1. Yêu cầu một linh mục giải tội nhưng thực ra là tìm dịp để sát hại ngài
Một linh mục giáo xứ 77 tuổi ở Downpatrick, Quận Down, Bắc Ái Nhĩ Lan, đã bị thương ở đầu và tay sau một cuộc tấn công dữ dội khi ngài đang chuẩn bị cử hành Thánh lễ sáng Chúa Nhật.
Linh mục giáo xứ St. Patrick ở Downpatrick, Canon John Murray, đang trong tình trạng “nghiêm trọng nhưng ổn định” tại bệnh viện sau vụ tấn công ngày 10 tháng 8, trong đó các ngón tay của ngài bị gãy khi đang tự vệ.
Trong một vụ việc riêng biệt mà cảnh sát tin rằng có liên quan đến vụ tấn công Cha Murray, một cuộc điều tra giết người đang được tiến hành sau khi một người đàn ông được phát hiện đã chết trong một ngôi nhà ở thị trấn County Down, RTÉ News đưa tin.
Trong một tuyên bố, Sở Cảnh sát Bắc Ái Nhĩ Lan, gọi tắt là PSNI cho biết cuộc điều tra vẫn đang được tiến hành: “Vào thời điểm này, chúng tôi nghi ngờ vụ việc này có thể liên quan đến một vụ tấn công nghiêm trọng tại khu vực Đại lộ St. Patrick ở Downpatrick vào Chúa Nhật.” Đại lộ St. Patrick là nơi có nhà thờ.
“Các thám tử thuộc Đội điều tra chính của chúng tôi đã tiến hành một cuộc điều tra về vụ giết người sau cái chết của một người đàn ông ở Downpatrick,” Cảnh sát trưởng Norman Haslett cho biết.
Theo cảnh sát, “Sau khi nhận được báo cáo về một người đàn ông đã tử vong vào khoảng 12 giờ trưa Chúa Nhật, ngày 10 tháng 8, một người đàn ông 30 tuổi đã bị bắt vì tình nghi giết người và vẫn bị cảnh sát giam giữ để hỗ trợ điều tra”.
Cảnh sát được báo cáo vào khoảng 10:10 sáng Chúa Nhật rằng một người đàn ông đã đi vào nhà thờ trên Đại lộ St. Patrick và đánh vào đầu vị linh mục bằng một cái chai trước khi rời đi.
Cha Eddie McGee, phát ngôn viên của Giáo phận Down và Connor, nói với CNA: “Sáng nay, một quý ông đã đến gặp cha xứ Downpatrick, Canon John Murray, và yêu cầu ngài cử hành bí tích hòa giải trên đường vào nhà thờ, tại thời điểm đó, Cha Canon John đã bị tấn công.”
“Cha Murray bị thương nặng ở đầu và hiện đang được điều trị tại bệnh viện. Tình hình của ngài vẫn nghiêm trọng nhưng đã ổn định”, Cha Eddie McGee nói. “Chúng tôi xin gửi lời chia buồn đến cộng đoàn và cầu nguyện cho Cha John Murray.”
“Thật đáng lo ngại và khó chịu khi vụ tấn công này xảy ra với một linh mục dễ bị tổn thương trong quá trình thi hành sứ vụ và phục vụ cộng đồng địa phương”.
Cha McGee xác nhận rằng Cha Murray sẽ nghỉ hưu với tư cách là linh mục giáo xứ trong những tuần tới và sẽ tiếp tục phục vụ trong các giáo xứ địa phương cho đến lúc đó.
“Là cha xứ của Downpatrick, Cha Murray rất nổi tiếng và được yêu mến, các giáo dân và những người khác trong cộng đồng đã liên lạc với ngài hôm nay để bày tỏ sự thương mến và lời cầu nguyện và sự ủng hộ liên tục của họ vào lúc này”, Cha McGee cho biết.
“Giáo phận đã nhận được tin tức đau lòng và gây sốc rằng một người đàn ông khác ở Downpatrick đã bị sát hại trong một vụ việc dường như có liên quan,” Cha McGee nói tiếp. “Chúng tôi xin gửi lời chia buồn và cầu nguyện đến vợ và gia đình anh ta, và thực sự tất cả đều bị ảnh hưởng bởi vụ tấn công dẫn đến mất mát nhân mạng này.”
Thanh tra trưởng David McBurney kêu gọi bất kỳ ai có thêm thông tin hãy liên hệ với cảnh sát: “Đây là một vụ tấn công hoàn toàn gây sốc và tàn bạo, khiến vị linh mục bị thương nặng ở đầu.”
Người quá cố được tờ The Independent tại địa phương nêu tên là Stephen Brannigan.
Source:Catholic News Agency
2. Nhật ký trừ tà #356: Sáu khía cạnh của tính cách quỷ dữ
Với tư cách là một nhà trừ tà, một điều bạn dễ dàng nhận thấy là mỗi con quỷ đều có những tính cách khác nhau. Chúng không phải là máy móc mà là những thực thể tâm linh thực sự. Chúng cũng có những chức năng khác nhau và phản ứng với những lời cầu nguyện và bí tích khác nhau. Nhưng bên dưới những khác biệt này, có một tính cách chung của loài quỷ. Điều này rất quan trọng để các linh mục nhận ra khi cố gắng phân biệt một người có bị quỷ ám hay không. Khi người ta “xuất hiện” trong một buổi trừ tà, chúng ta có chứng kiến những đặc điểm tính cách này không?
Người ta có thể xác định sáu khía cạnh của tính cách này:
1. Cơn thịnh nộ. Tất cả quỷ dữ đều là những sinh vật rất hung dữ. Chúng bị cơn thịnh nộ và ham muốn hủy diệt thiêu đốt. Bạn có thể thấy điều đó trong mắt chúng khi quỷ dữ xuất hiện trong một buổi trừ tà. Thật kinh hoàng và đáng sợ khi phải đối mặt với một cơn thịnh nộ dữ dội đến mức tột độ như vậy. Một con người không thể nào hoàn toàn bắt chước được cơn thịnh nộ siêu nhiên đó.
2. Sự kiêu ngạo hời hợt. Ma quỷ rất kiêu ngạo. Chúng coi thường và hạ thấp tất cả chúng ta, những con người. Ví dụ, một trong những điều đầu tiên chúng nói với Người Trừ Tà là: “Đồ linh mục ngu ngốc!” Chúng khinh miệt sâu sắc tất cả chúng ta. Nhưng sự kiêu ngạo của chúng chỉ là bề ngoài hời hợt. Đó là một nỗ lực che giấu sự yếu đuối tiềm ẩn và hình ảnh bản thân bị tổn thương. Về cuối buổi trừ tà, khi sự phòng thủ của chúng suy yếu, chúng sẽ rên rỉ và khóc lóc như một đứa trẻ yếu đuối.
3. Những kẻ nói dối một cách gượng ép. Chúa Giêsu là Chân Lý. Ma quỷ kinh sợ Chúa Giêsu và Chân Lý. Mọi điều chúng nói đều là sự thao túng hoặc dối trá, hoặc thường là kết hợp cả hai. Chúng chỉ nói sự thật nếu Chúa buộc chúng. Thật nguy hiểm khi tin vào những gì ma quỷ nói trong một buổi trừ tà. Đây là lý do tại sao người trừ tà thường sẽ ngăn cản ma quỷ nói, ngay cả khi chúng cố gắng, trừ khi được yêu cầu cung cấp những thông tin trừ tà cơ bản như tên thật của chúng.
4. Những kẻ tự luyến hoàn toàn. Ma quỷ chẳng quan tâm đến ai ngoài bản thân chúng. Con người chúng ta khó mà hiểu được mức độ ích kỷ tột độ của ma quỷ. Satan là kẻ tự luyến bậc nhất và sẵn sàng thiêu sống tất cả mọi người dưới địa ngục vì lợi ích của hắn, và thực tế là hắn đã làm vậy. Thật là thiếu sáng suốt khi giao kèo với Satan. Kẻ đó luôn thua cuộc.
5. Thiếu sự đồng cảm một cách tàn bạo. Ma quỷ không chỉ thiếu sự đồng cảm với bất kỳ ai, chúng còn tìm thấy niềm vui tàn bạo trong việc gây đau đớn. Chúng sẽ hành hạ người khác chỉ để thỏa mãn thú vui cá nhân, và chúng sẽ cười nhạo khi người đó khóc lóc. Đây chính là địa ngục.
6. Bất tuân và vô luật pháp. Giống như những kẻ rối loạn nhân cách chống đối xã hội, ma quỷ hoàn toàn coi thường các quy tắc nhân đạo và luật pháp công bằng. Chúng thích thú với sự bất tuân của chính mình. Chúng lừa dối và thao túng. “Quy tắc” duy nhất của chúng là sự tự đề cao bản thân, và cố gắng tăng cường quyền lực và sự kiểm soát của chính mình. Trong một buổi trừ tà, chúng sẽ chỉ tuân theo Người Trừ Tà nếu bị ép buộc. Một dấu hiệu cho thấy sự ám ảnh sắp kết thúc là khi lũ quỷ, lúc này đã suy yếu rất nhiều, trở nên vâng lời Người Trừ Tà.
Trớ trêu thay, như tôi đã nhắc nhở ma quỷ trong các buổi trừ tà, mọi hành động của chúng sẽ trở nên vô ích. Bản chất của cái ác là tự chuốc lấy thất bại. Như Nghi thức Trừ tà đã dạy chúng: “Càng trì hoãn việc rời bỏ người bị ảnh hưởng, hình phạt của chúng càng nặng nề.” Chúa đã đày chúng xuống địa ngục, và trong ngày phán xét cuối cùng, chúng sẽ bị kết án một cách công bằng hơn nữa vì những hành động xấu xa đang diễn ra. Ngay cả trong kiếp sống hiện tại, hành vi ghê tởm của chúng vẫn tiếp tục gây ra sự sỉ nhục và đau khổ cho chính chúng.
Chúng ta có thể xem xét sáu đặc điểm này và xem liệu có những dấu hiệu nào tương tự trong nhân tính sa ngã của chính mình hay không. Cũng như ma quỷ, những đặc điểm này ở con người dẫn đến đau khổ cho chính họ cũng như cho những người xung quanh. Chúng ta nên mang những khiếm khuyết này đến tòa giải tội, cùng với việc cầu nguyện xin ơn chữa lành, cũng như thực hành những đức tính Kitô giáo trái ngược với chúng.
Con người được kêu gọi noi gương Chúa Giêsu, Đấng “đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Để minh chứng điều này, trong Bữa Tiệc Ly, Người đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, vốn là bổn phận của một người nô lệ thấp hèn nhất.
Source:Catholic Exorcism
3. Tại sao một nhóm Hindu lại nhắm vào người Công Giáo Ấn Độ?
Hai vụ việc gần đây đã gây ra nỗi sợ hãi và phẫn nộ trong cộng đồng Công Giáo Ấn Độ có điểm chung, bất chấp những khác biệt bề ngoài.
Trong vụ đầu tiên, hai nữ tu đã bị bắt vào ngày 25 tháng 7 với cáo buộc rất đáng ngờ về tội buôn người và cải đạo sau khi họ bị một đám đông thù địch bao vây tại một nhà ga xe lửa ở bang Chhattisgarh, miền trung Ấn Độ.
Trong vụ thứ hai, hai linh mục, hai nữ tu và một giáo lý viên đã bị một đám đông ở bang Odisha, miền đông Ấn Độ tấn công vào ngày 6 tháng 8 với những tuyên bố sai sự thật rằng họ đang tìm kiếm người cải đạo.
Điểm chung? Đám đông trong cả hai trường hợp được tường trình bao gồm các thành viên của một nhóm Hindu được gọi là Bajrang Dal.
Tổ chức này là gì? Và tại sao lại nhắm vào người Công Giáo?
Bajrang Dal là gì?
Khoảng 80% trong số khoảng 1.4 tỷ dân Ấn Độ là tín hữu của Ấn Độ giáo, được coi là tôn giáo lớn lâu đời nhất thế giới.
Trong nhiều thế kỷ trước khi Ấn Độ giành được độc lập vào năm 1947, đất nước này bị các thế lực nước ngoài thống trị. Vương triều Mughal, một triều đại Hồi giáo từ Trung Á, đã cai trị phần lớn Ấn Độ từ những năm 1500 đến đầu những năm 1800. Tiếp theo là người Anh, những người đã nắm quyền cai trị thông qua chế độ thực dân trực tiếp trong gần một thế kỷ.
Đầu thế kỷ 20, một nhà hoạt động Ấn Độ tên là Vinayak Damodar Savarkar đã lập luận rằng đồng bào của ông nên nổi dậy chống lại các lãnh chúa thực dân. Trong thời gian ở tù, ông đã xây dựng một ý thức hệ chính trị mà ông gọi là Hindutva, hay “Hindu-ness” (Ấn tính).
Trong cuốn sách “Những điều cốt yếu của Hindutva” xuất bản năm 1923, Savarkar lập luận rằng Ấn Độ thuộc về những người coi nơi đây là thánh địa của họ, chủ yếu là người Ấn giáo [Hindu], nhưng cũng có cả Phật tử, Kỳ Na giáo và Sikh, những người có tín ngưỡng cũng bắt nguồn từ đất nước này.
Ông cho rằng người Hồi giáo và người Kitô giáo - lần lượt là nhóm thiểu số tôn giáo lớn nhất và lớn thứ hai của Ấn Độ - không thể hòa nhập vào quốc gia Hindu trừ khi họ coi Ấn Độ là thánh địa của mình, trước cả Mecca và Giêrusalem.
Tư tưởng Hindutva của Savarkar đã được tổ chức Rashtriya Swayamsevak Sangh, thành lập năm 1925, tiếp thu. Sau khi Ấn Độ giành được độc lập, RSS trở thành một tổ chức có ảnh hưởng lớn cho những người theo chủ nghĩa dân tộc Hindu.
Trong số các nhóm hoạt động dưới sự bảo trợ của RSS có Vishva Hindu Parishad, được thành lập năm 1964 với mục tiêu đoàn kết người Hindu hoàn cầu. Năm 1984, VHP thành lập một nhóm thanh niên hoạt động được gọi là Bajrang Dal.
Tên của nhóm có nghĩa là “Lữ đoàn Bajrangbali”, ám chỉ đến vị thần Hindu Hanuman, một nhân vật anh hùng, dũng cảm được người Hindu tôn vinh vì lòng trung thành tuyệt đối với vị thần tối cao Rama.
Bajrang Dal, với phương châm “phục vụ, an ninh và các giá trị”, tự coi mình là người bảo vệ văn hóa Hindu theo tinh thần Hanuman. Các hoạt động của nhóm bao gồm bảo vệ bò (một loài vật linh thiêng đối với người Hindu), phản đối việc cải đạo sang Kitô giáo, và chống lại điều họ gọi là “thánh chiến tình yêu”, một âm mưu bị cáo buộc của người Hồi giáo nhằm cải đạo phụ nữ Hindu thông qua hôn nhân.
Các chi nhánh của Bajrang Dal có mặt trên khắp Ấn Độ, nhưng sự hiện diện của nhóm mạnh nhất ở miền bắc và miền trung đất nước.
Nhóm các tổ chức Hindutva xung quanh RSS — được gọi chung là Sangh Parivar (“Gia đình RSS”) — cũng bao gồm Đảng Bharatiya Janata, một trong hai đảng chính trị lớn của Ấn Độ bên cạnh Đảng Quốc đại Ấn Độ. Đảng BJP, được thành lập năm 1980, là đối tác chính trong liên minh cầm quyền hiện tại của Ấn Độ, do Thủ tướng Narendra Modi lãnh đạo.
Mối quan hệ giữa các thành phần của Sangh Parivar khá lỏng lẻo, thường mang tính ý thức hệ hơn là định chế. Điều này cho phép BJP, chẳng hạn, cố gắng tách mình khỏi các hoạt động gây tranh cãi hơn của Bajrang Dal.
Tại sao lại nhắm vào người Công Giáo?
Bajrang Dal nhắm vào người Công Giáo vì thái độ thù địch rộng rãi hơn đối với các tôn giáo không bắt nguồn từ Ấn Độ.
Khoảng 14% người Ấn Độ theo đạo Hồi, trong khi chỉ có 2% theo đạo Kitô giáo, nên phần lớn các hoạt động của nhóm này tập trung vào Hồi giáo, mà họ coi là một thế lực xa lạ đang tìm cách phá hoại bản sắc Hindu.
Nhưng Bajrang Dal cũng nghi ngờ cả các Kitô hữu, tin rằng các nhà truyền giáo có ý định phá hoại cấu trúc của xã hội Hindu, dụ dỗ người cải đạo bằng cách cung cấp tiền bạc, giáo dục và chăm sóc sức khỏe.
Mặc dù các Kitô hữu đã sống ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ nhất sau Chúa Giáng Sinh, Bajrang Dal vẫn liên kết nhóm thiểu số này với sự cai trị của Anh, coi Kitô giáo là một sự áp đặt văn hóa phương Tây.
Các thành viên Bajrang Dal tìm cách phá hoại hoạt động truyền giáo, và đó có thể là điều họ tin rằng mình đang làm khi đối đầu với hai nữ tu tại nhà ga xe lửa ở bang Chhattisgarh vào ngày 25 tháng 7.
Các nữ tu đã đến gặp những phụ nữ trẻ được họ hứa cho việc làm. Những phụ nữ trẻ này có giấy đồng ý của cha mẹ và được tường trình thành viên của Giáo hội Tin lành Nam Ấn Độ, chứ không phải người theo đạo Hindu. Tuy nhiên, đại diện của Bajrang Dal tuyên bố các nữ tu đang tham gia vào hoạt động buôn người và cải đạo, những hành vi phạm tội có thể dẫn đến án tù lên đến 10 năm.
Những hành vi phạm tội như vậy thường không được tại ngoại, nghĩa là các nữ tu có thể bị giam giữ cho đến khi xét xử. Tuy nhiên, sau làn sóng phản đối dữ dội trên toàn quốc, các nữ tu đã được tại ngoại vào ngày 2 tháng 8 bởi một tòa án đặc biệt của Cơ quan Điều tra Quốc gia, nơi thường giải quyết các tội danh khủng bố.
Các thành viên của Bajrang Dal dường như cũng đã tấn công vào các linh mục, nữ tu và một giáo lý viên ở bang Odisha vào ngày 6 tháng 8 vì tin rằng họ đang làm gián đoạn hoạt động truyền giáo.
Thực tế, mục đích chuyến thăm của nhóm Công Giáo đến thị trấn Jaleswar là để cử hành Thánh lễ cầu nguyện cho hai người đàn ông Công Giáo địa phương đã qua đời hai năm trước đó.
Những người Công Giáo cho biết họ đã bị phục kích bởi khoảng 70 người đàn ông mà họ xác định là thành viên của Bajrang Dal, những người đã đánh đập họ, tịch thu điện thoại di động của họ và “liên tục hét lên rằng chúng tôi đang cố gắng biến họ thành người Mỹ”.
Các nhà lãnh đạo Giáo hội có thể làm gì để bảo vệ người Công Giáo khỏi những chiến binh nhầm lẫn giữa Kitô giáo với chủ nghĩa đế quốc phương Tây?
Một ý tưởng đang được người Công Giáo Ấn Độ tranh luận là các nữ tu nên được phép đi qua các điểm nóng mà không cần mặc tu phục. Một số người cho rằng điều này sẽ giúp các nữ tu tránh khỏi bạo lực. Những người khác lo ngại điều này sẽ là một sự nhượng bộ đối với sự bất khoan dung và cho rằng các nữ tu có mọi quyền mặc trang phục thể hiện sứ mệnh của họ.
Tuy nhiên, cuối cùng, vấn đề không phải là các nữ tu mặc gì, mà là ở một số vùng của Ấn Độ, các thành viên Bajrang Dal dường như tin rằng họ có thể hành động mà không bị trừng phạt.