Khuôn mặt Thánh Fanziskus, người yêu mến thiên nhiên
Thánh Phanxicô thành Assisi là một vị Thánh có đời sống yêu mến gắn bó với công trình thiên nhiên. Vì thế khi còn sinh thời ông đã sáng tác nên bài ca mặt trời chúc tụng công trình thiên nhiên của Chúa
“Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị chúng tôi, là Mẹ Đất,
Chị nâng đỡ, Chị dìu dắt.
Chị sinh ra bao thứ trái,
hoa muôn màu giữa ngàn cỏ dại.”
Bài ca ngợi này xưa nay là nguồn cảm hứng cho các thế hệ con người đi tìm linh đạo cho nếp sống bình an cùng hòa nhịp điệu với thiên nhiên.
Phanxicô thành Assisi, người yêu mến thiên nhiên, góp mặt trong lòng nếp sống đạo đức của Giáo Hội thế nào?
Franziscus sinh năm 1182 ở thành phố Assisi bên nước Ý trong một gia đình giàu có. Theo tương truyền Franziscus vào cầu nguyện trong ngôi thánh đường nhỏ San Damiano, được Chúa Giêsu từ trên cây thập gía nói vọng xuống: „Franziscus, con hãy xây cho cha một ngôi nhà, vì ngôi nhà này có nguy cư bị tàn phá sụp đổ!“.
Thế là Franziscus bắt tay đi xây sửa lại ngôi thánh đường đang hư hại San Damiano. Nhưng chẳng lâu sau đó Franziscus cảm nhận ra, sứ mạng Chúa Giêsu trao cho mình to lớn hơn. Đó là ngôi nhà toàn thể Giáo hội.
Lòng thôi thúc, Ông ra từ bỏ khỏi gia đình. Trả lại tất cả quần áo cho cha mẹ mình với lời quyết tâm “Từ hôm nay con không còn cha nào khác, ngoài người Cha trên trời!“.
Franziscus đi kêu gọi thu thập những người cùng chí hướng sống chung một đời sống đơn giản. Việc cầu nguyện là nếp sống chính của cộng đoàn, và luôn luôn di chuyển qua các làng mạc để loan báo tin mừng. Họ làm việc ngoài đồng ruộng để kiếm miếng ăn sinh sống. Tiền bạc họ không có, họ chỉ nhận thức ăn như lương được trả công.
Franziscus sống nếp sống một người anh em hèn mọn khiêm nhượng, nhưng tâm hồn đời sống vui tươi hát ca tụng Thiên Chúa, và qua lời rao giảng giúp con người hướng về Thiên Chúa.
Năm 1209 Đức giáo hoàng Innocente III. ( 1161-1216) công nhận ban phép cho Franziscus thành lập Dòng Phanxicô Anh em hèn mọn. Sau vài năm trời Dòng Franziscus đã có tới hơn 5000 hội viện. Dù có nhiều anh em gia nhập dòng, nhưng cũng có nhiều người không thể chấp nhận nổi lý tưởng cao vời do Franziscus đề ra. Một vài thành viên muốn hội Dòng phải có một cấu trúc rõ ràng minh bạch. Nhưng Franziscus không muốn làm hiến pháp luật riêng cho dòng của mình. Căn bản cho luật Dòng là sách Kinh Thánh. Vì thế, Franziscus rời bỏ việc quản trị Dòng và lui vào nếp sống khổ hạnh ẩn dật.
Xa xa chừng hơn vài trăm mét trước quảng trường sân đền thờ Laterno, nhà thờ chính tòa của đức giáo hoàng Roma, có bức tượng bằng đồng to lớn tạc tượng Thánh Franxiskus đang giơ đôi tay cầu khẩn lên trời cao và một vài anh em Dòng, đang đứng qùi hướng về đền thờ chính tòa Laterano. Bức tượng đài kỷ niệm này diễn tả biến cố ngày xưa 1209 Thánh Franziskus và các anh em đồng chí hướng, đi từ Assisi đến Roma xin đức giáo hoàng Innocentê III. ban phép cho lập Dòng Anh em hèn mọn.
Qua đau khổ chịu đựng Franziscus đã trưởng thành lớn lên trong tình yêu mến. Chúa Giêsu Kitô đã tỏ cho Franziscus tình yêu của người, ông được tiếp nhận khắc ghi những vết thương của Chúa nơi con người ông. Đau khổ thể xác nhưng Franziscus đã sáng tác ra bài ca tuyệt diệu chan chứa tâm tình yêu mến thiên nhiên: Bài ca mặt trời, ca ngợi chúc tụng công trình thiên nhiên của Thiên Chúa cho con người trần gian.
Bài ca cầu nguyện này được Franziscus sáng tác vào cuối năm 1224 hay đầu năm 1225 ở năm cuối đời của ngài.
Có nhiều truyền thuyết về Franziscus trong dân gian. Không chỉ tất cả mọi con người, nhưng cả những con thú vật cũng được Franziscus gọi là anh chị em. Như con chó rừng vùng Gubbio trở nên thuần thục hiền hoà qua lời nhắn nhủ giáo dục của Franziscus. Franziscus yêu mện mọi loài cây cỏ thảo mộc, mọi thú vật. Franziscus kêu gọi mọi loài thụ tạo nhận ra tình yêu của Thiên Chúa và quay trở về với Đấng Tạo Hoá dựng nên mình.
Franziscus giảng thuyết cho loài chim chóc và chúng cũng để cho ông vuốt ve chúng. Franziscus là một trong những người biểu lộ tình yêu mến của mình không chỉ đối với con người mà còn đối với cả loài thú vật.
Có lẽ vì thế, Thánh Franziscus ngày nay được phong trào bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ xúc vật chọn làm quan thầy bảo trợ. Nhưng Thánh Franziscus đã không bao giờ là người chiến đấu qúa khích trong lãnh vực này. Trái lại, Thánh Franziscus là người yêu mến kính trọng thiên nhiên. Vì thánh nhân nhận ra tình yêu thiên Chúa trong công trình sáng tạo thiên nhiên.
Thánh Franziscus vui với sức nóng ấm mặt trời, với sự tươi mát của nước, với ánh sáng dịu mát của mặt trăng. Khắp nơi thánh nhân nhìn ra Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Người cho con người qua những công trình sáng tạo. Qua đó Thánh Franzicus muốn nói chỉ cho thấy việc bảo vệ thiên nhiên cần chiều khích thiêng liêng, cần kinh nghiệm về tình yêu đối với mọi loài thụ tạo trong thiên nhiên.
Chọn nếp sống khó nghèo đơn giản, nhưng Thánh Franzicus luôn có trái tim tâm hồn của một người có đời sống vui tươi thanh thản, chan chứa tình yêu mến với thiên nhiên, với con người, nhất là với Đấng Tạo Hóa. Tinh thần đó Thánh Franziscus đã nhận được từ nơi Chúa Giêsu.
Thánh Franziscus năm 1223 cùng với anh em trong Dòng ở khu rừng vùng Grecco dựa theo phúc âm Thánh sử Luca tường thuật về sự sinh ra của Chúa Giêsu, đã xây dựng hang đá Chúa Giêsu giáng sinh đầu tiên với những con thú vật bò, lừa mừng lễ Chúa giáng sinh với tâm tình lòng yêu mến cung kính.
Từ sự tích nguồn gốc mang tính cách thần thoại thánh thiêng đó do sáng kiến cảm hứng của Thánh Franziscus, hang đá mừng lễ Chúa giáng sinh được phát triển xây dựng trong toàn thể Giáo hội trên thế giới. Hang đá mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh từ đó không thể thiếu trong ngày mừng lễ sinh nhật Chúa ngày 25. tháng 12. hằng năm.
Từ năm 1209 Franziscus đã được phép Giáo hội cho thành lập Dòng. Hội Dòng Franziscus lớn mạnh từ ngày đó trong toàn thể Giáo hội hoàn cầu. Cho tới ngày nay Dòng Thánh Franziscus đã phát triển thành ba cấp hội dòng:
- Cấp thứ nhất Dòng Nam gồm ba hội Dòng:
Tu sĩ Hèn mọn ordo fratrum minorum conventualium (OFM Conv) mặc tu phục mầu đen.
2. Dòng Tu sĩ hèn mọn ordo fratrum minorum - OFM, mặc tu phục mầu nâu.
3. Franziscus Capucino - OFM Cap - Ordo Fratrum minorum Cappucinorum, tu phục mầu nâu nhưng mũ nhọn dàng sau lưng dài hơn.
- Cấp hai: Dòng nữ có hai nhánh: Dòng nữ Thánh Clara và Dòng nữ Capucin.
- Cấp ba Dòng ba dành cho mọi giáo dân.
Nếp sống từ bỏ, chọn sự khó nghèo đơn giản, lòng vui tươi yêu mến thiên nhiên vạn vật hướng về Đấng Tạo Hoá, bài ca mặt trời, kinh hòa bình và hang đá mừng lễ Chúa giáng sinh là những nét đặc thù thiên phú Đấng Tạo Hóa đã qua Thánh Franziscus mang đến cho Giáo hội, cho con người trần gian.
Thánh Franziscus qua đời ngày 03.10.1226 được an táng ở Assisi. Và hai năm sau đó ngày 16.07.1228 được Đức giáo hoàng Gregor IX. tuyên phong là vị Thánh trong Giáo hội.
Hằng năm Giáo Hội mừng kính lễ Thánh Franzicus vào ngày 4.10.
Thập gía Chúa Giêsu Kitô hình dấu cộng. Nhưng thập gía của Dòng Thánh Phanxicô trên đỉnh còn có thêm một khúc hình nhỏ nằm ngang, và được gọi với dang xưng thập gía Tau của Dòng Thánh Phanxicô.
Dấu hiệu thập gía Tau theo thánh Phanxico như dấu chỉ sự chúc phúc lành, và cũng như dấu chỉ sự khiêm nhượng và sự cứu chuộc.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Phanxicô thành Assisi là một vị Thánh có đời sống yêu mến gắn bó với công trình thiên nhiên. Vì thế khi còn sinh thời ông đã sáng tác nên bài ca mặt trời chúc tụng công trình thiên nhiên của Chúa
“Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị chúng tôi, là Mẹ Đất,
Chị nâng đỡ, Chị dìu dắt.
Chị sinh ra bao thứ trái,
hoa muôn màu giữa ngàn cỏ dại.”
Bài ca ngợi này xưa nay là nguồn cảm hứng cho các thế hệ con người đi tìm linh đạo cho nếp sống bình an cùng hòa nhịp điệu với thiên nhiên.
Phanxicô thành Assisi, người yêu mến thiên nhiên, góp mặt trong lòng nếp sống đạo đức của Giáo Hội thế nào?
Franziscus sinh năm 1182 ở thành phố Assisi bên nước Ý trong một gia đình giàu có. Theo tương truyền Franziscus vào cầu nguyện trong ngôi thánh đường nhỏ San Damiano, được Chúa Giêsu từ trên cây thập gía nói vọng xuống: „Franziscus, con hãy xây cho cha một ngôi nhà, vì ngôi nhà này có nguy cư bị tàn phá sụp đổ!“.
Thế là Franziscus bắt tay đi xây sửa lại ngôi thánh đường đang hư hại San Damiano. Nhưng chẳng lâu sau đó Franziscus cảm nhận ra, sứ mạng Chúa Giêsu trao cho mình to lớn hơn. Đó là ngôi nhà toàn thể Giáo hội.
Lòng thôi thúc, Ông ra từ bỏ khỏi gia đình. Trả lại tất cả quần áo cho cha mẹ mình với lời quyết tâm “Từ hôm nay con không còn cha nào khác, ngoài người Cha trên trời!“.
Franziscus đi kêu gọi thu thập những người cùng chí hướng sống chung một đời sống đơn giản. Việc cầu nguyện là nếp sống chính của cộng đoàn, và luôn luôn di chuyển qua các làng mạc để loan báo tin mừng. Họ làm việc ngoài đồng ruộng để kiếm miếng ăn sinh sống. Tiền bạc họ không có, họ chỉ nhận thức ăn như lương được trả công.
Franziscus sống nếp sống một người anh em hèn mọn khiêm nhượng, nhưng tâm hồn đời sống vui tươi hát ca tụng Thiên Chúa, và qua lời rao giảng giúp con người hướng về Thiên Chúa.
Năm 1209 Đức giáo hoàng Innocente III. ( 1161-1216) công nhận ban phép cho Franziscus thành lập Dòng Phanxicô Anh em hèn mọn. Sau vài năm trời Dòng Franziscus đã có tới hơn 5000 hội viện. Dù có nhiều anh em gia nhập dòng, nhưng cũng có nhiều người không thể chấp nhận nổi lý tưởng cao vời do Franziscus đề ra. Một vài thành viên muốn hội Dòng phải có một cấu trúc rõ ràng minh bạch. Nhưng Franziscus không muốn làm hiến pháp luật riêng cho dòng của mình. Căn bản cho luật Dòng là sách Kinh Thánh. Vì thế, Franziscus rời bỏ việc quản trị Dòng và lui vào nếp sống khổ hạnh ẩn dật.
Xa xa chừng hơn vài trăm mét trước quảng trường sân đền thờ Laterno, nhà thờ chính tòa của đức giáo hoàng Roma, có bức tượng bằng đồng to lớn tạc tượng Thánh Franxiskus đang giơ đôi tay cầu khẩn lên trời cao và một vài anh em Dòng, đang đứng qùi hướng về đền thờ chính tòa Laterano. Bức tượng đài kỷ niệm này diễn tả biến cố ngày xưa 1209 Thánh Franziskus và các anh em đồng chí hướng, đi từ Assisi đến Roma xin đức giáo hoàng Innocentê III. ban phép cho lập Dòng Anh em hèn mọn.
Qua đau khổ chịu đựng Franziscus đã trưởng thành lớn lên trong tình yêu mến. Chúa Giêsu Kitô đã tỏ cho Franziscus tình yêu của người, ông được tiếp nhận khắc ghi những vết thương của Chúa nơi con người ông. Đau khổ thể xác nhưng Franziscus đã sáng tác ra bài ca tuyệt diệu chan chứa tâm tình yêu mến thiên nhiên: Bài ca mặt trời, ca ngợi chúc tụng công trình thiên nhiên của Thiên Chúa cho con người trần gian.
Bài ca cầu nguyện này được Franziscus sáng tác vào cuối năm 1224 hay đầu năm 1225 ở năm cuối đời của ngài.
Có nhiều truyền thuyết về Franziscus trong dân gian. Không chỉ tất cả mọi con người, nhưng cả những con thú vật cũng được Franziscus gọi là anh chị em. Như con chó rừng vùng Gubbio trở nên thuần thục hiền hoà qua lời nhắn nhủ giáo dục của Franziscus. Franziscus yêu mện mọi loài cây cỏ thảo mộc, mọi thú vật. Franziscus kêu gọi mọi loài thụ tạo nhận ra tình yêu của Thiên Chúa và quay trở về với Đấng Tạo Hoá dựng nên mình.
Franziscus giảng thuyết cho loài chim chóc và chúng cũng để cho ông vuốt ve chúng. Franziscus là một trong những người biểu lộ tình yêu mến của mình không chỉ đối với con người mà còn đối với cả loài thú vật.
Có lẽ vì thế, Thánh Franziscus ngày nay được phong trào bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ xúc vật chọn làm quan thầy bảo trợ. Nhưng Thánh Franziscus đã không bao giờ là người chiến đấu qúa khích trong lãnh vực này. Trái lại, Thánh Franziscus là người yêu mến kính trọng thiên nhiên. Vì thánh nhân nhận ra tình yêu thiên Chúa trong công trình sáng tạo thiên nhiên.
Thánh Franziscus vui với sức nóng ấm mặt trời, với sự tươi mát của nước, với ánh sáng dịu mát của mặt trăng. Khắp nơi thánh nhân nhìn ra Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Người cho con người qua những công trình sáng tạo. Qua đó Thánh Franzicus muốn nói chỉ cho thấy việc bảo vệ thiên nhiên cần chiều khích thiêng liêng, cần kinh nghiệm về tình yêu đối với mọi loài thụ tạo trong thiên nhiên.
Chọn nếp sống khó nghèo đơn giản, nhưng Thánh Franzicus luôn có trái tim tâm hồn của một người có đời sống vui tươi thanh thản, chan chứa tình yêu mến với thiên nhiên, với con người, nhất là với Đấng Tạo Hóa. Tinh thần đó Thánh Franziscus đã nhận được từ nơi Chúa Giêsu.
Thánh Franziscus năm 1223 cùng với anh em trong Dòng ở khu rừng vùng Grecco dựa theo phúc âm Thánh sử Luca tường thuật về sự sinh ra của Chúa Giêsu, đã xây dựng hang đá Chúa Giêsu giáng sinh đầu tiên với những con thú vật bò, lừa mừng lễ Chúa giáng sinh với tâm tình lòng yêu mến cung kính.
Từ sự tích nguồn gốc mang tính cách thần thoại thánh thiêng đó do sáng kiến cảm hứng của Thánh Franziscus, hang đá mừng lễ Chúa giáng sinh được phát triển xây dựng trong toàn thể Giáo hội trên thế giới. Hang đá mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh từ đó không thể thiếu trong ngày mừng lễ sinh nhật Chúa ngày 25. tháng 12. hằng năm.
Từ năm 1209 Franziscus đã được phép Giáo hội cho thành lập Dòng. Hội Dòng Franziscus lớn mạnh từ ngày đó trong toàn thể Giáo hội hoàn cầu. Cho tới ngày nay Dòng Thánh Franziscus đã phát triển thành ba cấp hội dòng:
- Cấp thứ nhất Dòng Nam gồm ba hội Dòng:
Tu sĩ Hèn mọn ordo fratrum minorum conventualium (OFM Conv) mặc tu phục mầu đen.
2. Dòng Tu sĩ hèn mọn ordo fratrum minorum - OFM, mặc tu phục mầu nâu.
3. Franziscus Capucino - OFM Cap - Ordo Fratrum minorum Cappucinorum, tu phục mầu nâu nhưng mũ nhọn dàng sau lưng dài hơn.
- Cấp hai: Dòng nữ có hai nhánh: Dòng nữ Thánh Clara và Dòng nữ Capucin.
- Cấp ba Dòng ba dành cho mọi giáo dân.
Nếp sống từ bỏ, chọn sự khó nghèo đơn giản, lòng vui tươi yêu mến thiên nhiên vạn vật hướng về Đấng Tạo Hoá, bài ca mặt trời, kinh hòa bình và hang đá mừng lễ Chúa giáng sinh là những nét đặc thù thiên phú Đấng Tạo Hóa đã qua Thánh Franziscus mang đến cho Giáo hội, cho con người trần gian.
Thánh Franziscus qua đời ngày 03.10.1226 được an táng ở Assisi. Và hai năm sau đó ngày 16.07.1228 được Đức giáo hoàng Gregor IX. tuyên phong là vị Thánh trong Giáo hội.
Hằng năm Giáo Hội mừng kính lễ Thánh Franzicus vào ngày 4.10.
Thập gía Chúa Giêsu Kitô hình dấu cộng. Nhưng thập gía của Dòng Thánh Phanxicô trên đỉnh còn có thêm một khúc hình nhỏ nằm ngang, và được gọi với dang xưng thập gía Tau của Dòng Thánh Phanxicô.
Dấu hiệu thập gía Tau theo thánh Phanxico như dấu chỉ sự chúc phúc lành, và cũng như dấu chỉ sự khiêm nhượng và sự cứu chuộc.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long