CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN NĂM C : LC 17,11-19

11Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua biên giới hai miền Sa-ma-ri và Ga-li-lê. 12Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa 13và kêu lớn tiếng : “Lạy Thầy Giê-su, xin dủ lòng thương chúng tôi !” 14Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ : “Hãy đi trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch.

15Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. 16Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta lại là người Sa-ma-ri. 17Đức Giê-su mới hỏi : “Không phải cả mười người đều được sạch sao?Thế thì chín người kia đâu? 18Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” Rồi Người nói với anh ta : “Đứng dậy về đi ! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh
.”

LÒNG TIN TRỌN VẸN

Bệnh phong (cùi, hủi), như chúng ta đều biết, là bệnh tàn phá thân thể con người từ từ, nhất là bên ngoài, nên từng là nỗi kinh hoàng của nhân loại. Nhưng suốt dòng thời gian, lịch sử đã ghi nhận rằng phần lớn những cá nhân và tập thể (dòng tu) từng hiến thân cho bệnh nhân phong là các Ki-tô hữu. Chúng ta nhớ đến vị Thánh nghèo thành Át-xi-di từng ôm lấy một anh phong cùi rồi uống nước đã rửa vết thương cho anh, như dấu chỉ hiệp thông trọn vẹn. Chúng ta nhớ đến các tông đồ cho người cùi, từ thánh linh mục Damien de Veuster (1840-1889) trên đảo Molokai mà cuối cùng cũng mắc bệnh, đến mục sư Albert Schweitzer (1875-1965) bên nước Gabon Phi châu, đến giám mục Jean Cassaigne (1875-1973) lập trại phong Di Linh ở Lâm Đồng, đến bác sĩ Công Giáo Raoul Follereau (1903–1977), người từng tung ra “Chiến dịch cho bệnh nhân phong” thời danh và hiệu quả, đến nữ tu Louise Bannet (+1982), một cựu tiếp viên hàng không xinh đẹp người Mỹ, từng bỏ nghề để sang trại phong Di Linh phục vụ người cùi, ngõ hầu cảm ơn Chúa đã lấy tất cả sắc đẹp của họ mà ban cho chị, như gợi ý và đề nghị của Đức Giám Mục Fulton Sheen… đến tất cả các thừa sai nam nữ đang phục vụ tại các trại phong trên toàn thế giới. Riêng tại Việt Nam, 3 trại phong nổi tiếng ở Di Linh (Lâm Đồng), Quy Hòa (Quy Nhơn), Quả Cảm (Bắc Ninh) đều do Công Giáo thành lập. Nguồn cảm hứng và tấm gương sáng của họ chính là Đức Giê-su qua những câu chuyện về người phong hủi được các Tin Mừng tường thuật, trong số đó có bản văn chúng ta suy niệm lúc này.

1- Được sạch nhờ tin vào lời nói của Đức Giê-su

Bác sĩ Gerhard Henrich Armauer Hansen (1841-1912) vào năm 1871 khám phá ra rằng đó là một bệnh lây nhiễm do một loại vi khuẩn gây nên chứ không do di truyền. Đây là một căn bệnh ngày nay rất dễ chữa trị. Nó chắc chắn ít nghiêm trọng hơn so với huyền thoại từng được nặn ra xung quanh nó kể từ khi nó được Kinh Thánh đề cập. Quả thế, chính Kinh Thánh, đặc biệt pháp chế trong sách Lê-vi (x. ch.13-14) đã tạo nên một ý nghĩa biểu tượng đặc biệt cho căn bệnh này. Bị coi như bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất và do đó phải cô lập khỏi cộng đồng dân sự lẫn tôn giáo, phong cùi từng bị giải thích như một hình phạt thần linh khắc nghiệt dành cho kẻ đã phạm những tội ác nghiêm trọng và ô nhục. Nó tượng trưng cách rõ ràng và khủng khiếp cho tội lỗi, sự ác làm biến dạng con người, qua các hình ảnh : những vết thương mưng mủ trên da, tứ chi bị gặm nhấm dần dần, khuôn mặt méo mó biến dạng. Ấy là vì khi tạo dựng phàm nhân, Thiên Chúa từng mơ một hữu thể xinh đẹp, tuyệt diệu, “theo hình ảnh và giống Người.” Khuôn mặt đích thực của con người, đó là giống Thiên Chúa, Đấng vốn là Tình yêu. Than ôi, đôi mắt được tạo dựng để mở ra với tha nhân, nay quay lui nhìn mình, tối mờ vì bệnh cùi của bản năng quy ngã. Than ôi, đôi tay được tạo dựng để làm việc và để trao ban, nay bị gặm nhấm bởi bệnh cùi của tham lam và biếng nhác. Than ôi, con tim được tạo dựng để yêu mến, nay bị biến dạng vì bệnh cùi của thói ích kỷ và kiêu ngạo.

Phá vỡ truyền thống “thánh thiêng” từ sách Lê-vi, vốn đày đọa bệnh nhân phong trong cảnh cô lập và lăng nhục, Đức Giê-su đã thường đến gần họ, chạm vào họ và chữa lành họ, không chỉ phục hồi cho "da thịt họ lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ", theo cách nói sử dụng trong câu chuyện phép lạ mà ngôn sứ Ê-li-sa thực hiện trên tướng Na-a-man người Sy-ri-a, được công bố trong bài đọc thứ nhất hôm nay (2V 5,14-17), mà còn đưa họ trở lại với đời sống cộng đồng chính thức. Đây chính là ý nghĩa của việc "trình diện với các tư tế" để xin giấy chứng nhận chữa lành (x. Lv 14,2) mà Đức Giê-su đã yêu cầu từ 10 người phong trong Tin Mừng ta đang suy niệm.

Do đó, suy nghĩ đầu tiên chợt hiện lên trong tâm trí khi đọc đoạn văn này là lòng thương xót đậm tình của Đức Ki-tô, Đấng đã giải cứu nhân loại khỏi đau khổ và tủi nhục, phá vỡ những chuẩn mực ban đầu được đặt ra cho con người nhưng cuối cùng lại quá áp bức đến mức biến con người thành nô lệ. Tuy nhiên, trong trình thuật của Lu-ca, có một chi tiết đáng nhấn mạnh. Nhân dịp một người phong được chữa khỏi, thánh sử đã mô tả một sự giải thoát tức thời (5,12-16) : Đức Giê-su giơ tay ra và với một mệnh lệnh ("Tôi muốn, anh hãy được sạch!"), Người cho da thịt bị ăn mòn của bệnh nhân trở lại trạng thái lành mạnh nguyên thủy. Tuy nhiên, ở đây, Đức Giê-su lại sai cả 10 anh đến với các tư tế, và chỉ khi họ đang trên đường tới đích thì sự chữa lành mới xảy ra. Theo một nghĩa nào đấy, họ bị thử thách, họ không chứng kiến một ​​phép lạ ngay lập tức, nhưng phải tin vào lời hứa của Đức Ki-tô, phải vâng phục, phải thể hiện đức tin của mình vào lời Người : chỉ bằng cách này, nó mới trở thành cội nguồn của sự giải thoát.

Và chúng ta nghĩ tới chính cuộc thử thách lòng tin kiểu ấy mà tướng Na-a-man đã phải chịu : chấp nhận nghe lời một tớ gái… đặt mình vào tay một kẻ thù… bằng lòng tuân theo một nghi thức trên thân thể. Đối với chúng ta hôm nay cũng vậy, đức tin năng bị thử thách, phải băng qua đêm tối mà chẳng hiểu gì, Với những bệnh nhân phong Đức Giê-su sai đi mà chưa chữa lành họ, xem ra Người muốn nói : “Các anh có tin tôi không? Các anh có thể tin lời tôi không?” Chúng ta cũng vậy, cần phải theo đuổi con đường mình, với chỉ “lời hứa” của Thiên Chúa.

Đây là lý do tại sao -như đã thường được nhấn mạnh- trình thuật của Luca có giá trị vượt xa "phép lạ" đơn thuần. Chẳng phải ngẫu nhiên mà các phép lạ trong Tin Mừng chả bao giờ là những cử chỉ thần thông pháp thuật mà đúng hơn là những dấu chỉ đích thực hướng đến những ý nghĩa cao hơn.

2- Được cứu nhờ tin vào bản thân Đức Giê-su

Và ý nghĩa cao hơn này, giá trị cao hơn này xuất hiện chính xác trong cảnh thứ hai, nơi chúng ta chứng kiến ​​sự trở lại của kẻ cựu phong cùi Sa-ma-ri với Đức Giê-su. Chớ nên để mình bị lôi cuốn bởi chủ đề lòng biết ơn (anh là người duy nhất trở lại tạ ơn Chúa) và chủ nghĩa phổ quát ("anh ta lại là người Sa-ma-ri"). Điểm nhấn nằm ở một sự thật cơ bản khác. Người phong hủi ấy hoàn toàn tin tưởng : anh không chỉ chấp nhận lời kêu gọi của Đức Giê-su như những kẻ khác, mà còn trở lại để ngợi khen và "tôn vinh Thiên Chúa", tức là long trọng tuyên xưng lòng tin của mình vào Đức Giê-su như Đấng Cứu Độ.

Đây là lý do tại sao, nếu tất cả đều được "chữa lành", thì chỉ có anh này được "cứu chữa" nhờ tin ("lòng tin của anh đã cứu chữa anh!"). Các động từ Hy-lạp mà Lu-ca sử dụng rất rõ ràng. Cả mười người đều “được sạch", theo nghĩa của từ đầu tiên; do đó, họ được giải thoát khỏi bệnh tật và khỏi mọi hậu quả của "sự ô uế" mà nó tạo ra cho việc phượng thờ lẫn cuộc sống dân sự. Tuy nhiên, chỉ có một người, anh Sa-ma-ri, được "cứu", và động từ Hy-lạp sôzein được Lu-ca sử dụng chính để đề cao sự giải thoát hoàn toàn và trọn vẹn khỏi sự dữ, đặc biệt khỏi sự dữ trong hồn và thiêng liêng. Chính trong lời nói về lòng tin này (c. 19) mà trình thuật đạt đến đỉnh điểm.

Như luôn có Hiền Phụ giữa lòng các bận tâm của mình, Đức Giê-su cũng trách cứ 9 người phong kia đã không “tôn vinh Thiên Chúa.” Ơn cứu độ thành ra hơn hẳn việc chữa lành xác thể. Và lòng tin trọn vẹn của kẻ trở lui thì hơn lòng tin-tín thác đã thúc đẩy cả mười người đi trình diện các tư tế ngay cả trước khi được sạch. Việc chữa lành chỉ dẫn tới ơn cứu độ trọn vẹn của hữu thể con người nếu con người thừa nhận sáng kiến cho không của Thiên Chúa đối với mình và nếu nó đáp lại bằng cách dấn thân vào một mối liên hệ thực sự với Đức Giê-su : lòng tin trọn vẹn là vậy.

“Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn” (c. 16). Cử chỉ này, mà chúng ta thấy người Hồi giáo làm trên truyền hình phim ảnh, và nhiều bạn trẻ ở Taizé (tu viện đại kết bên Pháp) chẳng hạn, cũng đã tìm lại… chúng ta xem ra đã đánh mất thói quen thực hành. Đó là cử chỉ tiêu biểu cho việc tôn kính thờ lạy ! Việc cúi mình sát đất trong Kinh Thánh nói lên rằng người ta thừa nhận Thiên Chúa vĩ đại và vinh quang, là Nguồn ơn và là Tạo Hóa. Ở đây, ạnh phong cùi làm cử chỉ này “trước Đức Giê-su.” Một mầu nhiệm cao cả ấn giấu đằng sau nhân tính của Người. Chúng ta quên điều này chăng? Sau Truyền phép trong Thánh lễ, cử chỉ của chúng ta như thế nào và có ý nghĩa ra sao vậy? Phải chăng chúng ta thật sự có khả năng “sấp mặt xuống đất” trước dáng vẻ bên ngoài của một mẩu bánh nhỏ? Cử chỉ hạ nhục đối với các thói tự mãn phàm nhân của chúng ta. Cử chỉ đức tin cứu chữa chúng ta, thanh tẩy chúng ta khỏi phong cùi tội lỗi. Như các đan sĩ nhiều nơi phủ phục toàn thân sau câu “Chính nhờ Người, với Người và trong Người….”