Cuối đời vua Salomon có cuộc sống bê tha, ham vui tửu sắc, lơ là, bỏ bê thờ phượng Đức Chúa. Nghe theo lời ngon ngọt, xúi bẩy, mê hoặc của các bà vợ trẻ thờ ngẫu tượng, tà thần. Nhà vua tăng thuế, và bắt nghĩa vụ xây cất đền đài thờ ngẫu tượng. Coi nhẹ phúc lợi công cộng. Con buôn đầu cơ, tích trữ nhu yếu phẩm. Cuộc sống khó khăn, thiếu ăn, thiếu mặc. Jeroboam là cận thần lên tiếng. Vua không nghe, còn hãm hại, ông phải trốn, tị nạn bên Ai Cập. Khi vua qua đời, con là Rehoboam lên kế vị. Trở về từ Ai Cập, ông yêu cầu tân vương thay đổi, giảm thuế, bỏ nghĩa vụ. Đại đa số tán thành, hỗ trợ, trong khi tân vương phản đối, quyết trung thành với đường lối vua cha. Mười chi tộc nhận Jeroboan làm vua, lập Bắc Quốc lấy tên là Israel và thủ đô là Samaria. Hai chi tộc còn lại, Judah và Benjamin, trung thành với tân vương cai trị phương Nam; nơi có đền thánh Giêrusalem và thủ đô là Zion. (1 V. 12:16).

Hàng năm đông đảo dân chúng Bắc Quốc viếng đền Thánh Giêrusalem ở Nam Quốc. Điều này khiến vua Jeroboam lo sợ ngày nào đó dân chúng sẽ trở mặt. Nhà vua loan tin việc viếng Đền Thánh Giêrusalem là tự nguyện, không bắt buộc. Thay vào đó vua khuyến khích thờ bò vàng, cổ võ lối sống xa hoa, trụy lạc. Nam quốc do Rehoboam trị vì cũng không hơn gì, ông cố gắng bảo vệ, cổ võ theo đường lối vua cha. Tiếp tục xây dựng đền đài trên cao thờ tà thần. 9 1V14:21tt).

Tiên tri Amos sống khoảng 760 năm trước công nguyên. Tiên tri phàn nàn về việc hai vua thờ ngẫu tượng. Tiên tri cảnh báo thời gian thanh bình ở Zion và Samaria sẽ biến mất, bởi tội bất trung gắn liền với tai ương, chiến tranh, giặc giã. Bỏ Đức Chúa, thờ tà thần, sống bất chính sẽ gặp nạn. Đây không phải do Đức Chúa trả thù nhưng gieo gió sẽ gặt bão. Con đường chiều theo thú vui, xác thịt dẫn đến khổ đau. Đau khổ giúp mở mắt nhận ra sai trái thống hối, trở về đường con đường công chính, đường lành.

Có nhiều điểm tương đồng trong bài đọc một và dụ ngôn người giầu có và anh nghèo lazarô. Thứ nhất, thay vì nghe theo lời Đức Chúa để được sống hạnh phúc, người ta chọn nghe theo lời loài người tìm vui thú qua cuộc sống xa hoa, trụy lạc. Thứ hai, toàn dụ ngôn không hề nhắc đến việc thờ ngẫu tượng, tà thần. Nhưng cách sống ăn chơi trác táng cho biết họ giầu vật chất, nghèo tâm linh, nghèo tình thương, không có lòng xót thương tha nhân. Làm ngơ kẻ đói ăn ngoài ngõ; ai khổ, ai bất hạnh, mặc họ; nghèo khổ ráng chịu. Thứ ba, không nơi nào nhắc đến việc người giầu tạ ơn Chúa về may lành nhận được, như thế anh không tôn thờ Chúa. Thứ tư, không thể biện hộ, anh không biết người nghèo bởi sau khi qua đời, từ đàng xa anh nhận ra Lazarô trong lòng tổ phụ Abraham. Như thế anh biết rõ cuộc sống đói khổ của Lazarô, sống ngoài ngõ nhà anh, nhưng anh làm ngơ, không chạnh lòng thương, không hề quan tâm giúp đỡ. Thứ năm, anh vẫn sống kiểu người chủ quyền thế, và nô lệ nghèo chịu sai bảo. Giờ đây, anh sai bảo Lazarô, không phải một lần mà tới hai lần. Lần đầu phục vụ chính anh, mang cho anh chút nước. Lần hai phục vụ cho năm người anh em anh. Cả hai yêu cầu đều bị từ chối. Suốt đời anh không giúp ai, giờ anh mong có người giúp anh. Suốt đời anh từ chối lời kêu van xin ăn của Lazarô. Giờ đây tổ phụ Abraham từ chối lời anh xin.

Dụ ngôn cho biết, thứ nhất, may lành, giầu có trong cuộc sống mà không biết dâng lời cảm tạ Chúa, không học cách xử dụng chúng khôn ngoan sẽ là bất hạnh đời sau. Thứ hai, bất hạnh nhất là cuộc sống thiếu tình thương, cô đơn, không nơi nương tựa, không bạn bè, thân hữu. Thứ ba, của cải, vật chất, bố thí cho đi, trong đời sẽ là nguồn hạnh phúc trong cuộc sống trường sinh. Thứ tư, may lành trong xã hội rất khác với may lành trong nước Chúa; bất hạnh trong xã hội lại là may lành trong nước hằng sống. Cuối cùng, khi còn sống không thương ai, khi chết đừng mong ai thương.

TiengChuong.org