Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh
Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước
Tiết bốn: Văn chương khải huyền và cánh chung luận
Chương một: Tổng quan về văn chương khải huyền
(tiếp theo)Việc sử dụng huyền thoại xưa
Tuy nhiên, thị kiến của Đa-ni-en không chỉ liên quan tới các biến cố thời Macabê. Nó thú nhận đã tiết lộ ý nghĩa của lịch sử, từ sáng thế cho tới lúc phán xét cuối cùng. Một trong những cách hữu hiệu nhất để thống nhất hóa lịch sử là tiếp nhận các huyền thoại cổ xưa vốn được soạn ra để mô tả việc tạo dựng ra thế giới và phóng chiếu chúng lên tương lai cánh chung. Trong chương 7 sách Đa-ni-en, thị nhân thấy 4 gió trời khuấy động đại dương, và 4 con dã thú to lớn từ đại dương đó đi lên. Những điều này sau đó được giải thích như bốn vị vua hay vương quốc. Trong đồng văn Đa-ni-en, chúng tương ứng với bốn vương quốc trong bức tượng của Na-bu-cô-đô-nô-xo trong Đn 2: Babylon, Media, Ba Tư và Hy Lạp. Con dã thú thứ bốn ở đây đáng sợ nhất. Thị kiến bốn con dã thú được tiếp theo bởi thị kiến một nhân vật cổ xưa ngự trên ngai, vây quanh bởi hàng ngàn cận hầu. Người được tiếp cận bởi một nhân vật khác cỡ trên mây trời. Rồi đến việc phán xét và con dã thú thứ tư bị thiêu, trong khi nhân vật cỡi mây lãnh nhận một vương quốc không bao giờ tận cùng. Tương tự như thế, trong sách Khải Huyền, Thánh Gioan đảo Patmos thấy một dã thú đi lên từ đại dương, và một con khác đi lên từ mặt đất. Cuối cùng, các con dã thú bị ném sống vào hồ lửa, trong sách Khải Huyền 19:20. Các thị kiến khác, chịu ảnh hưởng trực tiếp của Đa-ni-en, có thể tìm thấy trong khải huyền của 4 Ét-ra (2 Ét-ra 3-14, trong ngụy thư) vào cuối thế kỷ thứ nhất CN.
Tư liệu này đã được soi sáng nhiều bởi việc khám phá ra nhiều bản văn khắc trên các tấm đất xét tại Ugarit, bắc Syria năm 1929 (Xem Collins, 1993, 286-294). Đây là các huyền thoại Ca-na-an về các cuộc tranh chấp dành quyền làm vua giữa các vị thần. Trong truyền thống Ca-na-an, Thần Tối cao là El, cha các thần, Đấng cũng xuất hiện trong Kinh thánh và được đồng nhất hóa với Thiên Chúa của Israel. Tuy nhiên, trong các câu truyện của Ca-na-an, El là một nhân vật đáng kính, trọng tuổi, người giữ thẩm quyền tượng trưng, nhưng nhường việc thi hành vương quyền cho thế hệ trẻ hơn. Thần cạnh tranh chính là thần Ba-an, thần sấm sét, được gọi là “người cỡi mây” và khá nổi tiếng trong Kinh thánh. Thần này bị chống đối bởi các địch thủ gây náo loạn. Một trong số này là Biển, Yamm, có liên hệ với các quái vật biển, nhất là Lotan hay Leviathan. Thần khác là Mot hay Tử Thần. Ba-an đánh bại Yamm trong một trận chiến, và phanh thây vị này bằng dùi cui. Mot là kẻ thù đáng sợ hơn. Có lúc, vị này nuốt trửng Ba-an: ông ta mở miệng ra, “một môi chạm đất, một môi chạm trời” và Ba-an trôi vào ông ta như chiếc bánh ô-liu. Rồi mưa yếu đi, suối cạn khô, và mọi sự ra khô héo. May mắn cho Ba-an, ông ta có người chị rất đáng sợ tên Anath, người cứu ông khỏi dạ dầy của Tử Thần, và khôi phục sinh lực của ông bằng cách giao cấu với ông. Rồi mưa trở lại, suối lại róc rách, và khả năng sinh nở được phục hồi.
Các huyền thoại Ca-na-an hữu ích đặc biệt để hiểu tính biểu tượng của sách Đa-ni-en, và sau này của sách Khải Huyền. Một trong những điều khó hiểu của thị kiến Đa-ni-en là việc đặt cạnh nhau hai nhân vật thần linh, một là “người rất xưa” còn vị kia giống như con người, cỡi trên mây trời. Truyền thống Do Thái là độc thần, ít nhất từ lúc tiên khởi. Nhưng hình ảnh cỡi trên mây trời rất thường được liên kết với Gia-vê, Thiên Chúa của Israel, và ở đây, có một vị thần khác cao hơn Người. Cách dùng hình ảnh này có nghĩa hoàn toàn trong truyền thống Ca-na-an, nơi El là thần tối cao nhưng Ba-an là thần cai trị năng động đem lại khả năng sinh sản. Trong bối cảnh Do Thái, người cỡi mây trời được tái giải thích là Mi-ca-e, thiên thần hộ mệnh, hay “hoàng tử” của Israel. Xem Đn 10:21; 12:1 (Collins, 1993, 304-310). Huyền thoại Ba-an được biết đến nhiều ở Israel và nó rất được thích ứng trong việc thờ phượng của Israel đến nỗi Gia-vê chứ không phải Ba-an là đấng anh hào. Trong các sách tiên tri về sau, trận chiến với quái vật gây hỗn mang đã được phóng chiếu vào tương lai, như chúng ta đã thấy trong sách gọi là Khải huyền của Isaia, nhất là ở Is 27:1, là câu nói rằng Chúa sẽ trừng phạt Leviathan, con rắn ngoằn ngoèo và giết con rồng biển. Hình ảnh này được tiếp diễn trong Đa-ni-en và Khải Huyền. Khởi nguyên, Thiên Chua tạo dựng đem trật tự cho thế giới bằng cách đánh bại con quái vật vốn biểu thị sự hỗn mang, mọi điều đe dọa tính mạng và sự phát triển của con người. Trong dòng lịch sử, xem ra như thể hỗn mang thường phỗng tay trên. Thị kiến khải huyền quả quyết rằng cuối cùng Thiên Chúa tốt lành sẽ thắng thế. Trong Khải Huyền 21, thị nhân thấy “biển không còn nữa” và nghe có tiếng công bố rằng Tử Thần không còn nữa, loại bỏ các sức mạnh được nhìn nhận là kẻ thù của sự sống và khả năng sinh sản, vốn có trong các huyền thoại Ca-na-an.
Tính nhị nguyên
Việc gợi lại các huyền thoại chiến đấu/sáng tạo xưa thống nhất hóa, đơn giản hóa lịch sử bằng cách gợi ý rằng trong yếu tính có thể giản lược thành cuộc tranh chấp của hai nguyên lý chống chọi nhau. Nguyên lý tiêu cực có thể được chỉ rõ bằng nhiều cách. Nó có thể chỉ các sức mạnh khó chế ngự của thiên nhiên, hay chỉ sự ác luân lý hay chỉ việc chống đối chính trị. Huyền thoại quả quyết rằng sự sống là vũ đài tranh chấp và điều thiện sẽ thắng thế. Kiểu huyền thoại duy nhị nguyên này rất thông thường tại Cận Đông và có nhiều ám chỉ tới nó trong các sách thi ca của Kinh thánh (Thí dụ, Is 51:9: “Chẳng phải Ngài đã phanh thây Ra-kháp (Rahab)? Đã xé xác con rồng đó sao?”). Các Sách Cuộn Biển Chết minh họa một tính nhị nguyên khác, có hệ thống hơn, trong đó, các sức mạnh chống chọi nhau được liên kết với ánh sáng và bóng tối, như trong tính nhị nguyên Ba Tư, Zoroastrian (Xem Collins, 1997, 30-51, 91-109). Một bản văn tìm thấy trong các Sách Cuộn, gọi là Qui Luật Cộng đoàn (1QS), dường như là sách qui định cho một cộng đoàn phe phái. Nó chứa một khảo luận thần học đáng kể; khảo luận này tuyên bố rằng “Thiên Chúa Kiến Thức” đã thiết lập toàn bộ kế sách của mọi sự, thậm chí trước khi nó đi vào hiện hữu. Người tạo dựng cho con người hai thần linh, một thần linh ánh sáng, một thần linh bóng tối, và hai thần linh này đánh nhau trong trái tim con người. Thần linh Ánh sáng hướng con người làm điều thiện, và Thần linh Bóng tối dẫn con người ra sai lạc. Vào lúc này, họ thành công ngang ngửa, nhưng Thiên Chúa đã truyền đặt giới hạn cho trật tự này và sau cùng sẽ tiêu diệt các sức mạnh bóng tối. Một bản văn khác tìm thấy trong các Sách Cuộn, gọi là Sách Cuộn Chiến tranh (1QM) ra huấn thị cho trận chiến cuối cùng của Con Cái Ánh Sáng chống lại Con Cái Bóng Tối. Con Cái Ánh Sáng được lãnh đạo bởi tổng lãnh thiên thần Mi-ca-e, còn Con Cái Bóng Tối được dẫn dắt bởi Belial (một tên khác của Xa-tan). Trận đánh được chia thành 7 giai đoạn. Mỗi bên lần lượt thắng thế trong 6 giai đoạn đầu. Trong giai đọan sau cùng, Thiên Chúa cương quyết can thiệp để nâng dậy “vương quốc của Mi-ca-e giữa các thần và vương quốc Israel giữa mọi xác phàm” (1QM 17:7). Đây là một tranh chấp quân bình hơn là chúng ta thường tìm thấy trong các sách khải huyền. Xem ra nó không được tuân theo một cách rộng rãi và rất có thể chỉ của riêng phong trào phe phái được mô tả trong các Sách Cuộn (nhóm Essenes). Nhưng một hình thức nhị nguyên nào đó vẫn nội tại đối với bất cứ thế giới quan khải huyền nào. Đây không phải là một thế giới quan khuyến khích sự khoan dung. Đúng hơn, theo lời Sách Khải Huyền, “Ta muốn ngươi hoặc lạnh hoặc nóng. Do đó, vì ngươi hâm hấp, không nóng cũng không lạnh, ta sẽ nhổ ngươi ra khỏi miệng ta”(Kh 3:15-16). Chủ nghĩa nhị nguyên khuyến khích sự không khoan nhượng hay tính cực đoan. Người ta có thể hiểu sức lôi cuốn của các thế giới quan nhị nguyên, nhưng chúng thường có vấn đề.
Ngoài chủ nghĩa nhị nguyên tiềm ẩn, việc nhắc đến các huyền thoại xưa nói lên cảm thức này là những hữu thể nhân bản kiểm soát rất ít được sự việc của họ. Các thị kiến của Đa-ni-en nói tới các cuộc tranh đấu chính trị thời văn hóa Hy Lạp, nhất là các tranh chấp giữa triều Seleucids (triều Hy Lạp cai trị Syria) và người Do Thái thời Macabê. Nhưng đây chỉ là chuyện bề mặt. Thiên thần Gabrien giải thích cho Đa-ni-en rằng cuộc tranh chấp thực sự là giữa “các hoàng tử” thiên thần, “hoàng tử” hay thiên thần bản mệnh của Hy Lạp, và tổng lãnh thiên thần Mi-ca-e, “hoàng tử của Israel (Đn 10:13,20). Cuộc tranh chấp được giải quyết, không phải bằng vũ khí của Macabê, nhưng bằng Mi-ca-en, người sẽ chiến thắng ở Đn 12:1. Tương tự như thế, các vua của nhiều vương quốc khác nhau là các dã thú xuất hiện từ biển, hiện thân của cơn hỗn mang khởi nguyên. Một đàng, điều này cho thấy một cảm thức bất lực: dòng biến cố vượt quá quyền kiểm soát của con người. Đàng khác, nó thực sự cho thấy một cảm thức an toàn, vì chiến thắng được đoan chắc.
Các hữu thể thiên giới
Cảm thức cho rằng đời sống trên mặt đất lệ thuộc các quyền năng cao hơn cũng được phản ảnh trong việc nổi bật ngày càng gia tăng các thiên thần và ma quỷ trong các bản văn khải huyền. Ý niệm về một hội đồng thiên giới, nơi thần minh tối cao được bao quanh và yểm trợ bởi các hữu thể thần linh khác, cũng nổi bật ở Cận Đông xưa, và thường được chứng thực trong Kinh thánh Do Thái. Thiên giới được hiểu một cách loại suy với địa giới. Điều này đúng cho cả nền văn chương khải huyền tiên khởi cũng như cho các huyền thoại xưa hơn.
Vai trò của các hữu thể thiên giới này trong văn chương khải huyền khác với hội đồng thần linh xưa hơn về mức độ hoạt động trong các vụ việc nhân bản. Chính trong nền văn chương khải huyền mà các thiên thần được đặt tên: Mi-ca-e và Ga-bri-en trong Đa-ni-en, một số thiên thần khác trong sách Kha-nốc (Ra-pha-en, Rơ-u-en [Reuel], Sa-ri-en, U-ri-en). Những Kẻ Trông chừng hay thiên thần sa ngã cũng được đặt tên trong 1Kha-nốc, đáng lưu ý nhất là các lãnh tụ của họ là Asael và Shemihazah. Cũng chính trong văn chương khải huyền, mà chúng ta gặp lần đầu tiên khuôn dạng xa-tan trong tư cách hoàng tử sự ác: Belial trong các Sách Cuộc Biển Chết, Mastema trong Sách Các Năm Toàn Xá (Book of Jubilees). (Xa-tan xuất hiện trong Cựu Ước, nhất là Sách Gióp, nhưng hắn chưa phải là Hoàng tử Sự ác trong các bản văn Kinh thánh. Thời xưa, Thiên Chúa trực tiếp chiến đấu cho Israel. Nhưng trong Đa-ni-en, vai trò này được ủy cho Mi-ca-en. Hiện tượng này là thành phần của một thay đổi lớn trong cách Thiên Chúa được gặp gỡ thời Kinh thánh. Trong các sách tiên khởi của bộ Kinh thánh, Thiên Chúa chuyện vãn một cách thân mật với A-đam, Áp-ra-ham, và Mô-sê. Trong các sách sau đó và hậu lưu đầy, thông đạt thần linh được trung gian qua các thiên thần tầm cỡ nhân bản sẽ thông đạt với các tiên tri và hiền nhân bằng cách ngỏ lời mặt đối mặt với các vị này. Hiện tượng này lần đầu tiên xuất hiện trong lời tiên tri muộn sau này, trong sách Da-ca-ri-a và phần cuối của E-dê-ki-en. Trong Đa-ni-en và Kha-nốc, nó trở thành tiêu chuẩn. Chắc chắn điều này phản ảnh việc thay đổi tình huống chính trị thời Ba Tư và văn hóa Hy Lạp, trong đó, các nhà cai trị ngày càng xa cách, và nền hành chánh ngày càng ủy cho hệ thống bàn giấy đế quốc.
Hoài mong Đấng Thiên sai
Thế giới quan khải huyền, như được đặc trưng bởi sách Đa-ni-en, đặt niềm tín thác của nó vào sự trợ giúp thiên giới thay vì vào tác hoạt nhân bản. Trận chiến chiến thắng ở trên trời, chứ không bởi các đạo quân của con người trên mặt đất. Tác nhân tạo chiến thắng là chính tổng lãnh thiên thần Mi-ca-e, người là “con người mầu nhiệm giống như con người” đến trên mây trời để tiếp nhận vương quốc ở Đn 7:14. Một cách đáng lưu ý, cả Đa-ni-en lẫn bất cứ khải huyền tiên khởi nào mang tên Kha-nốc (Sách Các Kẻ Trông chừng, Khải huyền Các Tuần Lễ, hay Khải huyền Động vật) đều không có bất cứ vai trò nào cho đấng thiên sai, tức nói về một vị vua sẽ khôi phục dòng hoàng gia của Đa-vít. Chữ thiên sai (messiah) có nghĩa là “được xức dầu” và được sử dụng trong Kinh thánh Do Thái để chỉ một vị vua (thí dụ Tv 2:2; 89:39). Vị vua dòng Đa-vít, theo truyền thống, được coi là con Thiên Chúa (Tv 2; Tv 110) và do đó, theo một ý nghĩa thần linh nào đó, nhưng, tuy thế, ngài vẫn là một khuôn dạng nhân bản, hậu duệ của Đa-vít, hành động trong lãnh vực con người hơn là ở trên trời (về thiên tính của vị vua này xin xem Yarbro Collins và Collins).
Hoài mong Đấng Thiên sai có gốc gác trong lời hứa với Đa-vít ở 2Sm 7:11-16 rằng nhà ông và vương quốc ông được thiết lập đến muôn đời. Lời hứa này rõ ràng bị gián đoạn khi vương quốc Giu-đa bị người Babylon chinh phục vào năm 586 TCN. Các đoạn rải rác trong các bản văn tiên tri khẳng định niềm hy vọng cho rằng Thiên Chúa sẽ làm nên trọn lời hứa bằng cách lập nên một vị vua/đấng thiên sai để khôi phục dòng dõi Đa-vít (thí dụ, Gr 23:5-6; Gr 33:14-18).
Có lúc người ta đã xôn xao hy vọng Đấng Thiên sai đến với Dơ-rúp-ba-ven (Zerubbabel), người đã đặt đá móng để xây Đền Thờ Thứ Hai (Kg 1:23; Dcr 4:6-14). Nhưng hy vọng khôi phục chế độ quân chủ xem ra đã mờ nhạt hẳn qua thế kỷ thứ hai TCN.
Đến cuối thế kỷ thứ hai và đầu thế kỷ thứ nhất TCN, niềm hy vọng trên lại sống lại. Miêu duệ Macabê, được biết dưới danh Hát-mô-nê-ân (Hasmonean), sau cùng đã tự đặt mình làm vua (người đầu tiên đội vương miện và lấy tước hiệu vua là A-rít-tô-bu-lô [Aristobulus] đệ nhất, năm 104-103 TCN). Một số người Do Thái chỉ trích việc khai triển này, vì nhà Hát-mô-nê-ân không thuộc dòng dõi Đa-vít. Sự hiện diện của một dòng vua bất hợp pháp tăng cường niềm hy vọng Thiên Chúa sẽ khôi phục nhà Đa-vít. Niềm hy vọng được chứng thực trong các Thánh vịnh Sa-lô-môn, một bản văn không thuộc qui điển, được duy trì trong một số bản chép tay của Kinh thánh Hy Lạp, và thường được in cùng với nó. Các Thánh vịnh thường được nghĩ là công trình của phái Pha-ri-siêu. Chúng được viết sau cuộc chinh phục Giêrusalem của tướng La Mã Pompey năm 63 TCN, được họ giải thích như là phán xét của Thiên Chúa với dòng họ Hát-mô-nê-ân.
Hoài mong Đấng Thiên sai cũng được chứng thực trong các sách cuộn Biển Chết. Tuy nhiên, các sách cuộn khác biệt ở chỗ hy vọng đến hai đấng thiên sai, một từ A-ha-ron và một từ Israel. (Chúng cũng nhắc đến vị tiên tri được xức dầu, nhưng ít thường xuyên hơn). Đấng thiên sai từ A-ha-ron sẽ là Thượng Tế trong kỷ nguyên thiên sai. (Thượng Tế, giống như vị vua, cũng được xức dầu trong Cựu Ước. Xem Lv 4:3,5, 16). Đấng thiên sai từ Israel là đấng thiên sai làm vua từ dòng dõi Đa-vít. Ngài được quan niệm như một nhân vật chiến trận mà công việc là đánh bại quân thù. Sau khi Pompey chinh phục Giêrusalem, kẻ thù số một cần đánh bại là Rôma.
Đấng thiên sai nhà Đa-vít cuối cùng đã được tích hợp vào hoài mong cánh chung của các sách khải huyền. 4 Ét-ra được viết vào cuối thế kỷ thứ nhất CN, gần như cùng thời với Sách Khải Huyền. Nó không được gồm vào quy điển Công Giáo nhưng được bao gồm trong bản Phổ Thông tiếng La Tinh và trong Ngụy thư Thệ Phản. Nó dự liệu một triều đại thiên sai kéo dài 400 năm trên trái đất, sau đó, đấng thiên sai sẽ qua đời và thế giới sẽ trở lại với sự im lặng nguyên thủy trong 7 ngày. Tiếp theo sẽ là sáng thế mới và việc phục sinh của người chết (2 Ét-ra 7). Chủ đề quán xuyến của triều đại thiên sai trên trái đất trước sáng thế mới và sự phục sinh cuối cùng cũng được tìm thấytrong Sách Khải Huyền trong đó, người chính trực cùng với Chúa Kitô sẽ cai trị một ngàn năm.
Trong một số bản văn khải huyền, khuôn dung đấng thiên sai được kết hợp với khuôn dung “một người giống con người” trong thị kiến Đa-ni-en. Dù đấng thiên sai được cho biết là hậu duệ Đa-vít ở 4 Ét-ra (2 Étra) 12, trong chương 13, ngài xuất hiện từ lòng biển và đến trên đám mây, như “một người giống con người” ở Đa-ni-en 7. Một bản văn khải huyền khác, Similitudes of Enoch (Những người giống Kha-nốc) (1 En.37-72) xuất hiện vào khoảng thời Chúa Kitô, tập chú vào nhân vật gọi là “Con Người”, một nhân vật thiên giới, cao trọng hơn thiên thần, nhưng, dù thế, được đồng nhất hóa với đấng thiên sai (1En. 48:10; 52:4). Một mảnh khải huyền khác bằng tiếng Aram được tìm thấy trong các sách Cuộn Biển Chết (4Q246) nhắc đến nhân vật sẽ được gọi là Con Thiên Chúa và Con Đấng Tối Cao, và rất có lẽ là đấng thiên sai (so sánh với Luca 1:32-35).
Chúa Giêsu Na-da-rét không phải là nhân vật đầu tiên trong Do Thái Giáo được tưởng nghĩ rất có thể là đấng thiên sai. Một vài lãnh tụ cách mạng vào thời chiến tranh Do Thái chống lại La Mã trong các năm 66-70 CN cũng đã được coi như thế. (Hãy so sánh với Mc 13:21-22: “Nếu có ai bảo anh em : ‘Này, Đấng Ki-tô ở đây ! Kìa, Đấng Ki-tô ở đó!’, anh em đừng có tin. Thật vậy, sẽ có những Ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện”). Khoảng mấy trăm năm sau cái chết của Chúa Giêsu, lãnh tụ cách mạng Bar Kochba từng được kính chào như đấng thiên sai bởi giáo sĩ Akiba. Có tin một giáo sĩ khác đã chống lại: “Akiba, cỏ sẽ mọc giữa các má của ông và đấng thiên sai vẫn sẽ chưa đến” (Talmud Giêrusalem, cuốn Ta’anit 4.8). Phải công nhận rằng Bar Kochba rất phù hợp với khuôn mạo của điều phần lớn người Do Thái chờ mong một vị thiên sai phải là hơn cả Chúa Giêsu: ông là một chiến binh cống đuổi người La Mã ra khỏi xứ sở. Tuy thế, Chúa Giêsu là nhân vật duy nhất của kỷ nguyên này mà căn tính thiên sai còn tồn tại sau cáci chết của Người. Điều này khả hữu vì các người theo Người tin rằng Người sống lại từ cõi chết và sẽ đến một lần nữa như đáng thiên sai từ trời, Co Người được Đa-ni-en tiên đoán.
Tiếp cận với thiên đàng
Các hữu thể thiên giới dưới Thiên Chúa được chỉ định nhiều vai trò lớn lao hơn trong sự việc của con người trong văn chương khải huyền hơn trong các thời trước đó, nhưng các hữu thể nhân bản cũng được ban cho một mức độ tiếp cận thiên đàng chưa từng thấy. Dĩ nhiên, có nhiều tiền lệ. Gilgamesh từng du hành tới thế giới bên kia. Kha-nốc và Êlia từng được đưa về trời. Trong việc khai triển nền khải huyền Do Thái, nhân vật Kha-nốc là chủ yếu. Ông từng “cuốc bộ với Thiên Chúa (Elohim)” và được đưa về trời lúc kết thúc cuộc sống của ông. Trong các trước tác gán cho Kha-nốc trong thời chịu văn hóa Hy Lạp, elohim được hiểu là thiên thần hơn là Thiên Chúa: “Công việc của ngài là với những Người Trông chừng (Watchers), và những ngày sống của ngài là với những vị thánh thiện” (1En. 12:2). Sách Những Người Trông Chừng (1 En. 1-36) mô tả việc chuyên chở Kha-nốc lên trời, và đi thăm thú các nơi nằm ngoài tầm thông thường của kinh nghiệm con người, bao gồm các nền tảng của trái đất, ngục tù của các thiên thần sa ngã, các nơi giam giữ các người đã chết để chịu phán xét, nơi chuẩn bị để chịu phán xét sau cùng, và thiên đàng. Trong các sách khải huyền sau đó, cuộc thăm thú thiên đàng đã được làm theo một kiểu ước lệ cố định [stylized], đến nỗi thị nhân tiến qua một số tầng trời – 3 trong các trước tác xưa hơn, sau này là 7, thậm chí có khi 10.
Mọi cuộc thăm thú thiên đàng trong các khải huyền của Do Thái đều được gán cho các nhân vật huyền thoại của quá khứ xa xôi – Kha-nốc, Lêvi, Ápraham v.v... Hiện chưa rõ liệu họ có hề phản ảnh thực hành lên trời huyền nhiệm trong Do Thái thời Đệ nhị Đền Thời hay không. Ít nhất, điều rõ ràng là một vài tác giả Do Thái tưởng tượng việc lên các tầng trời, và làm điều đó rất chi tiết. Bất chấp có chăng bất cứ truyền thống thực hành huyền nhiệm nào hay không, ý niệm cho rằng những việc lên trời như thế là điều khả hữu, rõ ràng đã trở thành phổ biến.
Nhưng một khía cạnh nữa của việc con người tiếp cận thiên đàng còn quan trọng hơn nữa. Đó là việc linh hồn, hay tinh thần, của người công chính qua đời lên thiên đàng, và ngược lại, ý niệm cho rằng linh hồn, hay tinh thần, người ác sẽ bị kết hình phạt ở đời sau. Kinh thánh Do Thái cung ứng rất ít hy vọng cho những kẻ tử sinh khi đứng trước sự chết:
“Như đoàn vật nhốt trong âm phủ,
chính tử thần canh giữ chăn nuôi,
chúng nhào thẳng xuống nơi huyệt mả,
sẽ tiêu tan cả đến hình hài,
chốn âm phủ thành nơi cư ngụ” (Tv 49:15)
Ngoại lệ thỉnh thoảng có thể có, nhưng đối với thân phận chung của nhân loại, sẽ không có việc tìm hiểu về đời sống ở Sheol. Sách Đa-ni-en là chứng tá không bị tranh luận của việc phục sinh người chết trong Kinh Thánh Do Thái:
“Thời đó, dân ngươi sẽ thoát nạn, nghĩa là tất cả những ai được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa. Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao” (Đn 12:1-3)
Việc lên công thức sớm sủa này không dự kiến việc phục sinh phổ quát; chỉ những người rất tốt và rất xấu sẽ được chỗi dậy. Phạm vi này sẽ được nới rộng trong các khải huyền sau đó. Đa-ni-en 12 không giả thiết việc người chết sẽ trở lại trái đất. Địa điểm của sự sống phục sinh chỉ được chỉ rõ trong trường hợp “hiền sĩ”, nhiều người số họ được cho biết là họ mất mạng sống vào thời bách hại. Họ sẽ sáng láng như các tinh tú, những thực thể, trong thành ngữ khải huyền, có nghĩa là: họ sẽ trở thành các đồng chí của số đông thiên thần. Điểm này được giải thích trong các thư của Kha-nốc (phần cuối cùng của 1 En.) nơi người chính trực được nói rằng:
Các ngươi sẽ sáng láng như các vi sao trời;
Các ngươi sẽ sáng lạn và hiện ra,
Và các cửa thiên đàng sẽ được mở ra cho các ngươi...
Các ngươi sẽ là những người đồng hành với đám đông thiên đàng.
(1En. 104:2,6)
Ở đây, điều có liên quan không phải là việc phục hồi sự sống trên mặt đất mà là việc biến đổi sự sống nhân bản lên một bình diện cao hơn. Tương tự như thế, theo Luật Cộng Đoàn của Qumran, số phận con cái sự sáng “là phúc lành kéo dài và niềm vui vô tận trong đời sống không bao giờ ngưng, một triều thiên vinh quang và bộ áo uy nghi trong ánh sáng bất tận” (1QS 4:7). Những cách phát biểu này giả thiết rằng người chết sống lại sẽ có một loại thân xác nào đó, nhưng không phải là thân xác có thịt có xương, mặc dù ý niệm một cuộc phục sinh thể lý cuối cùng sẽ vững ổn trong cả Do Thái Giáo lẫn Kitô giáo. Một trong những thảo luận chi tiết về thân xác sống lại được Thánh Phao-lô cung cấp ở 1 Cô-rin-tô 15: 36-44:
“Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống. Cái ngươi gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng hạn như hạt lúa hay một thứ nào khác...
Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt... gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí. Nếu có thân thể có sinh khí, thì cũng có thân thể có thần khí”.
Hy vọng phục sinh thân xác thể lý cũng được chứng thực trong các bản văn Do Thái từ thế kỷ thứ hai TCN trở đi. Một thí dụ tiên khởi tìm thấy ở 2Mcb 7, trong đó, các vị tử đạo bị cắt xẻ bày tỏ niềm tin họ sẽ nhận lại tứ chi vào ngày sống lại. Đến thế kỷ thứ nhất CN, việc phục sinh thân xác thể lý trở thành tiêu chuẩn trong các sách khải huyền.
Niềm hy vọng khải huyền đối với việc phục sinh thuộc điều vốn được gọi là “khám phá ra tính siêu việt” trong hậu bán thiên niên kỷ cuối cùng trước khi bước sang kỷ nguyên. Ý niệm về một linh hồn bất tử từng được khai triển tại Hy Lạp vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ nhất TCN, bởi phái Pythgorean và Orphic, và được Pla-tông đặc biệt phổ biến. Ý niệm về một tinh thần hay linh hồn bất tử trong nền văn chương khải huyền Do Thái không hẳn dẫn khởi từ triết học Pla-tông, nhưng nó đại diện cho một khai triển tương tự trong nền văn hóa lân bang, trong việc thẩm hóa hỗ tương của nhiều nền văn hóa thời văn hóa Hy Lạp.
Việc Kitô giáo tiếp hữu nền văn chương khải huyền
Tuy nhiên, chính nhờ việc xuất hiện của Kitô giáo, thế giới quan khải huyền mới có tác động lớn lao nhất. Thánh Phalô hứa với tín hữu Cô-rin-rô:
“Không phải tất cả chúng ta sẽ chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi, trong một giây lát, trong một nháy mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên. Vì tiếng kèn sẽ vang lên, và những kẻ chết sẽ trỗi dậy mà không còn hư nát; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi” (1Cr 15:51-52)
Niềm tin cho rằng việc kết thúc lịch sử và việc người chết sống lại đã gần kề là điều làm cho niềm tin rằng Chúa Kitô đã sống lại thật khả hữu. “Nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Ki-tô đã không trỗi dậy” (1Cr 15:13). Nhưng Thánh Phalô nhất định cho rằng Chúa Ki-tô đã trỗi dậy thật, không như một phép lạ cô lập mà như “hoa trái đầu tiên của những ai đã chết” (1Cr 15:20).
Khác biệt chính giữa nền văn chương khải huyền Do Thái và Ki-tô giáo tiên khởi hệ ở việc rút ngắn lại lịch sử trong Tân Ước. Thay vì nhìn lui tới thời Kha-nốc hay Đa-ni-en, các người viết Tân Ước tập chú vào thời kỳ do Chúa Giêsu khai mở. Việc này tăng cường cảm thức sắp xẩy ra. Sách Khải Huyền quan tâm tới “điều chẳng bao lâu phải xẩy ra” (Kh 1:1). Cảm thức sắp xẩy ra này, dĩ nhiên, khó duy trì trong một thời gian dài, nhưng nó đã định kỳ tái hiện suốt trong lịch sử Ki-tô giáo.
Việc Ki-tô giáo tiên khởi tiếp hữu nền văn chương khải huyền cũng đã được tô mầu tô sắc bởi tầm quan trọng có tính mô hình vốn gán cho sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Trong sách Khải Huyền, Chúa Giêsu là Con Chiên bị sát tế và cứu chuộc các thánh bằng máu của Người (Kh 5:9). Xatan bị đánh bại bởi máu Con Chiên và chứng ngôn của các vị tử đạo (Kh 12:10). Những người đã chết thời bách hại vốn đã có một vài trò nổi bật trong sách Đa-ni-en. Vai trò này được tăng cường trong Khải Huyền. Khải Huyền hứa hẹn việc biến đổi thế giới này trong một sáng thế mới, nhưng điểm nhấn mạnh chính của công trình này là về tính siêu việt của sự chết. Quả thực, trong sáng thế mới, cũng như trong điều gọi là Khải Huyền của Isaia, “Sẽ không còn sự chết... vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21:4).
Kết Luận
Ngay trong Khải Huyền, việc nhấn mạnh tới ơn cứu rỗi cá nhân cũng đã được tích hợp vào viễn kiến toàn diện về thế giới, vốn chịu ảnh hưởng nặng nề của các huyền thoại xưa. Mi-ca-e đánh nhau với Con Rồng ở trên trời, các dã thú đi lên từ biển và đất, và tiếp theo có cả một trận đánh lớn lên đến cao điểm bởi sáng thế mới. Viễn kiến về thế giới là viễn kiến về một nơi mong manh, không ngừng gặp khủng hoảng vượt quá quyền kiểm soát của con người. Nạn vô chính phủ không ngừng được thả lỏng trên thế giới. Viễn kiến này nhận được phần lớn sức mạnh của nó từ tính biểu tượng mà qua đó nó được phát biểu. Sự kiện sách Khải Huyền nói tới các dã thú và con rồng, ngay cả khi Thánh Gioan có những ý chỉ chuyên biệt trong đầu, có nghĩa là các biểu tượng này có thể được tái áp dụng, và các vật được nhắc đến được cập nhật hóa, để giải thích các cuộc khủng hoảng mới trong lịch sử. Sức lôi cuốn của văn chương khải huyền phát xuất từ sự kiện những cuộc khủng hoảng như thế luôn có với chúng ta.
Văn chương khải huyền vốn có sức quyến rũ lớn nhất trong những lúc có khủng hoảng. Phần lớn toàn bộ các sách khải huyền của Do Thái bao gồm các bản văn phát xuất từ khoảng thời gian có cuộc khủng hoảng Ma-ca-bê (Đa-ni-en, Khải Huyền Động Vật, và Khải Huyền Các Tuần trong 1En.) hay từ thời gian sau cuộc nổi dậy của Do Thái chống La Mã và việc phá hủy Đền Thờ Giêrusalem năm 70 CN. Trong các bối cảnh này, chúng hành động như nền văn chương kháng chiến (Portier, Young), khẳng định chủ quyền của Thiên Chúa chống lại chủ quyền của vương quốc Seleucid hay Đế Quốc La Mã. Chúng thường bị hoài nghi xúi bẩy các thái độ cách mạng, nhưng trên thực tế, phần lớn chúng duy trì thái độ ẩn dật. Đa-ni-en chẳng hạn, dựa vào tổng lãnh thiên thần Mi-ca-e và đạo binh thiên quốc hơn là nhà Ma-ca-bê. (Sách Khải huyền Động vật thân Ma-ca-bê trong 1En. là ngoại lệ về phương diện này). Tuy nhiên, sẽ là một lầm lỗi, khi xếp loại các sách khải huyền chỉ như nền văn chương của khủng hoảng. Căn cứ vào Các Sách Cuộn Biển chết và Tân Ước, điều rõ ràng là thế giới quan khải huyền là điều được chia sẻ rộng rãi vào thời kỳ giữa nhà Ma-ca-bê và cuộc nổi dậy chống La Mã. Nó trở thành một truyền thống riêng và được Ki-tô giáo tiếp quản phần lớn. Việc mong Thiên Chúa can thiệp gần kề mờ dần sau cuối thế kỷ thứ nhất CN, nhưng thỉnh thoảng lại tái xuất hiện qua các thế kỷ sau đó. Ngược lại, đạo Do Thái của các Rabbi bác bỏ văn chương khải huyền có lẽ vì vỡ mộng sau cuộc nổi dậy thất bại chống La Mã. Nhưng ngay trong Do Thái giáo, thỉnh thoảng vẫn có cuộc hồi sinh của nhiệt tình khải huyền, và lưu tâm khải huyền đối với thế giới thiên đàng vẫn là người loan báo quan trọng của nền huyền nhiệm học Do Thái, từng trăm hoa đua nở thời Trung Cổ.