Dominik Markl (1), trong Vulgata in Dialogue số 4 năm 2020, có bài viết giá trị về gương học hỏi và nghiên cứu nghiêm túc của Thánh Giêrônimô, vị Thánh Tiến Sĩ có thể nói là một trong giáo phụ của ngành chú giải Kinh Thánh Kitô giáo và lễ Kính rơi vào ngày 30 tháng Chín vừa qua.

TÓM TẮT: Thánh Giêrônimô xứ Stridon (khoảng 347–420 CN), sau Origen, là một trong số ít học giả Kitô giáo thời cổ đại tham gia nghiên cứu sâu sắc về ngôn ngữ Kinh Thánh Hy Lạp và Do Thái. Bản dịch tiếng Latinh hoàn hảo về mặt văn phong của ngài đã được coi là Kinh Thánh chuẩn mực của Kitô giáo phương Tây trong một thiên niên kỷ — bản Phổ Thông (Vulgate). Bên cạnh những nghiên cứu chuyên sâu về văn học và ngôn ngữ, thành tựu to lớn của Thánh Giêrônimô với tư cách là một học giả Kinh Thánh còn dựa trên lòng nhiệt thành trong tu viện, việc giảng dạy nhiều nhà chú giải Kinh Thánh có nguồn gốc Kitô giáo và Do Thái giáo, kiến thức về địa lý Kinh Thánh, và một mạng lưới học thuật trải dài khắp lưu vực Địa Trung Hải.



1. Dẫn nhập

Thánh Giêrônimô được cho là một trong những học giả Kinh Thánh có ảnh hưởng nhất trong lịch sử Kitô giáo.(2) Ngài là học giả đầu tiên biên soạn hầu hết các sách thuộc Kinh Thánh qui điển, và bản dịch tiếng Latinh của ngài đã được chấp nhận rộng rãi là bản "Phổ Thông" ở phương Tây Kitô giáo trong hơn một thiên niên kỷ. Ngay từ khi còn sống, các tác phẩm chú giải của Thánh Giêrônimô đã được những nhân vật lỗi lạc như Thánh Augustinô thành Hippo sử dụng. Trong suốt thời Trung cổ và đầu thời Hiện đại, Thánh Giêrônimô được miêu tả là một hình mẫu điển hình về học vấn khổ hạnh.(3) Cùng với các thánh Ambrôxiô, Augustinô và Grêgôriô, ngài được tôn kính như một trong những tiến sĩ vĩ đại của Giáo hội Latinh, được Đức Giáo Hoàng Boniface VIII xác nhận vào năm 1295. Cho đến ngày nay, một trong những bộ chú giải Kinh Thánh một tập được phân phối rộng rãi nhất có tựa đề là The Jerome Biblical Commentary (Bình luận Kinh Thánh Giêrônimô).(4) Chìa khóa thành công của Thánh Giêrônimô là gì? Trong phần tiếp theo, tôi sẽ khám phá một số khía cạnh trong cuộc đời và sự học của ngài, mà, nếu có thay đổi [mutatis mutandis], vẫn có thể là hình mẫu cho các học giả Kinh Thánh đương thời.

2. Nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn học

Sinh khoảng năm 347 tại thị trấn Stridon (5), thuộc vùng ngoại vi của Đế quốc La Mã, nằm ở Croatia ngày nay, Thánh Giêrônimô đã dành những năm tháng tuổi thiếu niên ở Rome để học ngôn ngữ và văn học Latinh với Aelius Donatus, một học giả được kính trọng nhất trong lĩnh vực này vào thời của ngài. Sách của Donatus đã trở thành những tác phẩm tiêu chuẩn của ngữ pháp trong thời Trung Cổ. “Khi nói đến tiếng Latinh, tôi đã dành gần như cả cuộc đời mình từ khi còn trong nôi với các nhà ngữ pháp, nhà hùng biện và triết gia”, Thánh Giêrônimô viết trong lời tựa của ngài cho sách Gióp. Ngài dường như đã trau dồi tiếng Hy Lạp của mình trong chuyến hành trình đầu tiên đến phương Đông vào cuối những năm hai mươi tuổi (373–379). Tuy nhiên, điều đặc biệt nhất là việc Thánh Giêrônimô học tiếng Do Thái một cách kỹ lưỡng (6), điều mà ngài bắt đầu trong cùng thời gian, khi sống hai năm ở sa mạc Syria. Kiến thức tiếng Do Thái của ngài ngày càng uyên thâm hơn khi ngài dịch các sách Cựu Ước với sự giúp đỡ của các cố vấn Do Thái. Thánh Giêrônimô đã học một số ít tiếng Aram và tiếng Syria nhưng không đạt được trình độ sâu sắc trong các ngôn ngữ này.

Không giống như những người học tiếng Do Thái hiện đại, Thánh Giêrônimô không có sách giáo khoa hay ngữ pháp tiếng Do Thái để sử dụng. Ngài phải tự mình tìm hiểu các bản văn tiếng Do Thái không có nguyên âm thông qua việc học tập bản thân tỉ mỉ và sự giúp đỡ của các giáo viên. Ngài khoe những khó khăn của mình trong việc học ngôn ngữ. Sau khi đọc những tác phẩm tiếng Latinh vĩ đại như của Cicero và Pliny, ngài viết:

“Lúc đó tôi đang học bảng chữ cái và học các từ tiếng Do Thái với âm rít và âm ồm. Những khó khăn tôi phải chịu đựng, những khó khăn phải vượt qua, bao nhiêu lần tôi thất vọng, bao nhiêu lần tôi bỏ cuộc và, tràn đầy khát khao học hỏi, tôi lại bắt đầu, chỉ có tôi và những người sống cùng tôi biết. Nhưng tôi tạ ơn Chúa vì từ hạt giống học vấn được gieo trong cay đắng này, giờ đây tôi đã gặt hái được những trái ngọt” (Thư 125,12).

Thánh Giêrônimô không phải là Kitô hữu duy nhất thời cổ đại làm quen với các ngôn ngữ Kinh Thánh. Người tiền nhiệm nổi bật nhất của ngài với tư cách là một học giả Kitô giáo nghiên cứu tiếng Do Thái là Origen (khoảng năm 185–254), và trong khi Thánh Giêrônimô chứng thực rằng Epiphanius xứ Salamis biết tiếng Do Thái, Thánh Giêrônimô có thể là tác giả Kitô giáo cuối cùng không phải người Do Thái có được kiến thức sâu rộng về tiếng Do Thái trong nhiều thế kỷ sau đó.(7) Chỉ với sự quan tâm ngày càng tăng của những người theo Kitô giáo đối với Kabballah trong thế kỷ 15, và mối quan tâm nhân văn đối với các nguồn gốc cổ đại, thì việc nghiên cứu tiếng Do Thái mới bắt đầu trở thành một vấn đề uy tín trong giới học giả Kitô giáo.(8) Thánh Giêrônimô tự hào tuyên bố, vì những lý do chính đáng, rằng ngài được gọi là một học giả của “Tiếng Do Thái, tiếng Hy Lạp và tiếng La-tinh, ba ngôn ngữ” (Contra Rufinum III 6), và sau đó ngài được vinh danh là vir trilinguis [người có ba ngôn ngữ].

Trong suốt cuộc đời mình, Thánh Giêrônimô đã di chuyển ad fontes [về nguồn] của Kinh Thánh cả về mặt địa lý lẫn ngôn ngữ: học tiếng Latinh ở Rome, tiếng Hy Lạp ở Constantinople và Antioch, và tiếng Do Thái ở Syria và Palestine.(9) Chất lượng sự gắn bó của Thánh Giêrônimô với Kinh Thánh dựa trên sự sẵn lòng dành nhiều thời gian và công sức cho việc nghiên cứu các ngôn ngữ Kinh Thánh, điều này được hưởng lợi từ những nghiên cứu ban đầu của ngài về lý thuyết ngữ pháp và văn học Latinh.

3. Niềm đam mê đơn tu đối với Kinh Thánh

Mặc dù chúng ta biết rất ít về thời thơ ấu của Thánh Giêrônimô, nhưng nền giáo dục cổ điển của ngài dường như đã có trước niềm đam mê mãnh liệt của ngài đối với Kinh Thánh. Ngài chỉ được rửa tội vào khoảng hai mươi tuổi, vào năm 367 tại Rome. Sau đó, ngài đến dinh thự hoàng gia Augusta Treverorum (nay là Trier ở Đức), nơi ngài tiếp xúc với phong trào đơn tu và quyết định từ bỏ mọi khát vọng theo đuổi sự nghiệp thế tục, thay vào đó chọn một cuộc sống đơn tu nghiêm ngặt.(10) Đời sống đơn tu Kitô giáo ban đầu bao gồm việc học thuộc lòng Thánh Vịnh và các tác phẩm Kinh Thánh khác.(11) “Suy gẫm” có nghĩa là “nhai lại”, tức là lặp lại và “nhai” từng lời của Kinh Thánh, đúng như Shema Yisrael [Hãy nghe, hỡi Israel] gợi ý: “Những lời mà Ta truyền cho ngươi hôm nay phải ghi tạc trong lòng ngươi. Hãy đọc lại cho con cháu ngươi nghe, và lặp lại chúng khi ở nhà cũng như khi đi xa, khi ngươi nằm xuống cũng như khi ngươi thức dậy” (Đệ Nhị Luật 6:6-7).(12)

Đề cập đến câu mở đầu của Thánh Vịnh — “Phước cho những ai… lấy Tôra của Đức Chúa làm niềm vui”, Thánh Giêrônimô viết, “Liệu có một cuộc sống nào khác, một cuộc sống không cần biết đến Kinh Thánh, mà qua đó Chúa Kitô được được biết, cuộc sống của các tín đồ là ai?… Những người khác có thể sở hữu kho báu, uống rượu từ những chiếc ly chạm trổ, mặc đồ lụa sáng bóng, tận hưởng tiếng vỗ tay của mọi người và giàu có đến mức không thứ xa xỉ nào có thể làm giảm đi sự giàu có của họ! Niềm vui của chúng tôi là được suy gẫm luật pháp của Chúa ngày và đêm!” (Thư 30,7.13).

Việc học thuộc lòng là một thành phần cơ bản của nền giáo dục cổ điển,(13) và cũng theo hướng đó, Thánh Giêrônimô đã khuyến khích việc học thuộc lòng toàn bộ các sách Kinh Thánh (Thư 107.12). “Bằng cách đọc liên tục và suy gẫm lâu dài”, một Kitô hữu thành đạt sẽ biến “lòng mình thành một thư viện của Chúa Kitô” (Thư 60.10).(14) Thánh Giêrônimô coi Kinh Thánh về cơ bản là “Kinh Thánh”.(15) Ngài sống với Kinh Thánh như một đan sĩ và một nhà thuyết giáo thường xuyên.(16) Một thái độ tâm linh dẫn dắt công việc dịch thuật của ngài. Trong lời tựa của Ngũ Kinh, Thánh Giêrônimô đã xin Desiderius cầu nguyện “để tôi có thể dịch những sách này sang tiếng Latinh theo cùng tinh thần mà chúng được viết ra”. Niềm đam mê của Thánh Giêrônimô với Kinh Thánh ngày càng mãnh liệt qua nhiều thập niên và tiếp thêm năng lực cho ngài thực hiện các tác phẩm ấn tượng gồm bản dịch, bình luận và luận thuyết.

Về Origen, Thánh Giêrônimô viết, “ông ấy thuộc lòng Kinh Thánh, và ngày đêm miệt mài nghiên cứu ý nghĩa của chúng… Ai mà không ngưỡng mộ tinh thần cháy bỏng vì Kinh Thánh của ông ấy chứ?” (Thư 84,8).

Tương tự, một Postumianus nào đó đã ca ngợi sự tận tâm của Thánh Giêrônimô với công việc của mình: “Ngài đọc sách mọi lúc. Ngài dành toàn bộ tâm huyết cho sách vở, không cho mình nghỉ ngơi, dù ngày hay đêm. Ngài luôn đọc hoặc viết”.(17)

Đạo đức công việc của Thánh Giêrônimô được truyền cảm hứng từ một nhiệt huyết trí thức sâu sắc, đồng thời cũng là một khát vọng tâm linh: hiểu biết sâu sắc các tác phẩm Kinh Thánh để cảm nghiệm món quà đời sống tâm linh của chúng. Niềm đam mê trí thức và khát vọng tâm linh đã cùng nhau nuôi dưỡng sự nghiệp học thuật của ngài.(18)

4. Một loạt các bậc thầy chú giải Kinh Thánh

Sau khi nghiên cứu văn học cổ điển ở Rome, Thánh Giêrônimô đã đến các trung tâm học thuật Kitô giáo ở phương Đông — Constantinople, Antioch và Alexandria. Ngài viết cho Pammachius và Oceanus như sau: “Một khát khao học hỏi mãnh liệt đã ám ảnh tôi. Nhưng tôi không dại dột đến mức tự mình cố gắng học hỏi. Tại Antioch, tôi thường xuyên tham dự các bài giảng của Apollinaris xứ Laodicea”, và với giọng điệu chua cay đặc trưng của mình, ngài nhấn mạnh rằng ngài là một sinh viên có tư duy phê phán: “mặc dù tôi học được nhiều điều từ ông ấy về Kinh Thánh, nhưng tôi sẽ không bao giờ chấp nhận lời dạy đầy nghi ngờ của ông ấy về cách giải thích Kinh Thánh” (Thư 84.3). Tại Constantinople (380–382), ngài tham dự các bài giảng của Thánh Grêgôriô xứ Nazianzus và gặp Thánh Grêgôriô xứ Nyssa. Bốn năm sau (386), gần đến sinh nhật lần thứ bốn mươi, ngài đã đến Ai Cập và học bốn tuần với nhà chú giải Kinh Thánh nổi tiếng Didymus the Blind ở Alexandria. Bên cạnh việc đến thăm các bậc thầy chú giải vĩ đại của thời đại mình, Thánh Giêrônimô nợ nhiều kiến thức và kỹ năng chú giải Kinh Thánh từ việc đọc các tác giả trước đó, đặc biệt là Origen và Eusebius xứ Caesarea (khoảng năm 260–340). Mặc dù tham gia vào các cuộc tranh luận chống lại Origen sau này trong cuộc đời mình, các bài bình luận của Thánh Giêrônimô cho thấy ngài nợ rất nhiều nơi nhà học giả Kinh Thánh viết nhiều nhất này.(19)

Thánh Giêrônimô không chỉ cố gắng giao lưu với các bậc thầy vĩ đại về Kinh Thánh trong quá khứ và hiện tại, và đến thăm những trung tâm học thuật nổi tiếng nhất, ngài còn khám phá những con đường nghiên cứu khác thường. Ngài thường xuyên giao lưu với người Do Thái, không chỉ để học tiếng Do Thái, mà còn để hưởng lợi từ kiến thức của họ về truyền thống giải thích Kinh Thánh của các giáo sĩ Do Thái.(20) Mặc dù đôi khi ngài giả vờ tham khảo ý kiến của các giáo viên Do Thái trong khi đạo văn các tác giả Kitô giáo, nhưng ngài đã đích thân tiếp xúc với người Do Thái và học vấn của họ, điều này đặc biệt rõ ràng trong cuốn Hebraicae quaestiones in libro Geneseos [các vấn đề Do Thái trong sách Sáng thế] của ngài, một tác phẩm khá rời rạc bao gồm các nghiên cứu ngữ văn về sách Sáng thế trong bối cảnh việc học hỏi Ki-tô giáo cổ thời.(21) Thánh Giêrônimô thậm chí còn tham khảo Ngũ kinh của người Sa-ma-ri (Samaritanorum Hebraea voluma).(22) Ngài truy cập bất cứ nguồn tài nguyên nào ngài có trong tay và hợp tác với những người uyên bác đến từ nhiều nền tảng khác nhau để có được kiến thức và sự hiểu biết sâu sắc hơn.

5. Một Trung tâm Nghiên cứu tại Đất Thánh

Sau bốn thập niên đầu đời học tập và du hành, cuối cùng Thánh Giêrônimô đã định cư tại Đất Thánh để xây dựng trung tâm đơn tu và công tác học thuật của riêng mình. Với sự giúp đỡ tài chính của những phụ nữ giàu có từ Rome — đặc biệt là Paula —, những người đã đồng hành cùng ngài trong cuộc sống đơn tu, ngài đã thành lập một đan viện dành cho nam và nữ gần Bê-lem, nơi ngài đã sống ba thập niên cuối đời (389–419).

Một thiên niên kỷ trước khi ngành in ấn sách vở lan rộng ở châu Âu, việc xây dựng thư viện của ngài là một nhiệm vụ tổ chức khổng lồ và cực kỳ tốn kém. Các thư ký chuyên nghiệp phải được phái đi khắp thế giới Địa Trung Hải để mang về các bản sao của các bản thảo cần thiết từ bất cứ nơi nào chúng được lưu giữ. Thánh Giêrônimô đã phát triển tình yêu dành cho sách ngay từ khi còn trẻ. Ngài đã có được nhiều tác phẩm kinh điển ở tuổi 20, và ngay trong lần thứ hai ở Rome (382–385), ngài đã sao chép nhiều tác phẩm bằng tiếng Do Thái, thậm chí cả cuốn Jubilees [Năm Hồng Ân] (23), bản tiếng Do Thái của chúng đã bị thất lạc cho đến khi các mảnh vỡ được phát hiện trong các hang động Qumran.(24) Bên cạnh việc mua lại, việc trao đổi bản thảo là một chiến lược phổ biến của những người yêu sách. Khi đi du lịch, Thánh Giêrônimô luôn mang theo toàn bộ bộ sưu tập tác phẩm của mình; thư viện mà ngài xây dựng ở Bê-lem là một trong những thư viện đồ sộ nhất cùng loại.(25) Ngài cũng tham khảo thư viện ở Caesarea, nơi lưu giữ bộ sưu tập của Origen và đã được Eusebius ở Caesarea mở rộng.(26) Thu thập và so sánh các bản thảo Kinh Thánh, Thánh Giêrônimô đã tham gia sâu vào điều mà trong nghiên cứu Kinh Thánh được gọi là phê bình văn bản.(27)

Việc lựa chọn địa điểm hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Bê-lem mang lại sự yên tĩnh cần thiết, cách xa bất cứ trung tâm chính trị và kinh tế nào để tập trung vào công việc học thuật. Đồng thời, môi trường của Đất Thánh đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu môi trường địa lý và tự nhiên của Kinh Thánh, một điều được thấy, ví dụ, trong bản sửa đổi của ngài về một tác phẩm tiếng Hy Lạp về địa điểm và tên các địa danh tiếng Do Thái (De situ et nominibus locorum hebraicorum, khoảng năm 390). Phần lớn tác phẩm của Thánh Giêrônimô được sản xuất tại Bê-lem. Trong khi ngài sửa đổi các bản dịch của các sách tin mừng trong giai đoạn thứ hai của ngài ở Rome (382–385), bản dịch mới của ngài về Kinh thánh tiếng Do Thái đã được thực hiện trong hai thập niên đầu tiên của ngài tại Bê-lem (khoảng năm 390–410). Không chỉ là một dịch giả, mà còn là một nhà lý thuyết về dịch thuật, Thánh Giêrônimô đã trở thành một nhân vật nổi bật. (28) Ngài đã thực hiện một trong những bản dịch Kinh thánh có ảnh hưởng nhất, trở thành một tượng đài quan trọng trong bối cảnh lịch sử văn hóa của Kitô giáo phương Tây. Hầu hết các bình luận cũng như các tác phẩm ngữ văn của ngài đều được viết tại Bê-lem. Trong khi ngài bình luận về các phần lớn của Kinh thánh, thì các bình luận của ngài về các tiên tri có ý nghĩa đặc biệt.(29) Các tác phẩm chú giải của Thánh Giêrônimô được biết đến rộng rãi và được đánh giá cao trong các thế kỷ sau đó.

6. Mạng lưới Học thuật và Thực tại Chính trị

Mặc dù Thánh Giêrônimô được biết đến là một nhân vật khó tính, nhưng ngài chắc chắn là một nhà truyền thông tài ba — nếu không, ngài đã không thể thực hiện các dự án đòi hỏi những nhiệm vụ tổ chức phức tạp. Việc xây dựng các đan viện và thư viện của ngài ở Bê-lem đòi hỏi một chiến lược gây quỹ đáng kể, điều này vẫn có thể được tái hiện từ kho tàng thư từ còn lưu lại đến ngày nay, và những lời đề tặng các tác phẩm của ngài cho các nhà hảo tâm giàu có. Mạng lưới của ngài trải rộng khắp Địa Trung Hải, từ xa xôi như Bê-lem đến tận Ai Cập, Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ, Đức, Ý, Pháp và Tây Ban Nha ngày nay.(30) Tuy nhiên, nghệ thuật giao tiếp của Thánh Giêrônimô không chỉ giới hạn trong văn bản ngoại giao, mà còn bắt nguồn từ những cuộc gặp gỡ đích thân. Ngài tham gia vào các nhóm thảo luận thần học, đặc biệt là với những phụ nữ trên đồi Aventine ở Rome, và một số người trong số họ đã được ngài thuyết phục tham gia cùng ngài trong đời sống đơn tu ở Đất Thánh.(31) Tình bạn có ý nghĩa như thế nào đối với ngài được thể hiện qua nỗi đau khổ của ngài sau cái chết của Paula vào năm 404; trong hai năm, ngài không thể hoàn thành bất cứ công việc lớn nào.(32)

Hơn nữa, Thánh Giêrônimô cần sức mạnh truyền đạt để bảo vệ công việc sáng tạo của mình trước sự phản kháng và phản đối trực tiếp. Điều này đặc biệt liên quan đến việc ngài xem xét lại các bản dịch Kinh thánh, vì các bản dịch tiếng Latinh cổ, mặc dù đa dạng, đã trở nên cố định đối với nhiều người. Trong lời tựa của các sách Tin Mừng, ngài dự đoán rằng bất cứ ai nhận thấy những thay đổi trong bản dịch lại của ngài sẽ “gọi tôi là kẻ làm giả, tuyên bố tôi là kẻ phạm thánh, rằng tôi dám thêm thắt, thay đổi hoặc sửa chữa bất cứ điều gì trong các sách cũ”. Khi dịch Cựu Ước từ tiếng Do Thái, ngài đã phải phản biện lại nhiều người cho rằng bản Bẩy Mươi (Septuagint) là do Chúa soi dẫn.(33) Sau khi dịch phần lớn bản Kinh Thánh tiếng Hy Lạp, ngài đã lập luận cho nỗ lực truyền tải “chân lý Do Thái” (hebraica veritas).(34)

Mối căng thẳng giữa sự tự ẩn dật đơn tu và việc không thể tách rời khỏi những phát triển xã hội lớn của thời đại ngài đã đánh dấu giai đoạn cuối đời của Thánh Giêrônimô. Việc người Visigoth chinh phục và phá hủy thành Rome vào ngày 24 tháng 8 năm 410 đã khiến Thánh Giêrônimô bối rối đến mức “Như người ta vẫn nói, tôi không nhớ tên mình; và vì vậy tôi im lặng một lúc lâu, biết rằng đây là lúc phải khóc” (Thư. 126,2; so sánh Gv 3,4).

Hai năm sau, Palestine và Ai Cập phải hứng chịu những cuộc xâm lược của người man rợ, và vào năm 416, khi đan viện của Thánh Giêrônimô bị đột kích, cướp bóc và đốt cháy, ngài đã có thể tự cứu mình cùng hầu hết các bạn đồng hành trong tòa tháp kiên cố của đan viện. Thảm họa này dường như đã chấm dứt công trình nghiên cứu học thuật của ngài — cuốn chú giải về sách Giê-rê-mi-a, mà ngài đang viết vào thời điểm đó, vẫn còn dang dở. Mặc dù thư viện của riêng ngài có thể đã bị phá hủy trong những biến động này hoặc bị thất lạc không lâu sau khi ngài qua đời, các tác phẩm của ngài đã lan rộng khắp Địa Trung Hải và được bảo tồn phần lớn cho đến ngày nay. Prosper xứ Aquitaine (khoảng 390–455) thuật lại trong Biên niên sử của mình rằng Thánh Giêrônimô qua đời vào ngày 30 tháng 9 năm 420, nhưng các nhà sử học hiện nay cho rằng sự sụp đổ của năm 419 là một ngày tháng có khả năng xảy ra hơn. Xương của Thánh Giêrônimô ban đầu được chôn cất trong hang động Bê-lem, nhưng được chuyển đến Vương cung thánh đường Santa Maria Maggiore ở Rome vào thế kỷ 13, (35) nơi chúng được tôn kính cho đến ngày nay.

7. Theo Dấu Chân Thánh Giêrônimô

Thánh Giêrônimô là hình mẫu cho học vấn đơn tu thời Trung Cổ, và Erasmus thành Rotterdam coi ngài là một gương sáng về sự uyên bác của chủ nghĩa nhân văn. Tuy nhiên, Martin Luther lại có quan điểm không mấy hào hứng về việc Thánh Giêrônimô sử dụng ẩn dụ, và việc cho phép công bố bản Phổ Thông tại Công đồng Trent, trái ngược với việc các nhà cải cách truyền bá các bản dịch tiếng bản địa, đã góp phần "Công Giáo hóa" hình ảnh Thánh Giêrônimô trong những thế kỷ sau đó.

Kỷ niệm 1,500 năm ngày mất của ngài vào năm 1920, Đức Giáo Hoàng Benedict XV đã dành tặng Thông điệp Spiritus Paraclitus cho Thánh Giêrônimô, ca ngợi ngài là Tiến sĩ Maximus, được Chúa ban cho Giáo hội "để hiểu Kinh Thánh". Thông điệp mời gọi các giám mục nhắc nhở các linh mục của mình về tầm quan trọng của việc nghiên cứu Kinh Thánh, và đặc biệt khuyến khích việc nghiên cứu Kinh Thánh tại Viện Kinh Thánh Giáo hoàng ở Rome, được thành lập bởi Đức Piô X vào năm 1909 (*). Các biên tập viên của tạp chí Biblica mới thành lập của Viện đã hân hoan tôn vinh Thánh Giêrônimô như một điểm tham chiếu cho khoa chú giải Công Giáo La Mã. (36) Mặc dù Thánh Giêrônimô, tại thời điểm này, đóng vai trò là một điển hình về khoa chú giải truyền thống trong việc biện hộ chống lại phê bình lịch sử của Tin Lành và chủ nghĩa hiện đại, vai trò của Viện đã thay đổi rất nhiều — và Thánh Giêrônimô được nhìn nhận dưới một góc độ khác. Ngày nay, khi 350 sinh viên từ khắp nơi trên thế giới tham gia vào các nghiên cứu ngữ văn và chú giải chuyên sâu tại Viện Kinh Thánh Giáo hoàng với hai cơ sở ở Rome và Giêrusalem và học hỏi từ các nhà chú giải Kitô giáo và Do Thái giáo thuộc các trường phái khác nhau, họ có thể được coi là đang bước đi trên con đường tiểu sử của Thánh Giêrônimô.

Thánh Giêrônimô là một trong những người có tinh thần lanh lợi nhất trong thiên niên kỷ đầu tiên của Kitô giáo, một người đã đi du lịch và nghiên cứu ngôn ngữ với sự nghiêm ngặt vô song và niềm đam mê khổ hạnh. Là một nhà truyền thông đa năng, ngài đã gắn bó với những truyền thống chú giải vĩ đại của thời đại mình, cũng như đối thoại với người Do Thái, bất chấp những hiềm khích khét tiếng giữa họ và Kitô hữu. Ngài ủng hộ chân lý Do Thái, kết nối thế giới Kitô giáo Latinh chặt chẽ hơn với nguồn gốc Do Thái và Do Thái giáo của nó. Cuộc Cải cách, quả thực, đã theo các dấu chân của ngài bằng việc ủng hộ việc dịch Kinh Thánh từ nguyên ngữ sang tiếng bản xứ, và Giáo Hội Công Giáo Rôma cũng đã đi theo con đường này kể từ Công đồng Vatican II. Ngày nay, Thánh Giêrônimô là một tấm gương cho các nhà chú giải về cách tiếp cận công việc với một tâm thế cởi mở — tận dụng mọi phương tiện sẵn có và giao tiếp với bất cứ người nào có học thức uyên thâm để hiểu Kinh Thánh sâu sắc hơn cho thời đại chúng ta. Hơn nữa, việc nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa sẽ giúp các nhà chú giải, như Thánh Giêrônimô, trở thành những dịch giả và trung gian, những người hội nhập giữa các nền văn hóa.
___________________________________________________________________________________________________________
(*) Điều đáng tiếc là bài này dù được công bố vào năm 2020 đã không nhắc gì tới Tông thư Scripturae Affectus của Đức Phanxicô ban hành ngày 30 tháng 9 năm 2020, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 1,600 ngày qua đời của Thánh Giêrônimô, trong đó, tình yêu sống động và dịu dàng của ngài dành cho Chúa Kitô được ca tụng “tuôn chẩy như một dòng sông lớn nuôi dưỡng vô số dòng suối, vào hoạt động không mệt mỏi của ngài với tư cách là một học giả, một dịch giả và một nhà chú giải. Kiến thức sâu rộng của Thánh Giêrônimô về Kinh thánh, lòng nhiệt thành của ngài trong việc làm cho sự giảng dạy về chúng được biết đến, kỹ năng thông dịch các văn bản của ngài, sự bảo vệ nhiệt thành và đôi khi nóng nảy của ngài đối với chân lý Kitô giáo, chủ nghĩa khổ hạnh và kỷ luật ẩn tu nghiêm khắc của ngài, chuyên môn của ngài như một nhà hướng dẫn tâm linh rộng lượng và nhạy cảm. - tất cả những điều này khiến ngài, mười sáu thế kỷ sau khi ngài qua đời, trở thành một nhân vật có liên quan lâu dài đối với chúng ta, những Kitô hữu của thế kỷ XXI” (xem bản dịch của chúng tôi tại https://vietcatholic.net/News/Home/Article/259781)
____________________________________

Ghi Chú

(1). Giáo sư Tiến sĩ Dominik Markl, Viện Kinh thánh Giáo hoàng, Rome • markl [at] biblico.it 133001571  https://orcid.org/0000-0002-5202-048X.
https://doi.org/10.25788/vidbor.v4i0.304

(2). Về sự đón nhận Thánh Giêrônimô, xem đặc biệt T. Scheck và cộng sự, “Thánh Giêrônimô”, Bách khoa toàn thư Kinh Thánh và Sự tiếp nhận nó 13 (2016) 986–997; A. Cain và J. Lössl (biên tập), Thánh Giêrônimô xứ Stridon: Cuộc đời, Tác phẩm và Di sản của ngài, Farnham 2009, đặc biệt 175–279.

(3). Xem K. Marsengill, “Thánh Giêrônimô. III. Visual Arts”, Bách khoa toàn thư về Kinh Thánh và Sự Tiếp nhận nó 13 (2016) 995–997.
(4). Ấn bản đầu tiên của The Jerome Biblical Commentary (biên tập bởi R. E. Brown, J. A. Fitzmyer và R. E. Murphy) được xuất bản năm 1968; cũng chính các biên tập viên này đã phụ trách ấn bản hiệu đính, The New Thánh Jerome Biblical Commentary (1990). The New Jerome Biblical Commentary: Second Revised Edition (biên tập bởi J. J. Collins, G. Hens-Piazza, B. Reid và D. Senior), sắp ra mắt tại Bloomsbury.
(5). Về tiểu sử của Thánh Giêrônimô, tôi tham khảo chuyên khảo của Alfons Fürst, Hieronymus: Askese und Wissenschaft in der Spätantike (Freiburg im Breisgau: Herder, ²2016); một lời giới thiệu ngắn gọn về cuộc đời và sự nghiệp của ngài là A. Kamesar, “Thánh Giêrônimô”, trong: J. C. Paget và J. Schaper (biên tập), The New Cambridge History of the Bible: Volume 1: From the Beginnings to 600 (Cambridge: Cambridge University Press, 2013), 653–675.
(6). Về kiến thức tiếng Do Thái của Thánh Giêrônimô, xem D. Brown, Vir Trilinguis. Một nghiên cứu về chú giải Kinh Thánh của Thánh Giêrônimô, Kampen 1992, đặc biệt là 87–120; Fürst, Hieronymus, 79–83.
(7). Xem M. Graves, Ngữ học Do Thái của Thánh Giêrônimô: Một Nghiên cứu dựa trên Bình giải của ngài về Giê-rê-mi-a (Phụ lục của Vigiliae Christianae 90), Leiden 2007, đặc biệt 117–127.
(8). Về sự hồi sinh của việc nghiên cứu tiếng Do Thái trong cộng đồng Kitô hữu, xem đặc biệt S. G. Burnett, Christian Hebraism in the Reformation Era (1500–1660): Authors, Books, and the Transmission of Jewish Learning (Thư viện Lời Chúa 19), Leiden 2012.
(9). X. M. Gilbert, « Saint Jérôme, traducteur de la Bible », trong: Il a parlé par les prophètes: Thèmes et figure bibliques (Bộ sưu tập « Connaître et croire » 1), Namur: Lessius, 1998, 9–28 [Annales 1986, Jerusalem, Notre Dame Center, 1986, 81–105], esp. 10–13.
(10). Về sự phát triển của lối sống đan viện vào thời Thánh Giêrônimô, xem Fürst, Hieronymus, 45–54.
(11). X. E. von Severus và A. Solignac, « Médiation. I. De l’Écriture aux auteurs médiévaux », Dictionnaire de Spiritualité 10 (1980) 907–914; H. Bacht, “‘Meditatio’ in den ältesten Mönchs-quellen“, Geist und Leben 28 (1955) 360–373.
(12). G. Fischer và N. Lohfink, "'Diese Worte sollst du summen'. Dtn 6,7 wedibbartā bām – ein verlorener Schlüssel zur meditativen Kultur ở Israel“, Thần học và Triết học 62 (1987) 59–72.
(13). D. Robertson, Lectio Divina: Trải nghiệm Đọc Kinh Thánh Thời Trung Cổ (Collegeville, MN: Liturgical Press, 2011), 75–76.
(14). Robertson, Lectio Divina, 79.
(15). R. Kieffer, “Jerome: His Exegesis and Hermeneutics”, trong: M. Sæbø (biên tập), Kinh Thánh Do Thái / Cựu Ước: Lịch sử Diễn giải Kinh Thánh. Tập I: Từ Khởi đầu đến Trung Cổ (Cho đến năm 1300). Phần 1: Cổ Đại, Göttingen 1996, 662–681, ở đây là 671, liệt kê các cách diễn đạt sau đây được Thánh Giêrônimô sử dụng: scriptura sancta, scriptura sacra, libri sancti, voluma sancta, historia sacra, litae sacrae, voluma sacra, scriptura divina, scriptura Dei, scripturae dominicae, sermo Dei, sermo divinus, sermo Domini, sermo dominicus, verbum Dei, verba divina, codices divini, libri divini, voluma divina, voluma divinarum litarum, scripturae caelestes, caelestis scriptturarum panis.
(16). X. Gilbert, « Saint Jérôme », 13–14: « Il y a ainsi, entre la Bible et lui, une sorte de connaturalité, de connivence » [do đó, giữa Kinh Thánh và ngài, có một loại đồng bản chất].
(17). Sulpicius Severus, dial. 19,5 (CSEL 1, 161), trích dẫn trong Fürst, Hieronymus, 59.
(18). X. những cân nhắc về l'objectivité d'un Passionné [tính khách quan của Một Người Đam Mê] trong Gilbert, « Saint Jérôme », 23–24.
(19). Xem Fürst, Hieronymus, 134.
(20). Về mối quan hệ của Thánh Giêrônimô với người Do Thái, xem Brown, Vir Trilinguis, 167–193.
(21). Fürst, Hieronymus, 137–144. A. Kamesar, Thánh Giêrônimô, Nền Học giả Hy Lạp và Kinh thánh tiếng Do Thái: Nghiên cứu về Quaestiones Hebraicae in Genesim (Oxford: Clarendon Press, 1993).
(22). Fürst, Hieronymus, 73: In Gal. II 3,10 (CChr.SL 77A, 84); lời tựa cho Các Vua.
(23). Fürst, Hieronymus, 70; E. F. Sutcliffe, “Bản thảo tiếng Do Thái của Thánh Giêrônimô”, Biblica 29 (1948) 195–204, đặc biệt là 204.
(24). Xem J. C. Vanderkam, Sách Jubilees (Hướng dẫn về Sách Ngụy thư và Mạo thư), Sheffield 2001, 13–17.
(25). Xem Fürst, Hieronymus, 72–73.
(26). Fürst, Hieronymus, 74.
(27). Fürst, Hieronymus, 73 và 125–127.
(28). Xem Graves, “Vulgate”, trong A. Lange và E. Tov (biên tập), Lịch sử Văn bản Kinh Thánh. Tập 1A: Các bài viết tổng quan, Leiden 2016, 278–289, đặc biệt là 283–284; Kieffer, “Thánh Giêrônimô”, 670–675; G. Bartelink, Liber de optimo Genere Interpretandi (Epistula 57). Ein Kommentar (Mn.S 61), Leiden 1980. Về lý thuyết dịch thuật thời cổ đại xem A. Seele, Römische Übersetzer: Nöte, Freiheiten, Absichten. Verfahren des literarischen Übersetzens in der griechisch-römischen Antike, Darmstadt 1995; H. Marti, Übersetzer der Augustin-Zeit. Interpretation von Selbstzeugnissen (STA 14), Mün-chen 1974.
(29). Kamesar, “Thánh Giêrônimô”, 670–674; Kieffer, “Thánh Giêrônimô”, 675–680; Fürst, Hieronymus, 122–125.
(30). Về mạng lưới “tình bạn” (amicitiae) của Thánh Giêrônimô, xem Fürst, Hieronymus, 75–79, prosopography [phép mô tả nhân vật] ibid. 157–252, và bản đồ ở bìa sau của cuốn sách.
(31). Xem Fürst, Hieronymus, 54–58, 211 và 225–226.
(32). Fürst, Hieronymus, 226.
(33). Fürst, Hieronymus, 112–119.
(34). Xem Fürst, Hieronymus, 107–111.
(35). Ivić, “«Recubo praesepis ad antrum»: Sự sùng kính Thánh Giêrônimô trong Nhà thờ Santa Maria Maggiore ở Rome vào cuối thế kỷ 13”, Il capitale culturale 21 (2020) 87–119.
(36). Biblica 1 (1920), đặc biệt là 431–517.