«Hãy có cùng một tâm trí như Chúa Giêsu Kitô đã có» (Phi-líp 2:5)

Những lời này của Thánh Phaolô mà chúng ta vừa nghe vang vọng tiếng nói của Thiên Chúa và tinh thần của Giáo Hội sơ khai. Thánh Phaolô đã viết những lời này gần cuối cuộc đời và cuối chức thánh của ngài, khi đang bị giam cầm tại Rôma. Chắc chắn ngài đã rất cẩn thận khi chọn từ ngữ và hình ảnh khi ngỏ lời với cộng đồng Kitô giáo đầu tiên ở Âu Châu.

Nhiều học giả tin rằng đoạn văn này có thể không phải do chính Phao-lô biên soạn, mà được chèn vào thư của ngài như một trích dẫn hoàn chỉnh — một bài thánh ca ngợi Chúa Kitô mà Hội Thánh tại Phi-líp-phê có lẽ đã quen thuộc và hát trong các buổi lễ phụng vụ. Không phải ngẫu nhiên mà Phao-lô mở đầu bài thánh ca này bằng một lời khuyên mục vụ: «Anh em hãy có cùng một tâm tình như Chúa Giêsu Kitô». Rõ ràng, tư tưởng và thái độ của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với lối suy nghĩ thịnh hành, được coi là «chủ đạo» tại thành phố đó.

Vào thời điểm bức thư này được viết, Phi-líp-phê là một thuộc địa quân sự quan trọng của Rôma nằm trên một trong những tuyến đường giao thông huyết mạch của thế giới cổ đại—Via Egnatia. Con đường này nối liền Biển Adriatic với Biển Aegean, và sau đó nối liền Rôma với Constantinople. Cư dân của thành phố chủ yếu là binh lính hoặc cựu chiến binh của quân đội Rôma. Thế giới quan của họ phản ánh các giá trị của một xã hội quân sự hóa, trong đó vinh quang và quyền lực đặt một người lên đỉnh cao của kim tự tháp xã hội, nơi các đặc quyền và cấp bậc quân sự được giành được trên chiến trường và được coi—cùng với của cải cướp được—là những quyền bất khả xâm phạm mang lại ý nghĩa và phẩm giá cho cuộc sống của họ. Tâm lý được nuôi dưỡng ở đó đã thúc đẩy mọi người hướng lên, vì chỉ ở đó, theo quan điểm của họ, mới có quyền lực và vinh quang. Chỉ trước những người ở trên đỉnh cao, mọi đầu gối bên dưới mới phải cúi đầu—dù là tự nguyện hay bị ép buộc và sợ hãi.

Với những người Phi-líp-phê này, Tông đồ Phao-lô rao giảng về Chúa Kitô, Đấng “dù vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân. Ngài đã mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên thập tự giá.” Với những người đang khao khát vươn lên, Phao-lô rao giảng về Đấng đã chọn hạ mình xuống.

Chúa Kitô không xem sự hiện hữu của Ngài trong bản tính thần linh là một «đặc ân bất khả xâm phạm». Khi nói về Ngài, Phao-lô dùng từ harpagmon (ἁρπαγμὸν)—một thuật ngữ gợi lên hình ảnh con mồi của một kẻ săn mồi bị kẹp chặt trong móng vuốt của nó, không muốn thả ra cho kẻ khác. Do đó, sự xuất hiện của Chúa Kitô trong hình hài một người tôi tớ là một chuyển động, một hành động, một quá trình tự nguyện từ bỏ chính mình. Sử dụng từ ekenosen (ἐκένωσεν), Phao-lô thực sự nói về một «sự từ bỏ»—một sự từ bỏ mọi quyền năng và đặc ân phát sinh từ sự bình đẳng về thần tính của Ngài với Đức Chúa Cha.

Mục đích của sự giáng thế này của Con Thiên Chúa là cái chết trên thập tự giá—cái chết đáng xấu hổ và nhục nhã nhất, dành làm hình phạt cho những nô lệ và được gọi là servile supplicium.

Với tín hữu Phi-líp-phê, Phao-lô công bố: “Đức Kitô chịu đóng đinh là điều người Do Thái coi là chướng ngại vật và dân ngoại cho là điên rồ, nhưng đối với những người được kêu gọi, dù là người Do Thái hay người Hy Lạp, thì Đức Kitô là quyền năng của Thiên Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1 Cô-rin-tô 1:23-24). Vị Tông đồ này chỉ ra một nghịch lý thần thánh: việc đóng đinh trên thập giá—điểm thấp nhất của sự hạ mình trong cuộc giáng thế của Đức Kitô—lại trở thành khoảnh khắc vinh quang và thăng thiên. Điều mà con người cho là xấu hổ lại trở thành giờ phút Chúa Cha tôn vinh Con Ngài, ban cho Ngài “danh hiệu trổi vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe danh Đức Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa.”

Anh chị em thân mến trong Chúa Kitô! Hôm nay, Ukraine – dân tộc và Giáo hội của chúng ta – đang bước đi trên con đường kenosis được công bố cho chúng ta trong Lời Chúa này. Mỗi sự mất mát người thân, mỗi thành phố và làng mạc bị phá hủy, đều để lại trong lòng chúng ta một khoảng trống không gì bù đắp được. Cả thế giới đang chứng kiến thảm kịch của Ukraine: một số người kinh ngạc, số khác thờ ơ; một số khác bất lực giơ tay lên và biến nỗi đau và sự thống khổ của chúng ta thành chất liệu cho các cuộc chiến truyền thông và thao túng, lợi dụng điều đó để phân cực xã hội của họ và giành lợi thế chính trị.

Ngày nay, dân tộc chúng ta đang chịu đựng sự đóng đinh của chính mình trước mắt cộng đồng thế giới, và dường như Thánh Phaolô đã nói chính xác về chúng ta khi ngài nói: «Chúng ta đã trở thành trò cười cho thế gian, cho thiên thần và cho loài người» (x. 1 Cr 4:9). Tuy nhiên, quyền năng và vinh quang của Thập Giá Chúa được tỏ lộ trong những đau khổ của chúng ta—và trong lời hy vọng của chúng ta, cho cả Ukraine và từ Ukraine, cho nhân loại đương đại.

Chúng ta đang chảy máu, và một lần nữa chúng ta tự hỏi: Chúa ơi, tại sao? Có lẽ câu hỏi này - Tại sao chúng ta, những người Ukraine, phải bị đóng đinh trước mắt toàn thế giới ngày hôm nay? - đang là tâm điểm suy ngẫm của tất cả những người thiện chí, cả người có đức tin lẫn người không có đức tin. Chúa ơi, tại sao các quốc gia khác được sống, phát triển, hân hoan và thịnh vượng, trong khi chúng ta phải chết đêm này qua đêm khác? Tại sao máu của những đứa trẻ lại chảy trên đất Ukraine? Chúa ơi, tại sao?

Có lẽ câu trả lời cuối cùng cho câu hỏi này sẽ chỉ được tiết lộ vào Ngày Phán Xét Cuối Cùng, khi tất cả những điều ẩn giấu sẽ được đưa ra ánh sáng. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, chìa khóa để hiểu được thảm kịch này nằm ở Thập Giá thánh thiện và ban sự sống của Chúa Kitô.

Một trong những phản ứng sâu sắc nhất đối với điều bí ẩn này đã được nêu ra trong Bữa sáng cầu nguyện tại Kyiv vào Ngày Độc lập, khi mọi người từ khắp nơi trên thế giới đến cầu nguyện cùng chúng tôi, cùng với các nhà lãnh đạo của chúng tôi, để lắng nghe Lời Chúa và để kỷ niệm Ngày Độc lập của Tổ quốc chúng ta.

Một người đàn ông tên Maksym Kulyk đến từ Kryvyi Rih đã bước lên phía trước - một người chồng, người cha đã trải qua bi kịch tương tự như gia đình Bazylevych ở Lviv. Chỉ trong một đêm, trong một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn của Nga, anh đã mất vợ và ba đứa con. Con gái út của anh, Uliana, mới chỉ hai tháng tuổi.

Người cha ấy hỏi: Lạy Chúa, tại sao chuyện này lại xảy ra với con?

Có người có thể trả lời: Chính vì tội lỗi của anh mà anh phải chịu đau khổ như vậy. Nhưng anh ấy trả lời:

«Không, điều đó không đúng! Những quốc gia khác ngày nay sống trong sự thịnh vượng cũng chẳng tội lỗi hơn hay ít tội lỗi hơn người dân Ukraine.»

«Tôi tin chắc rằng hôm nay Chúa đang tôn vinh và nâng cao Ukraine qua đau khổ, và đặt những vết thương của chúng ta trước mắt toàn thế giới. Ngài đang nói với tất cả những ai muốn đứng về phía lẽ phải của lịch sử: «Đừng ngoảnh mặt làm ngơ trước đau khổ, máu đổ, và nỗi đau của Ukraine.'“

«Chính vì lý do này mà Chúa muốn thế giới ngày nay nhìn thấy người Ukraine—nhìn thấy trái tim tin tưởng sâu sắc của chúng tôi, và nhận ra ở mọi ngóc ngách trên thế giới tâm hồn tin tưởng của Ukraine.»

Trong chúng ta ngày nay, nghịch lý thiêng liêng này một lần nữa lại được ứng nghiệm: sự đóng đinh trên thập tự giá—điểm thấp nhất của sự sỉ nhục trong sự giáng lâm—đã trở thành khoảnh khắc vinh quang và thăng thiên.

Hôm nay, cùng với đại diện Hội đồng các Giáo hội và Tổ chức Tôn giáo toàn Ukraine, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến tất cả anh chị em Kitô hữu Na Uy và tất cả những người thiện chí vì tình đoàn kết với Ukraine. Cảm ơn anh chị em đã thể hiện lòng trắc ẩn đối với chúng tôi «cùng một tâm tình như Chúa Kitô Giêsu» (x. Phil. 2:5).

Giữa thảm kịch của cuộc chiến tranh xâm lược này—là một sự báng bổ chống lại Chúa và tội ác chống lại loài người—chúng ta nhớ lại lời của Thủ tướng Bồ Đào Nha, Hầu tước de Pombal, đã nói sau trận động đất làm rung chuyển Âu Châu năm 1755: «Hãy chôn cất người chết và nuôi sống người sống.» Mong rằng điều này sẽ trở thành phương châm cho sứ mệnh chung của chúng ta về lòng thương xót của Chúa Kitô—để chấm dứt chiến tranh và cứu Âu Châu khỏi một thảm họa khác.

Nguyện xin sự đau khổ của chúng ta và chứng tá chung của chúng ta về Phúc Âm của Chúa Kitô phục vụ cho mục đích «khi nghe danh Chúa Giêsu, mọi đầu gối phải quỳ xuống, trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ, và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Chúa Giêsu Kitô là Chúa, để tôn vinh Thiên Chúa Cha.»

A-men.


Source:UGCC