Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh
Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước
Tiết Một: Ngũ Kinh [tiếp theo]
(4) Chương bốn: Sách Lê-vi
Thomas Hieke,
The Jerome Biblical Commentary for the twenty-first Century 281-285
Tài liệu Tham khảo
Brenner, Athalya và Archie Chin Chung (hiệu đính) Leviticus and Numbers [Sách Lê-vi và Dân số]. Texts @ Contexts. Minneapolis: Fortress, 2013
Dewrell, Heath D. Child Sacrifice in Ancient Israel (Hiến tế trẻ em tại Israel xưa]. Winona Lake, IN: Eisenbrauns, 2017.
Erbele-Kuster, Dorothea. Body, Gender and Purity in Leiviticus 12 and 15 [Thân xác, Phái tính và sự Trong sạch tại Sách Lê-vi 12 và 15]LHB/OTS 539. New York and al.: Bloomsbury, 2017.
Gane, Roy E. Cult and Character: Purification Offerings, Day of Atonement, and Theodicy [Phụng tự và Tính cách: Lễ Dâng Thanh Tẩy, Ngày Xá Tội, và thần lý học]. Winona Lake, IN: Eisenbrauns, 2005.
Gilder, William K. Blood Ritual in the Hebrew Bible, Meaning and Power [Nghi thức Máu trong Kinh thánh Do Thái. Ý nghĩa và Sức mạnh]. Baltimore: The John Hopkins University Press, 2004.
Hieke, Thomas. Levitikus. 2 Vols. Herders Theologischer Kommentar zum Alten Testament. Freiburg i.Br.:Herder, 2014.
Hieke, Thomas. “The Hohibition of Transferring an Offspring to ‘the Molech:’ No Child Sacrifice in Leviticus 18 and 20.” In Writing a Commentary on Leviticus. [“Việc cấm chuyển giao một đứa con cho ‘Molech’: không có Hiến tế Trẻ em trong sách Lê-vi 18 và 20” trong Viết Bình luận về Sách Lê-vi]. FRLANT 276. Hiệu đính bởi Christian Eberhart và Thomas Hieke, 171-99. Gottingen:Vandenhoeck & Ruprecht, 2019.
Hieke, Thomas and Tobias Nicklas, hiệu đính, The Day of Atonement. Its Interpretations in Early Jewish and Christian Traditions. Themes in Biblical Narrative 15 [Ngày Xá tội. Các Giải thích trong các Truyền thống tiên khởi Do Thái giáo và Ki-tô giáo. Các Đề tài trong trình thuật Kinh thanh 15]. Leiden/Boston: Brill, 201.
Hundley, Michael B. Keeping Heaven on Earth. Safeguarding he Divine Presence in the Priestly Tabernacle [Giữ Thiên đàng trên Mặt Đất. Bảo toàn sự Hiện diện của Thiên Chúa trong Nhà tạm Tư tế]. FAT/II/5o. Tubingen: Mohr Siebeck, 2011.
Kamionkowski, S. Tamar. Leviticus. Wisdom Commentary 3. Collegeville., MN: Litugical Press, 2018.
Knohl, Israel.The Sanctuary of Silence. The Priestly Torah and the Holiness School [Cung thánh Im lặng. Tô-ra Tư tế và Trường Phái Thánh Thiện]. Minneapolis: Fortress Press, 1995.
Leuchter, Mark. “The Politics of Ritual Rhetoric. A Proposed Sociopolitical Context for the Redaction of Leviticus 1-16” [Nền Chính trị của Tu từ Nghi lễ. Một bối cảnh xã hội chính trị được Đề nghị cho việc soạn thảo Sách Lê-vi 1-16]. VT 60 (2010) 345-65.
Levine, Baruch A. Leviticus. JPSTC. Philadelphia/New York/Jerusalem: Jewish Publication Society, 1989.
Liss, Hanna. “Ritual Purity and the Construction of Identity: The Literary Function of the Law of Purity in the Book of Leviticus” in The Books of Levitcus and Numbers [Sự trong sạch nghi lễ và việc Xây dựng Căn tính: Chức năng Văn chương của Luật Trong sạch trong sác Lê-vi và Dân số]. BETL 215. Hiệu đính bởi Thomas Romer, 329-54. Leuven. Peeters, 2008.
Milgrom, Jacob. Leviticus 1-16; Leviticus 17-22; Leviticus 23-27. AB3; AB3A; AB3B. New York:Doubleday, 1991;2000; 2001.
Nihan, Christophe. From Priestly Torah to Pentateuch: A Study in the Composition of the Book of Leviticus [Từ Tô-ra Tư tế tới Ngũ kinh: nghiên cứu trong việc soạn thảo Sách Lê-vi]. FATII/25. Tubingen: Mohr Siebeck, 2007.
Rendtorff, Rolf and Robert A. Kugler, hiệu đính. The Book of Leviticus. Composition and Reception [Sách Lê-vi. Việc Soạn thảo và Tiếp nhận]. VT. S 93. Leiden: Brill, 2003.
Romer, Thomas, hiệu đính, The Books of Leviticus and Numbers. BETL 215. Leuven: Peeters, 2008.
Rooke, Deborah W. “Leviticus from a Gendered Perspective: Making and Maintaining Priests” in Torah and Tradition [Sách Lê-vi từ viễn ảnh phái tính hóa: Tạo và duy trì các Tư tế trong Tôra và Truyền thống]. Oudtestamentische Studies 70. Hiệu đính bởi Klaas Spronk and Hans Barstad, 201-222. Leiden, Boston: Brill, 2017.
Sawyer, John F.A. hiệu đính, Reading Leviticus: A Conversation with Mary Douglas [Đọc Sách Lê-vi: cuộc đàm thoại với Mary Douglas]. JSOT. S 227. Sheffield: Sheffield Academic Press, 1996.
Schellenberg, Annette. “More than Spirit. On the Physical Dimention in the Priestly Understanding of Holiness,” [Hơn cả Tinh thần. Chiều kích Thể lý trong việc Tư tế Hiểu sự Thánh thiện]. ZAW 126 (2014): 163-179.
Sklar, Jay, Sin, Impurity, Sacrifice, Atonement: The Priestly Conceptions [Tội lỗi, Hy Lễ, Xá Tội: Các Quan niệm Tư tế]. Hebrew Bible Monographs 2. Sheffield: Sheffield Phoenix Press, 2005.
Stokl Ben Ezra, Daniel. The Impact of the Yom Kippur on Early Christianity. The Day of Atnement from Second Temple Judaism to the Fifth Century [Tác động của Ngày xá Tội lên Ki-tô giáo tiên khởi. Ngày Xá Tội từ Do thái giáo thời Đền thờ Thứ hai tới Thế kỷ thứ Năm]. WUNT 163. Tubingen: Mohr Siebeck, 2003.
Watts, James W. Leviticus 1-10. Historical Commentary on the Old Testament. Leuven/Paris/Walpole, MA: Peeters, 2013.
Wevers, John William. Notes on the Greek Text of Leviticus [Ghi chú về Bản Hy Lạp của Sách Lê-vi]. Septuagint and Cognate Studies 44. Atlanta: Scholars Press, 1997.
Wright, David P. The Disposal of Impurity. Elimination Rites in the Bible and in Hittite and Mesopotamian Literature [Việc vứt bỏ dơ dáy. Các Nghi thức loại bỏ trong Kinh Thánh và trong văn chương Hít-tít và Lưỡng Hà]. Atlanta: Scholars Press,1987.
Dẫn nhập
Tên
Tên của sách có ý nói tới các tư tế của Israel, họ vốn thuộc chi tộc Lê-vi (Xem Đnl 17:9, 18; 18:1; Malakhi 2:4-7). Sách Lê-vi chứa các giáo huấn về phụng tự và các nghi thức mà các tư tế phải thi hành tại cung thánh nhưng sách cũng chứa nhiều bài học được các tư tế sử dụng để dạy dỗ dân Israel, những người dân thường (xem Lv 10:10-11). Israel sẽ trở thành vương quốc tư tế và một quốc gia thánh thiện (Xh 19:5-6). Truyền thống Do Thái gọi sách bằng chữ đầu tiên của nó wayyiqrā, Người (Chúa) gọi (Mô-sê).
Thính giả
Ý niệm văn chương tổng quan của Sách trở nên nổi bật ngay ở những câu đầu tiên (xem Lv 1:1-2): Chúa ra lệnh cho Mô-sê dạy Dân Do Thái một số thủ tục phụng tự. Nhờ phương tiện trình thuật này, các tác giả tư tế trình bầy giáo huấn của họ như lời của Thiên Chúa. Nó không được sửa chữa bậy bạ, và chính các tư tế bị ràng buộc vào đó. Các cụm từ dẫn nhập ở Lv 1:1-2 được lặp lại nhiều lần trong sách, ngỏ với người Israel và/hoặc Aaron và con cái ông, các tư tế. Sách Lê-vi không phải là sách bí quyết riêng cho giai cấp tư tế ưu tú mà thôi, nhưng toàn dân phải biết điều các tư tế có nghĩa vụ phải làm (và không nên làm) và những gì mọi người Israel phải tuân giữ để trở nên hoặc mãi “thánh thiện”. Việc tiếp tục cụm từ ở Lv 1:2: “Khi bất cứ ai [tiếng Do Thái, ādām, hữu thể nhân bản) trong các ngươi mang một lễ dâng” cho thấy tín hữu thường, đàn ông cũng như đàn bà, đều dâng hy lễ, và bản văn dạy họ những điều họ và những điều các tư tế phải làm trong nghi thức. Do đó, sách cầm tay của các tư tế cũng được dùng như sách giáo khoa để giáo dục toàn dân. Ngay những đoạn mở đầu bằng việc nói các hướng dẫn cho Aaron và các tư tế gần như lưu ý rằng các giáo huấn này cố ý được dành cho toàn thể người Israel (xem chẳng hạn Lv 6-7;16;21). Việc tiếp cận phụng tự rộng mở này phân biệt dân và Kinh thánh Israel khỏi các nền văn hóa và tôn giáo khác (Milgrom 143-4). Các hướng dẫn có lẽ được đọc to cho công chúng trong cộng đồng Do Thái hậu lưu đầy (xem bên dưới).
Đối với Do Thái Giáo, việc học hỏi các lề luật của sách Lê-vi là việc nằm ở trung tâm sở học của các rabbi. Sách Midrash giải thích luật lệ về Lê-vi được gọi là sifra, “Sách” và sách thu thập luật lệ Misnah đã dẫn khởi một số luận văn từ sách Lê-vi. Như thế, ngay cả sau việc phá hủy Đền Thờ vào năm 70 CN và việc ngưng dâng hy lễ, nhiều qui định vẫn còn được thi hành trong đời sống của người Do Thái cho tới tận ngày nay, như phần lớn luật lệ ăn uống, các nghi thức lễ hội, các luật lệ qui định tính dục, hôn nhân và cuộc sống gia đình, ngày Sa-bát v.v... Tuy nhiên, các ý niệm nòng cốt của sách Lê-vi, thông đạt với Thiên Chúa, hòa giải và xá tội, bắt đầu mới sau khi phạm tội và ăn năn, cũng có liên quan đối với các Ki-tô hữu.
Cơ cấu văn chương
Sách Lê-vi gồm 7 phần lớn với một trung tâm.
(1). Lê-vi 1-7 mô tả các kiểu hy lễ.
(2). Lê-vi 8-10 tiến hành việc phong chức các tư tế và buổi phụng tự đầu tiên cho thấy Thiên Chúa chấp nhận các lễ dâng, trong khi Lv 10 suy nghĩ về các lộn xộn đáng kể và vai trò các tư tế.
(3). Các chương 11-15 kể ra một số hoàn cảnh làm cho một người Do Thái hay một tư tế và không thể tham dự việc phụng tự: giáo huấn về sự trong sạch và không trong sạch theo nghi lễ.
(4) Việc hòa giải theo phụng tự như việc Thiên Chúa ban hồng phúc ơn thánh tạo nên trung tâm cuốn sách và do đó, trung tâm toàn thể Tôra: Ngày Xá tội (Lv 16; lễ yom hakkippurim theo Lv 23:27) và các hướng dẫn chủ yếu về tính thánh thiêng của máu (Lv 17). Ba phần cuối cùng suy tư về việc thực thi sự thánh thiện của phụng tự trong đời sống hàng ngày.
(5). Lêvi 18-20 đưa ra các qui luật về tính dục và hôn nhân cũng như nhiều vấn đề đạo đức học khác.
(6) Lêvi 21-22 chứa các hướng dẫn về sự thánh thiện của các tư tế, thượng tế và các con vật hy tế.
(7) Lêvi 23-27 nói tới các qui luật về sinh hoạt cộng đồng của dân Do Thái với Thiên Chúa, bao gồm các ngày lễ (23), sự hiện diện của người Do Thái trong cung thánh và của Chúa trong đời sống hàng ngày của Israel (24), các cung cấp để giảm nghèo (25), các lời hứa, đe dọa và khả thể một khởi đầu mới (26), và, trong một phụ lục, việc hỗ trợ tài chánh cho cung thánh (27).
Lịch sử soạn tác
Cuốn sách bộc lộ hai ý niệm tương tự nhưng khá khác nhau phát xuất từ các giới tư tế khác nhau (Hieke, Levitikus, 66-74). Biên giới trải dài giữa Lê-vi 16 và 17. Tuy nhiên, một số mách bảo nhất là trong chương 16 nối liền hai nửa với nhau. Giới học giả gán Lv 1-16 cho Luật Tư Tế P (hay cho bổ sung thứ hai Pˢ của nó), trong khi nửa phần sau được gọi là “luật thánh thiện”. Danh xưng sau phát xuất từ câu chủ chốt Lv 19:2, “Hãy thánh thiện, vì Ta, Chúa Thiên Chúa của ngươi, thánh thiện". Luật thánh thiện (H) không phải là một bộ phận riêng biệt (Nihan 546, 616) nhưng là một soạn tác biên tập các chất liệu truyền thống để bổ sung quan điểm tư tế về phụng tự với một viễn ảnh khác. H giả thiết P cũng như cốt lõi của luật đệ nhị luật (Đnl 12-26) và nhằm tái giải thích, tái duyệt, và bổ sung các lề luật xưa hơn. Ý niệm thần học của sự “thánh thiện” của cộng đồng như một phương tiện để thông đạt với thần thánh (Lv 19:2) không thay thế việc phụng tự hy tế ở cung thánh nhưng bổ sung cho nó. Sự thánh thiện và trong sạch của các hy lễ, tư tế, bàn thờ, và cung thánh phải thấm nhiễm đời sống người Do Thái. Như thế toàn thể Israel, chứ không phải chỉ có cung thánh ở Giêrusalem, phải đại diện cho sự thánh thiện của Thiên Chúa giữa lòng thế giới. Ý niệm thần học này phát xuất từ một giới tư tế, giới được gọi là “Trường phái Thánh thiện”. Nhóm này khai triển mối nối kết gần gũi giữa đời sống hàng ngày và tôn giáo.
Các nhà soạn tác và truyền phát chất liệu mà sau này trở thành sách thứ ba của Tô-ra phần lớn có lẽ là các tư tế, và do đó, là các đàn ông. Không có bất cứ dấu vết nào về “tiếng nói phụ nữ”. Ngay trong các phần nhắc đến các chủ điểm hoàn toàn liên hệt với phụ nữ (như Lv 12: sinh nở; Lv 15: kinh nguyệt); quan điểm nam giới nổi bật suốt cuốn sách (xem, chẳng hạn, Rooke). Điều này không nhất thiết có nghĩa một sự hạ giá phụ nữ. Phụ nữ có thể thực hành mọi phần của nghi thức mà những người đàn ông không phải là tư tế được phép thực hành và hạn từ Do Thái ʼādām (hữu thể nhân bản) và nepeš (linh hồn, người) vận hành như một ngôn ngữ trung lập về phái tính.
Các tác giả và soạn giả tư tế là các nhà thần học nhằm tìm trật tự và ý nghĩa cho thế giới trước mắt họ và muốn cung cấp cho cử tọa của họ sự an toàn và tín thác vào Thiên Chúa (Hieke, Levitikus, 72). Các soạn giả của nửa phần đầu tập chú vào cung thánh (đền thờ) và các định chế của nó. Các tác giả của phần hai cố gắng thực thi sự thánh thiện, trật tự, và sự ổn định trong cuộc sống hàng ngày của dân chúng. Các tư tế bảo đảm thu nhập, cuộc sống, tư thế, và danh dự của họ hơn một lần và coi chúng như các định chế thần linh. Tuy nhiên, sách Lê-vi không phải lý thuyết bí mật của giai cấp ưu tú tư tế mà là hiến pháp tôn giáo và đạo đức có tính trói buộc đối với cả các tư tế lẫn người dân thường. Nó là chương tình thành văn cho một không tưởng thánh thiện (xem, chẳng hạn, Liss). Người ta phải cẩn thận khi kết luận liên quan tới thực tại lịch sử xã hội.
Niên đại
Niên đại khả hữu của lần soạn tác cuối cùng của Lê-vi 1-16 là vào thời Nơ-khe-mi-a giữa thế kỷ thứ 5 TCN. Chống với xu hướng của Nơ-khe-mi-a phi tư tế trong việc thiết lập các thầy Lê-vi như thầy dạy và viên chức, các luật lệ phụng tự của sách Lê-vi 1-16 xác định các tư tế dòng Aaron như những trung gian hợp pháp duy nhất của truyền thống và nghi lễ tôn giáo (Leuchter, 363). Các ý niệm của Trường Phái Thánh Thiện cho thấy việc soạn tác ấn bản đầu tiên của Tô-ra diễn ra vào hậu bán thế kỷ thứ năm (Nihan, 575).
Thế kỷ thứ năm với cộng đồng Do Thái nhỏ ở tỉnh Yehud của Ba-Tư quanh Giêrusalem cung cấp một khung cảnh đáng tin cậy cho nguồn gốc của Sách Lê-vi. Các qui định giả thiết một xã hội tĩnh tại với một truyền thống lễ hội nông nghiệp có nhiều biến cố quan trọng và sự hợp tác của số dân nông thôn và thành thị điều hành một đền thờ với một nền văn hóa dị biệt hóa cao độ. Một niên đại vào thời Mô-sê trong thiên niên kỷ thứ hai kém cơ sở hơn nhiều.
Hy lễ, lễ dâng
Tiếng Anh, sacrifice, mô tả một điều giống như “làm cho thánh thiện” và offering, “dâng (cho thần linh)”. Cả hai ý niệm nhấn mạnh đến các khía cạnh quan trọng của nền thần học của sách Lê-vi. Con vật (hoặc, trong một số trường hợp, số lượng bột, xem Lv 2) để dâng hy lễ được tách biệt khỏi thế giới tầm thường và dành cho lãnh vực thần linh (đây là nghĩa của việc “làm cho thánh thiện”). Nó được dâng cho thần linh bằng cách thiêu rụi trên bàn thờ. Do đó, chữ Do Thái ʼiššeh (dâng hiến, theo từng chữ: lễ dâng qua lửa) được dùng như một hạn từ tổng quát chỉ hy lễ như món quà dâng lên thần linh. Hạn từ tổng quát qorbān dẫn khởi từ gốc nói lên ý niệm tiến lại gần (thần linh) trong khi đem đến một vật gì đó. Mục đích của hy lễ xuất hiện ở Lv 1:3-4. Mục đích là tìm được ơn huệ của Chúa, xin Người chấp nhận lễ dâng để xá tội cho người dâng nó. Hy lễ biểu lộ và tái thiết lập thông đạt với thần linh. Như sách Lê-vi trình bầy mệnh lệnh như lời Thiên Chúa truyền cho Mô-sê, Thiên Chúa cung cấp cho dân của Người cách thông đạt với Người. Thiên Chúa chỉ cách phải loại bỏ ra sao mọi vấn đề phân cách con người với Thiên Chúa hay làm rối loạn việc thông đạt (“tội lỗi” theo nghĩa rất rộng).
Xá tội
Xá tội (atonement) là một thuật ngữ nặng tính thần học để dịch chữ Do Thái kipper. Khoảng 53 phầm trăm trong tất cả những lần nó xuất hiện, đã xuất hiện trong sách Lê-vi. Dịp đầu tiên trong diễn trình đọc Kinh thánh Do Thái mang lại cho ta chìa khóa để hiểu nó, là sách Sáng Thế 32:21. Gia-cóp lý luận trước khi gặp Ê-sau lần chót, “Nếu ta cho tặng phẩm này đi trước để làm cho anh ấy nguôi giận (tiếng Do Thái, kipper); thì sau đó ta sẽ giáp mặt anh ấy và may ra anh ấy sẽ nể ta.” Không nên coi lời dịch “nguôi giận” như hàm ý việc Gia-cóp mưu toan thao túng Ê-sau một lần nữa. Đúng hơn, Gia-cóp loay hoay tìm cách loại bỏ mọi điều phân rẽ ông khỏi việc làm hòa bình an với anh ông bằng một tặng phẩm và với niềm hy vọng mong manh là Ê-sau “may ra” sẽ tha thứ cho ông. Về phần mình, Ê-sau hoàn toàn tự do và có chủ quyền ban sự tha thứ hay không. Việc sắp xếp điển hình giữa hai hữu thể nhân bản này rõi ánh sáng lên diễn trình kipper, xá tội: Kipper là một hành động nhân bản, thường được một tư tế dâng lên một tặng phẩm liên kết với niềm hy vọng rằng mọi điều phân rẽ hữu thể nhân bản khỏi Thiên Chúa (bất kể là điều gì) cũng bị loại trừ để nhận được việc hòa giải với Thiên Chúa. Về phần mình, Thiên Chúa tự do và có chủ quyền ban sự tha thứ hay không. Một vài lần, người ta thấy sự phối hợp hành động nhân bản (của tư tế) “để nhận được sự hòa giải” (một lối dịch từng chữ của kipper) tiếp theo là một cấu trúc thụ động (để họ/ông may ra được tha thứ” (thí dụ Lv 4:20, 26, 31, 35). Tác nhân phía sau câu thụ động là Thiên Chúa. Cả hai hành động đều độc lập với nhau. Nghi thức (hy lễ hay tặng phẩm) không phải là một thực hành ma thuật sẽ tự động phát khởi một phản ứng thuận lợi từ Thiên Chúa. Do đó, việc Thiên Chúa tha thứ mãi là một quà tặng của ân sủng Thiên Chúa. Biểu tượng vật chất, vốn cho thấy diễn trình hoà giải hỗ tương với Thiên Chúa hằng sống cần phải là một thứ gì đó hiện thân sự sống và sinh lực: không gì thích hợp hơn là chính máu của con vật hiến tế để chỉ việc tái lập thông đạt giữa hữu thể nhân bản ăn năn và Thiên Chúa hằng sống. Nghi thức này liên hệ nhiều với việc thanh tẩy và tinh luyện theo nghi lễ. Do đó, loại lễ dâng liên hệ chủ yếu tới diễn trình này, tức ḥaṭṭā’t, được gọi đúng là “lễ dâng thanh tẩy”. Lối dịch thông thường “lễ dâng đền tội”cũng có thể được duy trì, nếu hiểu “tội” theo nghĩa rộng tức là mọi vấn đề phân rẽ khỏi Thiên Chúa, bất kể cố ý hay vô ý.
Sự trong sạch
Việc vi phạm các giới răn của Thiên Chúa không phải là điều duy nhất phân rẽ con người khỏi Thiên Chúa. Sự dơ bẩn cũng là một trở ngại ngăn cản người ta tới gần Người. Có thể nhận ra 3 nguồn của sự dơ bẩn: (1) đụng tới các con vật đã chết (Lv 11) và xác người chết (Ds 19:11-22); (2) chất thải âm hộ sau khi sinh, chất thải bệnh lý từ cơ quan sinh dục, máu kinh nguyệt, tinh trùng (Lv 12; 15); (3) bệnh vẩy da và các dị thường khác ở ngoài mặt (Lv 13-14). Hệ số chung là việc gần với lãnh vực sự chết và không sinh sản. Nếu một người Do Thái, bất luận nam hay nữ, rơi vào một tình huống như thế, tình trạng dơ bẩn khiến họ không thể tham gia vào việc phụng tự. Các bản văn mô tả các mức độ trầm trọng khác nhau. Trong các trường hợp ít trầm trọng, việc tắm rửa thân thể, giặt giũ quần áo, và qua một số thời gian, thường là đến lúc mặt trời lặn, là đủ. Trong các trường hợp trầm trọng hơn, cần một lễ dâng bổ sung (“lễ dâng thanh tẩy”) để loại bỏ tình huống dơ bẩn.
Tất cả các nghi thức này chỉ thích hợp với những sai lỗi vô tình vi phạm (xem Lv 4:2) và vì sự dơ bẩn vô tình, không phải các tội cố ý. Đối với loại cố ý, nghi thức của Ngày Xá tội (yôm hakkippurîm, Yom Kippur) sẽ nhận được sư hòa giải (kipper) cho “mọi tội lỗi của họ” mỗi năm một lần. Lv 16 là nghi thức phối hợp các lễ dâng, trong sạch/thanh tẩy, và thánh thiện. Do đó, nó được đặt ở giữa Sách Lê-vi.
Sự Thánh thiện
Sự thánh thiện là việc nới rộng bản chất Thiên Chúa (Milgrom, 730). Nó nới rộng tới phạm vi nối kết với lãnh vực của Thiên Chúa. Những “phạm vi” này không còn có sẵn để sử dụng hàng ngày và thông thường nữa: các lúc (các ngày lễ), các địa điểm (cung thánh và cả “Đất Thánh” nữa), các sự vật (chân đèn bẩy ngọn, bàn thờ, đồ đựng, thức ăn) và những con người (các tư tế đã được thánh hiến hay thụ phong, nhưng cả toàn dân, xem Xh 19:6) thánh thiêng. Các thời gian, địa điểm, vật dụng và con người được tách biệt khỏi việc sử dụng thông thường để được sử dụng và hành động theo gương Thiên Chúa: “sự thánh thiện nghĩa là imitatio Dei [bắt chước Thiên Chúa] – đời sống của việc giống Thiên Chúa (Milgrom, 731). Thánh thiện là sống theo cách của Thiên Chúa; như thế, các lệnh truyền về phụng tự và nghi lễ một đàng, và các giới răn xã hội và đạo đức đàng khác có liên hệ mật thiết với nhau, như Tv 15 và Tv 24:3-4 đã chỉ. Sự thánh thiện trải dài suốt cuộc sống hàng ngày, đây là sự quan tâm đặc biệt của nửa sau của Sách Lê-vi (“Bộ luật Thánh thiện”). Thực thi imitatio Dei trong đời sống hàng ngày đại diện cho công lý của Thiên Chúa trên mặt đất. Như một dân tộc thánh thiện, Israel phải đại diện cho ân sủng, lòng thương xót và tôn trọng sự thật của Thiên Chúa qua sự chính trực trong tác phong đạo đức.
Các ý niệm “thánh thiện” và “trong sạch” liên quan mật thiết với nhau: việc thông đạt khả hữu giữa người thánh thiện và người trong sạch, thí dụ, các hữu thể nhân bản trong trạng thái trong sạch đúng nghi lễ có thể tham dự hy lễ hiệp thông. Các sự vật và con người thông thường (“phàm trần”) có thể trong sạch hay dơ bẩn về phương diện nghi lễ. Nếu họ không sạch (dơ bẩn) về nghi lễ, họ không được đến với thể thánh thiện. Thí dụ, một người đã đụng vào xác chết hay có chất thải bệnh lý từ cơ quan sinh dục không được tham dự hy lễ hiệp thông.Tình trạng dơ bẩn có tính tạm thời nghĩa là ngay khi nguồn gốc gây dơ bẩn không còn hiện hữu nữa, các nghi thức tắm rửa, qua thời gian, và/hoặc hy lễ đã phục hồi tình trạng trong sạch theo nghi lễ. Tuy nhiên, điều này không liên quan gì tới tác phong đạo đức. Một nghi thức không bao giờ rửa hết tác phong đạo đức và các tội lỗi cố ý. Một lần nữa, việc thú tội và Ngày Xá Tội hành động như giải pháp cuối cùng.
Thần học
Ở Giêrusalem thế kỷ thứ 5 TCN, các tư tế có khả năng thần học thu thập các truyền thống của họ và tạo ra các giáo huấn của họ như các diễn từ thuật truyện của Thiên Chúa ngỏ với Mô-sê nhiều thế kỷ trước tại Núi Xi-nai. Họ làm vậy để bảo toàn các niềm tin, các thực hành, và lập trường của họ bằng thẩm quyền cao nhất có thể: lệnh truyền của Thiên Chúa ngỏ với Mô-sê (thí dụ Lv 23:31). Các nhà thần học cố gắng bảo vệ lý thuyết của họ khỏi sự thao túng hay võ đóan tôn giáo. Đây là một giao huấn quan trọng của Lv 10 một cách đặc biệt.
Lê-vi 1-10 đặt để cách thông đạt với Thiên Chúa và nhận được ơn hòa giải. Thêm vào đó, còn có các hoàn cảnh trong đó, con người không được đến gần Thiên Chúa hằng sống: một vài sự cố gây nên tình trạng bất ổn ngăn cản việc tham dự phụng tự (tình trạng dơ bẩn). Như thế, các lệnh truyền coi bản chất thể xác của con người một cách nghiêm túc (xem, chẳng hạn, Schellenberg). Thiên Chúa cung cấp các nghi thức ổn định hóa giúp con người tái lập việc thông đạt (Lv 11-16). Tuy nhiên, mặc dù Thiên Chúa tỏ ra rất gần gũi và theo một nghĩa nào đó, rất “nhân bản”, nhưng Người không hề thuộc quyền sử dụng của người Israel hay các tư tế. Các nghi thức không có tính ma thuật hay tự động. Việc này cũng đúng đối với cao điểm của nghi thức, Ngày Xá Tội. Mặc dù sự kết hợp phức tạp của các nghi lễ máu và nghi lễ loại trừ vốn nhận được một ơn hòa giải toàn diện, nhưng đây không hề là tấm thẻ hoàn tòan hành động (Carte blanche) muốn làm điều sai quấy nào sau đó thì làm. Lối giải thích của người Do Thái trong Misnah Yoma 8:9 giải quyết một sự hiểu lầm có thể có: Ngày Xá tội không xá tội nếu không có sự ăn năn thành thực (“ [Nếu ai đó nói]: tôi sẽ phạm tội và yôm hakkippurîm sẽ xá tội cho tôi, yôm hakkippurîm không tác động việc xá tội”).
Một nhóm thần học gia tư tế khác chịu trách nhiệm nửa phần thứ hai của Sách Lê-vi nhấn mạnh tới ý niệm cho rằng cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa thánh thiện và hằng sống trong phụng tự cần phải thấm nhiễm cuộc sống hàng ngày. Họ viết ra lời kêu gọi nên thánh của Chúa (Lv 19:2) và lời hứa rằng hễ ai thực thi các lề luật và sắc lệnh của Chúa sẽ tìm được sự sống qua chúng (Lv 18:5). Tuyệt đỉnh là Lv 19. Cấu trúc của chương theo Mười Giới Răn và cung cấp các mẫu cho tác phong đạo đức phù hợp với thánh ý Thiên Chúa; mọi giới răn này với nhau khuyến khích một thái độ tác phong chính trực và yêu thương người lân cận của mình và ngoại kiều.Trong Lv 19:18, các Ki-tô hữu tìm thấy một trong hai giới răn được Chúa Giêsu coi là trọng hơn hết (Mt 22:39; Mc 12:31, 33; Lc 10:27) và là việc chu toàn trọn lề luật (Rm 13:9; Gl 5:14; Gc 2:8). Phổ hệ rộng lớn các vấn đề được các thần học gia tư tế bàn tới trở nên hiển nhiên ở Lv 23 và 25: trong khi Lv 23 nói tới các ngày lễ thánh và do đó việc thanh hoá thời gian, Lv 25 tập chú vào nguyên tắc tự do cần một mức độ độc lập nào đó về tài chánh và kinh tế của cá nhân và gia đình họ và một việc giảm nghèo. Gần vào cuối cùng, Lv 26 bàn tới vấn đề thất bại của con người: Điều gì sẽ xẩy ra, nếu người Israel không chu tòan các mệnh lệnh của Thiên Chúa vốn dẫn đến sự sống? Thoạt đầu, một khung cảnh hãi hùng mô tả các hậu quả xấu xa cho tác phong tồi tệ của Israel. Tuy nhiên, các thần học gia, từ kinh nghiệm lưu đầy Babylon, biết rằng chính các biến cối hãi hùng này từng giáng xuống Israel. Do đó, phần thứ ba của Lv 26 chỉ ra đường thoát khỏi các biến cố đó. Nếu người Israel ăn năn và tự hạ lòng họ, Thiên Chúa sẽ nhớ đến giao ước của Người với Gia-cóp, I-sa-ác, và Áp-ra-ham và Người sẽ ban một khởi đầu mới.
Sách Lê-vi làm chứng cho cuộc tranh đấu để có được sự cân bằng hữu lý giữa việc nói về Thiên Chúa và nhận thức rằng Thiên Chúa là Đấng Thánh Thiện, rất khác với bất cứ thể nhân bản nào. Một đàng, Thiên Chúa ban sự gần gũi không thể nào tin được trong phụng tự tại cung thánh, nhưng đàng khác, Người lại ở một khoảng cách xa khỏi các dơ bẩn và tác phong xấu xa. Israel đại diện cho sự thánh thiện của Thiên Chúa trên mặt đất, và do đó, Thiên Chúa cố gắng vươn tới con người qua các con người. Lòng thương xót và sự hòa giải của Thiên Chúa với nhân loại nằm ở trung tâm Sách Lê-vi và tòan bộ Tô-ra.