Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh

Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước

Tiết Một: Ngũ Kinh [tiếp theo]

(2) Chương Hai: Sách Sáng thế

Richard J. Clifford S.J. và Roland E. Murphy, O.Carm
The New Jerome Biblical Commentary, Student Edition, các trang 8-9


Tài liệu Tham khảo

Anderson, B. W. (biên tập), Creation in the Old Testament [Sáng thế trong Cựu Ước] (IRT 6; Phi, 1984).
Blum, E., Die Komposition der Vatergeschichte [Thành phần câu truyện các tổ phụ] (WMANT 57; Neukirchen, 1984).
Brueggemann, W., Genesis (Atlanta, 1982).
Coats, G., Genesis (FOTL l; GR, 1983).
Cassuto, U., A Commentary on the Book of Genesis [bình luận về Sách Sáng Thế] (2 tập; Jerusalem, 1961, 1964).
De Vaux, EHI 161-287.
Driver, S. R., The Book of Genesis [Sách Sáng Thế] (ấn bản lần thứ 10; London, 1916).
Fokkelman, J. P., Narrative Art in Genesis [nghệ thuật Thuật truyện trong Sách Sáng Thế] (Amsterdam, 1975).
Gunkel, H., Genesis (HKAT 1.1; ấn bản lần thứ 3; Gottingen, 1910).
Heidel, A., The Babylonnian Genesis [Sách Sáng Thế Babylon] (Chicago, 1951).
Jacob, B., Genesis (NY, 1974).
Mazar, B. (biên tập), "Patriarchs, [Các Tổ Phục]" WHJP 2.
Noth, M., A History of Pentateuchal Traditions [Lịch sử Các Truyền Thống Ngũ Kinh] (EC, 1972).
Rendsburg, G., The Redaction of Genesis [Việc Soạn Sách Sáng Thế] (Winona Lake, 1986).
Sarna, N. M., Understanding Genesis [Hiểu Sách Sáng Thế] (NY, 1970).
Skinner, J., Genesis (ICC; Edinburgh, 1930).
Speiser, E. A., Genesis (AB 1; GC, 1964).
Thompson, T. L., The Historicity of the Patriarchal Narratives [Tính lịch sử của Các Trình Thuật Tổ Phụ] (BZA W 133; Berlin, 1974).
Van Seters, J., Abraham in History and Tradition [Áp-ra-ham trong Lịch sử va Truyền thống] (New Haven, 1975).
Vawter, B., On Genesis (GC, 1977).
Von Rad, G., Genesis (OTL; ấn bản đã hiệu đính; Phi, 1972).
Westermann, C., Genesis 1-11, Genesis 12-36, Genesis 37-50 (Minneapolis, 1984-86).

Xin lưu ý đến các tài liệu tham khảo toàn diện có trong phần bình luận của C. Westermann, là thành quả của Genesis-Research tại Đại học Heidelberg.

Dẫn Nhập

(I). Tựa đề và cấu trúc

Sáng Thế là sách đầu tiên của Ngũ Kinh, một sưu tập gồm 5 phần từ nhiều truyền thống khác nhau thuộc nhiều thời kỳ khác nhau, và nhận được hình thức biên tập cuối cùng vào thế kỷ thứ 6 trước Chúa Kitô (BC). Tựa bằng tiếng Latinh hay phần lớn các ngôn ngữ phát sinh từ tiếng Latinh là Genesis, lấy từ tựa của bản Bẩy Mươi bằng tiếng Hy Lạp, dựa vào câu 5:1: “Đây là gia phả (thuộc cách genēsis) của A-đam”. Tựa đề bằng tiếng Híp-ri bĕrē’šît là căn cứ vào các chữ đầu tiên của sách như thói quen ngày xưa. Các bản tiếng Việt có nhiều khác biệt trong tựa đề này. Cha Nguyễn Thế Thuấn đặt tựa đề là Khởi Nguyên, Kinh thánh Hội của Tin Lành đặt là Sáng Thế Ký. Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ đặt là Sáng Thế.

Dù gọi ra sao, thì sách Sáng Thế cũng bàn tới các nguồn gốc, nguồn gốc thế giới, nguồn gốc loài người, nguồn gốc dân tộc Do Thái. Lúc phát sinh ra thực tại là giờ phút rất được các nền văn hóa Cận Đông xưa quan tâm; vì ý định nguồn cội của Số Mệnh cũng như của các thần minh bao giờ cũng rõ ràng vào lúc đó hơn vào bất cứ lúc nào khác. Lúc khởi nguyên, dĩ nhiên các dấu ấn của các thần minh sáng tạo đóng trên một sự vật vào lúc ấy vẫn còn mới mẻ và dễ nhận ra. Trong nền văn hóa Lưỡng Hà, một nền văn hóa từng được coi là khuôn mẫu cho hầu hết các câu truyện tại St 1-11, các nhà biên chép đã tìm hiểu những thời nguyên sơ xuyên qua các câu truyện và các giả thuyết về nguồn gốc vũ trụ (cosmogonies) hơn là qua các lý luận trừu tượng. Phần lớn các giả thuyết về nguồn gốc vũ trụ của Lưỡng Hà lúc đó hết sức vắn vỏi, nhưng cũng có một số san định khá dài trình bày nhiều trình thuật khác nhau về thời nguyên sơ ấy, như Anh Hùng Ca Gilgamesh, Enuma Elish và truyện Atrahasis. Truyện sau khá có liên quan tới St 1-11, vì nó cũng trình bày cùng một cốt truyện căn bản như St 2-9. Atrahasis bắt đầu từ các tầng trời với cuộc nổi loạn của các thần cấp thấp chống lại các thần cấp cao. Cuộc nổi loạn này được giải quyết với việc dựng nên con người để làm những công việc bảo trì mà các thần cấp thấp nhất định không chịu làm. Nhưng rồi con người xúc phạm tới các thần minh bằng cách sinh sôi nẩy nở nhiều quá, gây náo loạn cho các thần. Sau một loạt tai họa mà cao điểm là trận lụt lớn sát hại mọi người ngoại trừ Utnapishtim, người được thần minh sủng ái, các thần minh sau cùng đã chấm dứt mọi bất ổn. Từ con người duy nhất sống sót kia, mọi sự lại bắt đầu như mới, lần này với các biện pháp an toàn có sẵn để ngăn ngừa việc sinh sôi nẩy nở vô hạn định từng gây ra tai họa trước đây. Sự tương tự giữa cốt truyện của Atrahasis và St 2-9 khá rõ ràng; cả sắc thái Kinh thánh trong chi tiết cũng rõ ràng không kém. Các soạn giả Kinh thánh, vì thế, đã tạo ra một phiên bản từ một câu truyện chung của Lưỡng Hà về nguồn gốc thế giới, bằng cách khảo sát tỉ mỉ các vấn đề chính về Thiên Chúa và về nhân loại xuyên qua các trình thuật. Phương Đông xưa vốn dễ dãi đối với các phiên bản, các câu truyện khác nhau về cùng một biến cố. Các ấn bản liên tiếp của Anh Hùng Ca Gilgamesh và Enuma Elish cũng như cách Kinh thánh kể lại việc Xuất Hành và Chinh Phục một cách khác đi trong nhiều đoạn văn xuôi của Ngũ Kinh cũng như trong thi ca của nhiều Thánh Vịnh, chứng minh rõ sự dễ dãi ấy. Các phiên bản J và E về lịch sử quốc gia là một chứng minh khác. St 2-9 xem ra đã được St 1 dẫn khởi và được St 10-11 tiếp tục khai triển. Thế là St 1-11 trở thành một câu truyện đơn nhất, một giải thích triết học và thần học hết sức gắn bó về loài người: mối tương quan của họ với Thiên Chúa, các định chế của họ (hôn nhân, ngôn ngữ, phân chia sắc tộc và quốc gia, khai thác kim khí, chăn nuôi trồng trọt… ), các thiếu sót của họ, số phận của họ; và về Thiên Chúa, sự công chính của Người và lòng trung thành của người với loài người này. Các độc giả hiện đại, nghĩa là những người không quen thuộc với việc coi trình thuật như một chiếc xe chuyên chở tư duy nghiêm chỉnh, thường thấy khó mà đánh giá được tính sâu sắc và tính thích đáng lâu bền của những chương sách này. Sau cùng, một số độc giả còn tiến đến chỗ chỉ chú tâm bênh vực cái lối giải thích chiểu tự (literal interpretation) của các chương 1-3, đi ngược hẳn lại lý thuyết biến hóa hiện nay, một lối giải thích mà các tác giả xưa của Sáng Thế không bao giờ làm vì họ vốn dễ dãi đối với các phiên bản.

Điều đáng lưu ý là Kinh thánh của Israel bắt đầu với cái nhìn khá dài về thế giới trước khi nói tới chính mình (Tổ tiên Ê-ve [Eber] của Israel chỉ được nhắc qua tại 10: 21, 25) thay vì giả thiết rằng thế giới bắt đầu khi mình hiện hữu. Tuy nhiên, Israel coi mình khác biệt với các dân tộc khác, một dân tộc đứng riêng ra, không bị kể vào hàng các dân tộc khác (Ds 23:9).

Phần thứ hai tức St 11:27-50:26 kể đến lịch sử Israel nơi các tổ tiên của họ. Áp-ra-ham và Sara (11:27-25:18) cũng lao khổ dưới mệnh lệnh của Thiên Chúa như các dân tộc khác để tiếp tục sinh tồn qua dòng dõi mình và việc chiếm hữu đất đai (St 1: 26-28). Tuy nhiên, phương cách của họ có khác: họ dựa vào mối liên hệ trực tiếp với Thiên Chúa trong tín thác. Lời hứa kép gồm dòng dõi và đất đai được nhắc lại cho Gia-cóp và con cái ông (25:19-36:43), nhưng nhấn mạnh được đặt ở chỗ lưu truyền lời chúc phúc cho con trưởng và việc đạt được số 12 con trai, sẽ là con số các chi tộc Israel. Điều ý nghĩa là Giacóp, cha của 12 người con trai ấy, được gọi tên là Israel (32:28; 35:10). Bộ truyện thứ ba có liên quan tới 12 người con trai này và đặc biệt nói tới Giuse (37:1-50:26). Lời hứa xưa lại được lặp lại ở đây nhưng chú tâm thực sự là mối liên hệ giữa các anh em với nhau và với Giuse, người lãnh đạo kiêm cứu tinh của họ. Gia đình duy nhất từng bị tan nát vì tranh chấp này đã duy trì được sự hợp nhất của mình giữa một vùng đất lạ và đã liên hệ với người lãnh đạo Giuse của họ như thế nào? Các quan sát tâm lý và gia đình đã làm nổi bật câu truyện một cách không hẳn là không bất ngờ. Các câu truyện về tổ tiên thường hay phác họa ra các chủ đề cho nền văn chương Kinh thánh sau này, như việc sống với lời hứa của Thiên Chúa công chính, được gia tăng con cháu và đất đai, các liên hệ giữa các chi tộc, mối liên hệ giữa người lãnh đạo và dân chúng, Israel tại Ai Cập. Vấn đề lịch sử tính (historicity) của các câu truyện về tổ tiên đã được nêu lên cách nay hơn một thế kỷ, và nhiều câu trả lời cho câu hỏi này từng được đưa ra. Quan điểm của chúng tôi ở đây là: a) trong diễn trình lưu truyền dài đằng đẵng, các câu truyện có thực của thiên niên kỷ thứ hai đã được xem sét lại và được thêm bớt; b) tìm lại các câu truyện “nguyên thủy” là điều không thể làm được vì thiếu các nguồn ngoại Kinh thánh.

Giai đoạn sau cùng trong diễn trình dài biên tập xem ra là thời lưu đày trong thế kỷ thứ 6, lúc nhiều truyền thống đáng kính của Israel có được các san định cuối cùng. Các chủ đề chính trong các trình thuật đã được đóng ấn rõ ràng, nhưng vẫn có thể nhấn mạnh thêm một số chủ đề cho lớp dân lưu đày. Xem ra lớp dân này có những quan tâm như sau: a) họ không ngừng nhấn mạnh tới ý định của Thiên Chúa muốn cho mỗi dân tộc được tiếp tục hiện hữu qua con cháu và việc chiếm hữu đất đai; b) họ nhấn mạnh đến việc Israel sẽ nhận được con cháu và đất đai khác với các dân tộc khác; c) họ cũng nhấn mạnh tới giao ước trường cửu của Thiên Chúa với Áp-ra-ham, một giao ước giống như giao ước đời đời với Đavít.

(II). Các nét chính

Sáng Thế không phải là một tổng hợp tình cờ các tình tiết màu mè; nó là một trình thuật đã được xếp đặt một cách đầy ý thức trong đó các phần chính tức St 1:1-11:26 và St 11:27-50:26 đã được trình bày trong một song đối cố ý, và trong đó các thành tố của mỗi phần đều góp phần một cách đầy nghệ thuật vào việc tạo nên các phần chủ yếu. St 1:11-11:26 mô tả nguồn gốc các dân tộc, bằng cách cho thấy Thiên Chúa đã tạo dựng thế giới ra sao. Trong Sáng Thế, dân tộc là một ý niệm chỉ một cộng đồng có cơ cấu, gồm những người đàn ông và đàn bà hành động một cách tự do, để chu toàn kế hoạch của Thiên Chúa muốn họ tràn đầy thế giới và chiếm hữu đất đai cho mình. Song song với các dân tộc nhưng tương phản với họ, St 11:27-50:26 đã mô tả nguồn gốc của Israel, bằng cách cho thấy Thiên Chúa đã tạo dựng Israel ra sao, qua việc làm trọn lời hứa ban con cháu và đất đai cho các tổ phụ. Có ba khối truyền thống trong phần thứ hai: (A) Áp-ra-ham và Sara (11:27-25:18); (B) Giacóp và các con trai (25:19-36:43); (C) Giuse và các anh em ông (37:1-50:26).

Các câu truyện trên từng được san định trong nhiều thế hệ khác nhau, một diễn trình gần như không thể nào mô tả được, ngoại trừ bằng những hạn từ tổng quát. J và E phần chắc là giản lược các anh hùng ca truyền khẩu nguyên thủy thành hình thức văn xuôi chữ viết. Vì tính phức tạp của việc san định này, nên chúng tôi không dám nhấn mạnh tới việc tìm hiểu các nguồn gốc này, chỉ xin liệt kê tên tiêu chuẩn đặt cho các nguồn này, đó là J, E và P. Chính P, giữ vai trò san định sau cùng, xem ra đã tổ chức tư liệu thành các khối lớn căn cứ vào công thức “Đó là gia phả…” (Tiếng Híp-ri tôlĕdôt, nghĩa đen là “sinh ra, các lần sinh ra” (1)). Công thức này dùng để dẫn nhập tư liệu truyền thống. Nó xẩy ra 5 lần trong trình thuật khởi nguyên tức tại các câu 2:4 (1); 5:1; 6:9; 10:1; 11:10 và 5 lần trong trình thuật về nguồn gốc Israel, tức các câu: 11:27; 25:12; 25:19; 36:1; 37:2. Công thức này được dùng như hướng dẫn tổng quát xuyên suốt câu truyện.
______________________________________________________________________

(1).Chữ “gia phả” nói ở đây đã được chuyển ngữ rất uyển chuyển. Câu 2:4 được Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ (CGKPV) dịch là “Đó là gốc tích trời đất…”. Bản Phổ Thông (PT) đã dùng chữ “generationes” để dịch câu này (istae generationes caeli et terrae). Cũng thế, câu 6:9, CGKPV dịch là “Đây là gia đình ông Nôê” (bản PT: hae generationes Noe… ). Câu 10:1 được CGKPV dịch là “Đây là gia đình các con trai ông Nôê” (PT: hae generationes filiorum Noe)…

(3) Chương ba: Sách Xuất Hành

Richard J. Cliford, S.J.
The New Jerome Biblical Commentary, Student Edition, các trang 44-45


Tài liệu Tham khảo

Beyerlm, W., Origins and History of the Oldest Sinaitic Traditions [Nguồn gốc và Lịch sử của Truyền thống Sinai xưa nhất] (Oxford, 1965).
Beer, G., Exodus [Xuất hành] (HAT 3; Tubingen, 1939).
Cassuto, U., A Commentary on the Book of Exodus [Bình luận về Sách Xuất hành] (Jerusalem, 1967).
Childs, B. S., The Book of Exodus [Sách Xuất hành] (OTL; Phi, 1974).
Danielou, J., From Shadow to Reality: Studies in the Biblical Typology of the Fathers [Từ bóng tối đến thực tại: Nghiên cứu về hình loại học Kinh thánh của các Giáo phụ] (Westminster, 1960).
Dillmann, A., Die Bucher Exodus und Leviticus (EHAT; Leipzig, 1880).
Driver, S. R., The Book of Exodus [Sách Xuất hành] (CBSC; Cambridge, 1918).
Greenberg, M., "Exodus," Encjud 6. 1050-67; Understanding Exodus [Tìm hiểu Xuất Hành] (NY, 1969).
Herrmann, S., Israel in Egypt [Israel ở Ai Cập] (SBT 27; London, 1973).
Hyatt, J. P., Exodus (NCB; GR, 1980).
Michaeli, F., Le livre de l'Exode [Sách Xuất hành] (CAT 2; Neuchatel, 1974).
Noth, M., Exodus (OTL; Phi, 1962).
Plastaras, J., The God of Exodus [Thiên Chua của Xuất Hành] (Milwaukee, 1966).
Schmidt, W. H., Exodus (BKAT 2; Neukirchen, 1974-); Exodus, Sinai und Mose [Xuất hành, Sinai và Môsê] (EF 191; Darmstadt, 1983).
Walzer, M., Exodus and Revolution [Xuất hành và Cách Mạng] (NY, 1985).

Dẫn Nhập

Xuất Hành là sách thứ hai của Ngũ Kinh, một sưu tập 5 phần gồm nhiều truyền thống thuộc nhiều thời đại khác nhau và do một người thuộc dòng văn Tư Tế (P) san định trong thế kỷ thứ 6 TCN. Tựa đề bằng tiếng La-tinh Exodus lấy từ bản Bẩy Mươi và có nghĩa đen là “đi khỏi (Ai Cập)”, là một trong các biến cố chính được kể lại. Tựa bằng tiếng Híp-ri ʼēlleh šĕmôt, có nghĩa là “Đây là tên (của các tổ phụ ra khỏi Ai Cập), lấy các chữ đầu của sách như thói quen đặt tên cho các sách cuộn thời ấy.

Xuất Hành cần được coi như một thành phần của Ngũ Kinh, vì việc giải phóng khỏi Ai Cập và việc thiết lập ra luật lệ cũng như ngụ cư tại Núi Xi-nai (tức nội dung Sách Xuất Hành) chỉ là một phần của câu truyện vốn bắt đầu với việc tạo dựng ra thế giới trong Sáng Thế và chấm dứt tại Đệ Nhị Luật với việc Mô-sê nói truyện với dân Israel đang chờ chinh phục Ca-na-an. Những nguồn xưa từng góp phần tạo ra các sách khác của Ngũ Kinh cũng xuất hiện trong Xuất Hành: J, E và P (chữ cuối cùng vừa chỉ nguồn văn xưa và thế kỷ thứ 6 vừa chỉ việc san định). Chúng tôi dựa vào sự đồng thuận của các học giả để đưa ra các nguồn này mà không thảo luận nhiều đặc tính vẫn còn tranh luận hay chưa chắc chắn. Sự đồng thuận này nhấn mạnh tới việc san định của dòng văn P vì P là người sau cùng kể lại câu truyện.

(I). Ý nghĩa

Xuất Hành có một tác động rất mạnh đối với trí tưởng tượng của các tác giả Sách Thánh sau này cũng như của các nhà tư tưởng Do Thái và Kitô Giáo. Cuốn sách bắt đầu với việc Dân Do Thái cư ngụ tại một lãnh thổ ngoại bang, không còn lưu tâm gì tới các lời hứa của Gia-vê đối với họ, bị áp bức bởi một Pha-ra-ô tàn ác luôn hành động như một “thần minh” bằng cách qui định mọi khía cạnh trong cuộc sống của họ và giữ họ làm nô lệ tại Ai Cập. Nhưng Gia-vê đã đánh bại Pha-ra-ô bằng một loạt 10 tai ương và sau đó đem Dân tới Núi Xi-nai. Tại đây, Gia-vê xác nhận Mô-sê là lãnh tụ của họ, ban lề luật của Người cho họ, lập nơi cư ngụ của Người giữa họ, và dẫn họ trên hành trình trở lại đất Người đã hứa là Ca-na-an. Trong hành trình này, Mô-sê là công bộc, qua cuộc sống mình (chương 2-4), đã dự ứng trước cuộc di chuyển vĩ đại của Dân từ Ai Cập tới Xi-nai. Mô-sê trở thành đầy tớ vĩ đại của Thiên Chúa, một khuôn mẫu để người ta mô tả các nhân vật Kinh thánh như Giô-su-ê, Giê-rê-mi-a (Xem Gr 1:4-10), I-sa-i-a Thứ Hai và cả Chúa Giêsu nữa. Hoàn toàn dấn thân chia sẻ số phận của Dân, Mô-sê cũng rất gần gũi với Thiên Chúa; nhờ trung gian của mình, ông đã đem Dân và Thiên Chúa vào một mối liên hệ trung thành. Xuất Hành rõ rệt là bức chân dung về cộng đồng của Thiên Chúa, được kêu gọi từ bỏ cảnh nô lệ lầm lẫn và mất nhân phẩm tại vùng đất ngoại bang để lên đường tìm tới mảnh đất hứa.

(II). Các nét chính

Trong Xuất Hành, dòng văn P đã sắp xếp các truyền thống thành hai phần đan kết với nhau: cứu Dân Israel tại Ai Cập khỏi tay Pha-ra-ô (1:1-15:21) và hành trình từ Ai Cập tới Xi-nai (12:37-40:38). Hành trình này gồm 12 giai đoạn, mỗi giai đoạn được đánh dấu bằng công thức “họ lên đường từ tên a và cắm trại tại tên b”. Dân bắt đầu cuộc hành trình được Thiên Chúa dẫn dắt của mình lúc còn ở Ai Cập, trước khi Pha-ra-ô qua đời (12:37; 13:20; 14:2); ba giai đoạn đầu tiên ở Ai Cập đã đan kết hai phần của sách lại với nhau. Israel không “lang thang”; trái lại đã được cột lửa và mây hướng dẫn từng giai đoạn một cách có chủ ý. Giai đoạn 7 (19:1) bắt đầu phần thứ hai của cuộc xuất hành. Dân ở lại đây từ Xh 19:2 tới Ds 10:10, và tiếp nhận được những hồng ân của Chúa mà thời cổ đại vẫn coi là cần thiết để lập ra một dân tộc: một lãnh tụ (Môsê), một lề luật, một đền thờ (nhà tạm tại hoang địa) với đầy đủ viên chức và lễ nghi, và một lãnh thổ.