46), có thể là một minh họa sống động về Phúc của người có lòng thương xót. Trong dụ ngôn đó, Chúa trao cho chúng ta chìa khóa để thành toàn cuộc sống; thực vậy, “nếu chúng ta tìm kiếm sự thánh thiện làm đẹp mắt Thiên Chúa, đoạn văn này đưa ra cho chúng ta một tiêu chuẩn rõ ràng mà dựa vào đó chúng ta sẽ bị phán xét.” [16] Những lời rõ ràng và mạnh mẽ của Tin Mừng phải được thực hành “mà không có bất cứ ‘nếu’ hay ‘nhưng’ nào có thể làm giảm bớt sức mạnh của chúng. Chúa chúng ta đã nói rất rõ rằng sự thánh thiện không thể được hiểu hay sống tách biệt khỏi những đòi hỏi này.” [17]
29. Trong cộng đồng Kitô giáo sơ khai, các hành vi bác ái được thực hiện không dựa trên những nghiên cứu sơ bộ hay kế hoạch trước, mà trực tiếp noi theo gương Chúa Giêsu như được trình bày trong Tin Mừng. Thư của Thánh Giacôbê bàn luận sâu sắc về vấn đề mối quan hệ giữa người giàu và người nghèo, và đặt ra cho các tín hữu hai câu hỏi để kiểm tra tính xác thực của đức tin của họ: “Hỡi anh em, nếu anh em nói rằng mình có đức tin mà không có việc làm, thì nào có ích gì? Đức tin có thể cứu anh em được sao? Nếu có anh em hay chị em nào trần truồng và thiếu của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc ấm và ăn cho no’, nhưng anh em lại không cung cấp cho những nhu cầu thể xác của họ, thì điều đó có ích gì? Vậy đức tin tự nó chết, nếu không có việc làm” (2:14-17).
30. Thánh Giacôbê tiếp tục nói: “Vàng bạc của anh em đã rỉ sét, và rỉ sét của chúng sẽ là bằng chứng buộc tội anh em, và nó sẽ ăn mòn xác thịt anh em như lửa. Anh em đã tích trữ kho báu cho những ngày sau hết. Này! Tiền công của những người gặt lúa trên cánh đồng của anh em, mà anh em đã gian lận, đang kêu lên, và tiếng kêu của những người gặt lúa đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. Anh em đã sống trên thế gian này trong xa hoa và lạc thú, anh em đã làm cho lòng mình no nê trong ngày sát hại” (5:3-5). Đây là những lời mạnh mẽ, ngay cả khi chúng ta không muốn nghe chúng! Một lời kêu gọi tương tự có thể được tìm thấy trong Thư thứ nhất của Thánh Gioan: “Nếu ai có của cải thế gian mà thấy anh em mình đang túng thiếu mà lại không giúp đỡ thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được?” (3:17).
31. Sứ điệp của Lời Chúa “rất rõ ràng và trực tiếp, rất giản dị và hùng hồn, đến nỗi không một cách diễn giải nào của Giáo hội có quyền tương đối hóa nó. Việc suy tư của Giáo hội về những văn bản này không nên làm lu mờ hay làm suy yếu sức mạnh của chúng, nhưng thúc giục chúng ta đón nhận những lời khuyên nhủ của chúng với lòng can đảm và nhiệt thành. Tại sao lại phải phức tạp hóa một điều đơn giản như vậy? Các công cụ khái niệm hiện hữu để tăng cường sự tiếp xúc với các thực tại mà chúng muốn giải thích, chứ không phải để tách chúng ta ra khỏi chúng.” [18]
32. Thật vậy, chúng ta thấy một ví dụ rõ ràng trong Giáo hội về việc chia sẻ của cải và chăm sóc người nghèo trong đời sống thường nhật của cộng đồng Kitô giáo đầu tiên. Chúng ta có thể đặc biệt nhớ lại cách thức giải quyết vấn đề phân phát trợ cấp hàng ngày cho các góa phụ (x. Cv 6:1-6). Đây không phải là một vấn đề dễ dàng, một phần vì một số góa phụ này, đến từ các quốc gia khác, đôi khi bị bỏ rơi vì họ là người nước ngoài. Thực thế, câu chuyện được kể lại trong sách Công vụ Tông đồ cho thấy một sự bất mãn nhất định từ phía những người theo văn hóa Hy Lạp, tức những người Do Thái là Hy Lạp theo văn hóa. Các Tông đồ không đáp lại bằng những lời lẽ trừu tượng, mà bằng cách đặt lòng bác ái đối với tất cả mọi người vào trung tâm, tổ chức lại việc hỗ trợ các góa phụ bằng cách yêu cầu cộng đồng tìm kiếm những người khôn ngoan và đáng kính để họ có thể giao phó việc phân phát lương thực, trong khi họ lo việc rao giảng Lời Chúa.
33. Khi Thánh Phaolô đến Giêrusalem để tham khảo ý kiến các Tông đồ, kẻo bằng cách nào đó ngài “phải chạy hoặc đã chạy vô ích” (Gl 2:2), ngài được yêu cầu đừng quên người nghèo (x. (Ga 2:10). Vì vậy, ngài đã tổ chức nhiều cuộc quyên góp khác nhau để giúp đỡ các cộng đồng nghèo. Trong số những lý do khiến Thánh Phaolô thực hiện cử chỉ này, nổi bật là: “Thiên Chúa yêu thương người dâng hiến một cách vui vẻ” (2 Cr 9:7). Lời Chúa nhắc nhở những người trong chúng ta thường không có khuynh hướng làm những cử chỉ từ thiện và vô tư, rằng lòng quảng đại đối với người nghèo thực sự mang lại lợi ích cho những người thực hiện nó: Thiên Chúa có một tình yêu đặc biệt dành cho họ. Thật vậy, Kinh Thánh đầy dẫy những lời hứa dành cho những người rộng lượng cho đi: “Ai thương xót người nghèo là cho Chúa vay mượn, và sẽ được trả lại đầy đủ” (Cn 19:17). “Hãy cho đi, thì sẽ được cho lại... vì anh em đong bằng đấu nào, thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6:38). “Bấy giờ ánh sáng của anh em sẽ bừng lên như rạng đông, và vết thương của anh em sẽ mau lành” (Is 58:8). Về điều này, các Kitô hữu thời kỳ đầu không hề nghi ngờ.
34. Cuộc sống của các cộng đồng giáo hội đầu tiên, được mô tả trong các trang Kinh Thánh và được truyền lại cho chúng ta như Lời Chúa được mặc khải đã được ban cho chúng ta như một mẫu gương để noi theo, nhưng cũng là một chứng tá cho đức tin hoạt động qua đức ái và là nguồn cảm hứng bền bỉ cho các thế hệ mai sau. Qua nhiều thế kỷ, những trang sách ấy đã lay động lòng người Kitô hữu, thúc đẩy họ yêu thương và thực hiện các công việc bác ái, giống như những hạt giống đơm hoa kết trái, không ngừng sinh sôi nảy nở.
CHƯƠNG BA: GIÁO HỘI VÌ NGƯỜI NGHÈO
35. Ba ngày sau khi được bầu làm Giáo hoàng, vị tiền nhiệm của tôi đã bày tỏ với các đại diện truyền thông mong muốn sự quan tâm và chăm sóc dành cho người nghèo được thể hiện rõ nét hơn trong Giáo hội: “Tôi mong ước biết bao một Giáo hội nghèo và vì người nghèo!” [19]
36. Mong muốn này phản ảnh sự hiểu biết rằng Giáo hội “nhận ra nơi những người nghèo và những người đau khổ, sự giống như Đấng sáng lập nghèo khó và đau khổ của nó.” [20] Thật vậy, vì Giáo hội được kêu gọi đồng nhất với những người thấp kém nhất, nên ở cốt lõi của mình “Không thể có chỗ cho sự nghi ngờ hay những lời giải thích làm suy yếu một thông điệp rõ ràng như vậy… Chúng ta phải tuyên bố, không vòng vo, rằng có một mối liên kết không thể tách rời giữa đức tin của chúng ta và người nghèo.” [21] Về phương diện này, chúng ta có rất nhiều chứng tá từ các môn đệ của Chúa Kitô trải dài gần hai thiên niên kỷ. [22]
Những kho tàng đích thực của Giáo Hội
37. Thánh Phaolô kể lại rằng trong số các tín hữu của cộng đồng Kitô giáo sơ khai, không nhiều người “khôn ngoan theo xác thịt, không nhiều người quyền thế, không nhiều người quý tộc” (1 Cr 1:26). Tuy nhiên, bất chấp sự nghèo khó, các Kitô hữu tiên khởi đã ý thức rõ ràng về sự cần thiết phải chăm sóc những người túng thiếu nhất. Ngay từ buổi bình minh của Kitô giáo, các Tông đồ đã đặt tay trên bảy người được chọn từ cộng đồng. Ở một mức độ nào đó, các ngài đã sáp nhập họ vào thừa tác vụ của mình, thiết lập họ để phục vụ — diakonía trong tiếng Hy Lạp — những người nghèo nhất (x. Cv 6:1-5). Điều đáng chú ý là vị tông đồ đầu tiên làm chứng cho đức tin của mình vào Chúa Kitô đến mức đổ máu mình ra chính là Stêphanô, người thuộc nhóm này. Trong ngài, chứng tá chăm sóc người nghèo và chứng tá tử đạo đã kết hợp với nhau.
38. Chưa đầy hai thế kỷ sau, một phó tế khác, Thánh Lôrensô, sẽ chứng minh lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu Kitô theo cách tương tự bằng cách kết hợp việc tử đạo và phục vụ người nghèo. [23] Từ lời kể của Thánh Ambrôsiô, chúng ta biết rằng Thánh Lôrensô, một phó tế ở Rome trong thời Đức Giáo Hoàng Sixtô II, đã bị chính quyền La Mã buộc phải giao nộp kho báu của Giáo hội. "Ngày hôm sau, ông mang theo những người nghèo. Khi được hỏi về nơi cất giữ kho báu đã hứa, ông chỉ vào những người nghèo và nói: 'Đây là kho báu của Giáo hội'." [24] Khi tường thuật sự kiện này, Thánh Ambrosiô hỏi: "Chúa Giêsu có kho báu nào quý giá hơn những kho báu trong đó Người thích biểu lộ mình không?" [25] Và, nhớ rằng các thừa tác viên của Giáo hội không bao giờ được bỏ bê việc chăm sóc người nghèo, càng không được tích lũy của cải vì lợi ích riêng, ngài nói: "Nhiệm vụ này phải được thực hiện với đức tin chân thành và sự tiên liệu khôn ngoan. Chắc chắn, nếu ai đó rút lợi ích cá nhân từ việc này, người đó phạm tội; nhưng nếu người đó phân phát số tiền thu được cho người nghèo hoặc chuộc một tù nhân, người đó thực hiện một công việc thương xót." [26]
Các Giáo Phụ và Người Nghèo
39. Ngay từ những thế kỷ đầu, các Giáo Phụ đã nhận ra nơi người nghèo một con đường ưu tuyển để đến với Thiên Chúa, một con đường đặc biệt để gặp gỡ Người. Lòng bác ái đối với những người túng thiếu không chỉ được xem là một nhân đức luân lý, mà còn là một biểu thức cụ thể của đức tin vào Ngôi Lời Nhập Thể. Cộng đồng tín hữu, được nâng đỡ bởi sức mạnh của Chúa Thánh Thần, bắt nguồn từ việc gần gũi với người nghèo, những người mà họ coi không chỉ là một “phần phụ”, mà là một phần thiết yếu trong thân thể sống động của Chúa Kitô. Chẳng hạn, khi đang trên đường chịu tử đạo, Thánh Inhaxiô thành Antiôkia đã khuyên nhủ cộng đoàn Smyrna đừng sao nhãng bổn phận thực hiện các việc bác ái đối với những người túng thiếu nhất, khuyên nhủ họ đừng hành động như những kẻ chống đối Thiên Chúa. “Nhưng hãy xem những người có quan điểm khác về ân sủng của Chúa Kitô, ân sủng đã đến với chúng ta, họ chống đối thánh ý Thiên Chúa biết bao. Họ không màng đến tình yêu thương; không quan tâm đến góa phụ, trẻ mồ côi, hay người bị áp bức; của người nô lệ, hay của người tự do; của người đói, hay của người khát.” [27] Giám mục Smyrna, Polycarp, đã tuyên bố rõ ràng rằng các thừa tác viên của Giáo hội phải chăm sóc người nghèo: “Và các trưởng lão phải có lòng trắc ẩn và thương xót tất cả mọi người, đưa những người lang thang trở về, thăm viếng tất cả những người bệnh tật, và không bỏ bê góa phụ, trẻ mồ côi hoặc người nghèo, nhưng luôn luôn ‘chu cấp những gì phù hợp trước mắt Chúa và con người’.” [28] Từ hai chứng từ này, chúng ta thấy rằng Giáo hội xuất hiện như một người mẹ của người nghèo, một nơi chào đón và công lý.
40. Về phần mình, Thánh Justinô, người đã gửi Lời biện hộ đầu tiên của mình tới Hoàng đế Adrian, Thượng viện và người dân Rôma, đã giải thích rằng các Kitô hữu mang tất cả những gì họ có thể đến với những người túng thiếu vì họ coi họ là anh chị em trong Chúa Kitô. Viết về cộng đoàn tụ họp cầu nguyện vào ngày đầu tiên của tuần lễ, ngài nhấn mạnh rằng, ở tâm điểm của phụng vụ Kitô giáo, không thể tách rời việc thờ phượng Thiên Chúa khỏi sự quan tâm đến người nghèo. Do đó, tại một thời điểm nhất định trong buổi lễ: “những người giàu có và sẵn lòng đóng góp những gì mỗi người cho là phù hợp; và số tiền thu được sẽ được gửi cho vị chủ tọa, người cứu giúp trẻ mồ côi và góa phụ, những người vì bệnh tật hoặc bất cứ lý do nào khác mà thiếu thốn, những người bị trói buộc, và những người lạ mặt đang lưu trú giữa chúng ta, và nói tóm lại là chăm sóc tất cả những người đang túng thiếu.” [29] Điều này chứng tỏ rằng Giáo hội sơ khai đã không tách biệt đức tin khỏi hành động xã hội: đức tin không có chứng tá bằng hành động cụ thể bị coi là chết, như Thánh Giacôbê đã dạy chúng ta (x. 2:17).
Thánh Gioan Kim Khẩu
41. Trong số các Giáo Phụ Đông Phương, có lẽ nhà thuyết giảng nhiệt thành nhất về công lý xã hội là Thánh Gioan Kim Khẩu, Tổng Giám mục Constantinople từ cuối những năm 300 đến đầu những năm 400. Trong các bài giảng của mình, ngài đã khuyên nhủ các tín hữu nhận ra Chúa Kitô nơi những người thiếu thốn: “Anh chị em có muốn tôn vinh thân thể Chúa Kitô không? Đừng để thân thể ấy bị khinh miệt nơi các chi thể của nó, tức là nơi những người nghèo, những người không có quần áo để che thân. Đừng tôn vinh thân thể Chúa Kitô ở đây trong nhà thờ bằng vải lụa, trong khi bên ngoài anh chị em lại bỏ bê khi thân thể ấy chịu lạnh và trần truồng… [Thân thể Chúa Kitô trên bàn thờ] không cần áo choàng, nhưng cần tâm hồn trong sáng; trong khi thân thể bên ngoài cần được chăm sóc nhiều. Vì vậy, chúng ta hãy học cách nghĩ và tôn vinh Chúa Kitô như Người mong muốn. Vì sự tôn vinh đẹp lòng nhất mà chúng ta có thể dành cho người mà chúng ta muốn tôn kính là làm điều Người mong muốn, chứ không phải điều chúng ta nghĩ ra… Vì vậy, anh chị em cũng vậy, hãy tôn vinh Người như Người đã truyền dạy, và để người nghèo được hưởng lợi từ sự giàu có của anh chị em. Thiên Chúa không cần những chiếc bình bằng vàng, mà cần những tâm hồn bằng vàng.” [30] Khẳng định rõ ràng rằng, nếu các tín hữu không gặp gỡ Chúa Kitô nơi những người nghèo đứng ngoài cửa, họ sẽ không thể thờ phượng Người ngay cả tại bàn thờ, ngài tiếp tục: “Chúa Kitô được lợi gì nếu bàn tiệc thánh chất đầy những bình vàng, trong khi chính Người chết đói trong con người của người nghèo? Hãy cho người đói ăn trước, rồi sau đó mới trang hoàng bàn thờ bằng những gì còn lại.” [31] Do đó, ngài hiểu Bí tích Thánh Thể là một biểu hiện bí tích của lòng bác ái và công lý, vốn đã có trước và đi kèm với Bí tích này. Cũng chính lòng bác ái và công lý đó phải duy trì Bí tích Thánh Thể qua tình yêu và sự quan tâm đến người nghèo.
42. Do đó, bác ái không phải là tùy chọn mà là một yêu cầu của sự thờ phượng đích thực. Thánh Chrysostom đã kịch liệt lên án sự giàu có quá mức gắn liền với sự thờ ơ đối với người nghèo. Sự quan tâm dành cho họ, chứ không chỉ là một yêu cầu xã hội, là một điều kiện cho sự cứu rỗi, điều này mang lại cho sự giàu có bất chính một sức nặng đáng lên án. “Trời rất lạnh và người nghèo nằm trong giẻ rách, hấp hối, lạnh cóng, run rẩy, với vẻ ngoài và quần áo khiến bạn phải xúc động. Nhưng bạn, mặt đỏ bừng và say xỉn, vẫn đi ngang qua. Và làm sao bạn mong Thiên Chúa giải thoát bạn khỏi bất hạnh?... Bạn thường tô điểm cho một xác chết vô cảm, không còn biết đến danh dự, bằng nhiều bộ quần áo dát vàng sặc sỡ. Vậy mà bạn lại khinh thường người đang cảm thấy đau đớn, đang bị xé nát, bị hành hạ, bị giày vò bởi đói khát và giá lạnh.” [32] Ý thức sâu sắc về công lý xã hội này dẫn dắt ngài khẳng định rằng “không cho người nghèo là ăn cắp của họ, là lừa gạt mạng sống của họ, bởi vì những gì chúng ta có là của họ.” [33]
Thánh Augustinô
43. Người hướng dẫn tinh thần của Augustinô là Thánh Ambrosiô, người đã nhấn mạnh đến yêu cầu đạo đức về việc chia sẻ của cải vật chất: “Những gì bạn cho người nghèo không phải là tài sản của bạn, mà là của họ. Tại sao bạn lại chiếm đoạt những gì được cho để sử dụng chung?” [34] Đối với Giám mục Milan, bố thí là sự khôi phục công lý, chứ không phải là một cử chỉ cha chú. Trong lời giảng dạy của mình, lòng thương xót mang tính tiên tri: ngài lên án những cơ cấu tích trữ của cải và tái khẳng định sự hiệp thông là ơn gọi của Giáo hội.
44. Được đào tạo trong truyền thống này, vị Giám mục thánh thiện của Hippo đã dạy về tình yêu thương ưu tiên dành cho người nghèo. Là một mục tử tỉnh thức và một nhà thần học với sự sáng suốt hiếm có, ngài nhận ra rằng sự hiệp thông đích thực của Giáo hội cũng được phát biểu qua việc hiệp thông của cải. Trong cuốn Chú giải Thánh Vịnh, ngài nhắc nhở chúng ta rằng những Kitô hữu đích thực không bao giờ lơ là tình yêu thương đối với những người túng thiếu nhất: “Khi quan tâm đến anh chị em mình, anh em biết họ có thiếu thốn hay không, nhưng nếu Chúa Kitô ngự trong anh em, thì anh em cũng hãy bác ái với người xa lạ.” [35] Do đó, việc chia sẻ của cải này bắt nguồn từ đức ái đối thần và có mục đích cuối cùng là tình yêu của Chúa Kitô. Đối với Thánh Augustinô, người nghèo không chỉ là những người cần được giúp đỡ, mà còn là sự hiện diện bí tích của Chúa.
45. Vị Tiến sĩ Ân sủng này coi việc chăm sóc người nghèo là bằng chứng cụ thể cho sự chân thành của đức tin. Bất cứ ai nói rằng họ yêu Thiên Chúa và không có lòng thương xót đối với người nghèo khó đều là nói dối (x. 1 Ga 4:20). Khi bình luận về cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu với người thanh niên giàu có và “kho tàng trên trời” dành riêng cho những ai cho đi của cải của mình cho người nghèo (x. Mt 19:21), Thánh Augustinô đã đặt những lời sau vào miệng Chúa: “Ta đã nhận được đất, Ta sẽ ban tặng thiên đàng; Ta đã nhận được của cải trần gian, Ta sẽ ban tặng của cải vĩnh cửu; Ta đã nhận được bánh, Ta sẽ ban tặng sự sống… Ta đã được tiếp đãi, nhưng Ta sẽ cho một mái ấm; Ta đã được thăm viếng khi Ta đau yếu, nhưng Ta sẽ ban tặng sức khỏe; Ta đã được thăm viếng trong tù, nhưng Ta sẽ ban tặng tự do. Bánh mà các ngươi đã ban cho người nghèo của Ta đã được tiêu thụ, nhưng bánh Ta sẽ ban tặng không chỉ làm tươi mát các ngươi, mà còn sẽ không bao giờ cạn kiệt.” [36] Đấng Toàn Năng sẽ không chịu thua kém về lòng quảng đại đối với những ai phục vụ những người túng thiếu nhất: tình yêu dành cho người nghèo càng lớn, phần thưởng từ Thiên Chúa càng lớn.
46. Quan điểm lấy Chúa Kitô làm trung tâm và mang tính giáo hội sâu sắc này dẫn chúng ta đến việc khẳng định rằng các lễ vật, khi xuất phát từ tình yêu, không chỉ làm giảm bớt nhu cầu của anh chị em mình, mà còn thanh tẩy tâm hồn người cho, nếu người ấy sẵn lòng thay đổi. Thật vậy, theo lời của Ngụy-Augustinô [Pseudo-Augustine]: “Việc bố thí có thể mang lại lợi ích cho bạn trong việc xóa bỏ tội lỗi quá khứ, nếu bạn đã sửa đổi đường lối của mình.” [37] Có thể nói, đó là con đường thông thường dẫn đến sự hoán cải cho những ai muốn theo Chúa Kitô với một trái tim không chia rẽ.
47. Trong một Giáo hội nhìn nhận người nghèo là khuôn mặt của Chúa Kitô và của cải vật chất là khí cụ của đức ái, tư tưởng của Thánh Augustinô vẫn là một ánh sáng chắc chắn. Ngày nay, lòng trung thành với giáo huấn của Thánh Augustinô không chỉ đòi hỏi việc nghiên cứu các tác phẩm của ngài, mà còn đòi hỏi sự sẵn sàng sống triệt để lời kêu gọi hoán cải của ngài, điều này tất yếu bao gồm việc phục vụ bác ái.
48. Nhiều Giáo phụ khác của Giáo hội, cả Đông phương lẫn Tây phương, đã nói về vị trí ưu tiên của việc quan tâm đến người nghèo trong đời sống và sứ mệnh của mỗi Kitô hữu. Tóm lại, từ quan điểm này, có thể nói rằng thần học giáo phụ rất thực tiễn, hướng đến một Giáo hội nghèo và vì người nghèo, nhắc nhở rằng Tin Mừng chỉ được loan báo đúng đắn khi thúc đẩy chúng ta chạm đến thân xác của những người bé mọn nhất, và cảnh báo rằng sự cứng ngắc về giáo lý mà không có lòng thương xót chỉ là lời nói suông.
Chăm sóc người bệnh
49. Lòng cảm thương Kitô giáo đã được biểu lộ một cách đặc biệt trong việc chăm sóc người bệnh và người đau khổ. Dựa trên những dấu chỉ hiện diện trong sứ vụ công khai của Chúa Giêsu — việc chữa lành người mù, người phong cùi và người bại liệt — Giáo hội hiểu rằng việc chăm sóc người bệnh, nơi họ, Giáo hội dễ dàng nhận ra Chúa Kitô chịu đóng đinh, là một phần quan trọng trong sứ mệnh của mình. Trong một trận dịch hạch ở thành Carthage, nơi ngài làm Giám mục, Thánh Cyprianô đã nhắc nhở các Kitô hữu về tầm quan trọng của việc chăm sóc người bệnh: “Cơn dịch bệnh và bệnh dịch này, dường như rất khủng khiếp và chết chóc, đã tìm kiếm sự công chính của mỗi người, và xem xét tâm trí của nhân loại, để xem liệu người khỏe mạnh có phục vụ người bệnh hay không; liệu họ hàng có yêu thương nhau chân thành hay không; liệu các chủ nhân có thương xót những người hầu bị bệnh hay không; liệu các bác sĩ có bỏ rơi những người bệnh đang cầu xin sự giúp đỡ hay không.” [38] Truyền thống Kitô giáo thăm viếng người bệnh, rửa vết thương và an ủi người đau khổ không chỉ đơn thuần là một nỗ lực từ thiện, mà là một hành động của Giáo hội, qua đó các thành viên của Giáo hội “chạm vào thân xác đau khổ của Chúa Kitô.” [39]
50. Vào thế kỷ XVI, Thánh Gioan Thiên Chúa đã thành lập Dòng Bệnh viện mang tên ngài, xây dựng những bệnh viện kiểu mẫu chào đón tất cả mọi người, bất kể địa vị xã hội hay kinh tế. Câu nói nổi tiếng của ngài, “Hãy làm điều tốt, hỡi anh em của tôi!” đã trở thành phương châm cho hoạt động bác ái tích cực đối với người bệnh. Cùng thời gian đó, Thánh Camillus de Lellis đã thành lập Dòng Thừa Tác Viên Bệnh Nhân — Dòng Camillian — với sứ mệnh phục vụ người bệnh bằng tất cả sự tận tụy. Luật dòng của ngài truyền dạy: “Mỗi người hãy cầu xin Chúa ban cho mình một tình mẫu tử đối với tha nhân để chúng ta có thể phục vụ họ với tất cả lòng bác ái, cả tâm hồn lẫn thể xác, bởi vì, với ân sủng Thiên Chúa, chúng ta mong muốn phục vụ tất cả những người bệnh với tình thương của một người mẹ yêu thương dành cho đứa con duy nhất đang đau yếu của mình.” [40] Trong các bệnh viện, trên chiến trường, trong nhà tù và trên đường phố, các nữ tu dòng Camillian đã hiện thân lòng thương xót của Chúa Kitô, Đấng Y Sĩ.
51. Chăm sóc người bệnh với tình mẫu tử, như người mẹ chăm sóc con mình, nhiều phụ nữ tận hiến đã đóng một vai trò thậm chí còn lớn lao hơn trong việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người nghèo. Dòng Nữ Tử Bác Ái Thánh Vincent de Paul, các Nữ Tu Bệnh Viện, các Nữ Tu Nhỏ của Chúa Quan Phòng, và nhiều hội dòng nữ khác đã trở thành một sự hiện diện mẫu tử và kín đáo trong các bệnh viện, viện dưỡng lão và viện hưu trí. Họ đã mang đến sự an ủi, lắng nghe, hiện diện, và trên hết là sự dịu dàng. Họ đã xây dựng, thường bằng chính đôi tay mình, các cơ sở chăm sóc sức khỏe ở những vùng thiếu thốn sự hỗ trợ y tế. Họ dạy về vệ sinh, hỗ trợ sinh nở và điều trị y khoa với sự khôn ngoan tự nhiên và đức tin sâu sắc. Nhà cửa của họ trở thành những ốc đảo của phẩm giá, nơi không ai bị loại trừ. Sự chạm đến của lòng trắc ẩn chính là liều thuốc đầu tiên. Thánh Louise de Marillac đã viết cho các chị em của mình, Dòng Nữ Tử Bác Ái, nhắc nhở họ rằng “họ đã được Thiên Chúa chúc phúc cách đặc biệt vì đã phục vụ những người nghèo bệnh tật trong các bệnh viện.” [41]
52. Ngày nay, di sản này vẫn tiếp tục trong các bệnh viện Công Giáo, các cơ sở chăm sóc sức khỏe ở vùng sâu vùng xa, các phòng khám hoạt động trong rừng rậm, các nhà tạm trú cho người nghiện ma túy và các bệnh viện dã chiến ở vùng chiến sự. Sự hiện diện của Kitô hữu giữa những người bệnh cho thấy rằng ơn cứu độ không phải là một ý tưởng trừu tượng, mà là hành động cụ thể. Trong hành động chữa lành vết thương, Giáo hội tuyên xưng rằng Vương quốc Thiên Chúa bắt đầu từ những người dễ bị tổn thương nhất. Khi làm như vậy, Giáo hội luôn trung thành với Đấng đã phán: “Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng Ta” (Mt 25:36). Khi Giáo hội quỳ gối bên một người phong cùi, một đứa trẻ suy dinh dưỡng hay một người hấp hối vô danh, Giáo hội đã thực hiện ơn gọi sâu xa nhất của mình: yêu mến Chúa nơi Người bị biến dạng nhất.
Còn 1 kỳ