
Đầu thiên niên kỷ này rơi vào cuộc khủng hoảng khủng khiếp khiến người ta tưởng quan hệ Kitô giáo và Hồi giáo sẽ lâm vào ngõ bí: ngoài biến cố 11 tháng 9 tại tòa tháp đôi New York, sự nổi dậy của các phong trào đấu tranh quân sự và chính trị Hồi Giáo Cực Đoan với chính sách tàn sát dã man các Kitô hữu Trung Đông quả là một cơn ác mộng. Nhưng trước cơn ác mộng này, cảm ơn Thiên Chúa, các nhà lãnh đạo Ki-tô giáo, đặc biệt là Công Giáo, đã có một lập trường thật tích cực là đẩy mạnh cuộc đối thoại Hồi Giáo-Kitô giáo. Đó là nội dung bài viết của Pauline Rae, một nữ tu truyền giáo Marist, lúc đó là phó giám đốc của Viện Truyền giáo Columban và là người triệu tập Trung tâm Quan hệ Kitô giáo-Hồi giáo, trên tạp chí thần học Úc Châu, The Austalasian Catholic Record, tập 80, số 4, tháng Mười năm 2003.
Bài viết này sẽ bắt đầu với một cái nhìn tổng quan ngắn gọn về lịch sử quan hệ Kitô giáo - Hồi giáo. Sau đó, bài viết sẽ xem xét đối thoại liên tôn như bối cảnh cho quan hệ Kitô giáo - Hồi giáo. Bối cảnh này sẽ cho phép chúng ta xem xét tình hình hiện tại trong quan hệ Kitô giáo - Hồi giáo. Cuối cùng, chúng ta sẽ xem xét cụ thể về Kitô giáo và Hồi giáo ở Úc.
Tổng quan Lịch sử
Kitô giáo và Hồi giáo đã sống cạnh nhau qua nhiều thế kỷ ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là Trung Đông, khu vực Địa Trung Hải, Châu Phi và vùng Balkan. Khuôn khổ mối quan hệ của họ rất phức tạp và đa dạng. Một mặt, ký ức lịch sử của những dân tộc này bao gồm chiến tranh, phá hủy nhà thờ và thánh đường Hồi giáo, nghi ngờ, hiểu lầm, nô lệ và cưỡng bức cải đạo. Người Kitô giáo nhớ về sự mất mát ở Bắc Phi, sự thất bại của Constantinople trước người Thổ Nhĩ Kỳ, trong khi người Hồi giáo than khóc về sự mất mát ở Cordoba và vẫn còn phẫn nộ về các cuộc Thập tự chinh.
Luôn có sự tương tác văn hóa giữa người Hồi giáo và Kitô giáo kể từ thế kỷ thứ bảy. Tuy nhiên, cũng đúng là một số yếu tố nhất định đã khiến mối quan hệ trở nên khó khăn hơn. Thế giới Hồi giáo và thế giới Kitô giáo phương Tây theo thời gian đã trở thành hai khối - một sự chia rẽ được duy trì bởi các cuộc Thập tự chinh và được các thế lực chính trị mang vào thời đại của chúng ta. Trong thời kỳ thuộc địa, người Hồi giáo ngưỡng mộ và mong muốn những tiến bộ kỹ thuật của Kitô giáo phương Tây nhưng lại ghê tởm sự thống trị của họ. Ở bình diện tôn giáo, Kitô giáo coi Hồi giáo là dị giáo, và Hồi giáo, mặc dù cho phép Kitô giáo có một vị trí trong hệ thống của mình với tư cách là ahl al-dhimmi (thiểu số), nhưng lại không chấp nhận những tín ngưỡng chuyên biệt của Kitô giáo.
Nhưng lịch sử cũng ghi lại những thời điểm và địa điểm mà tình hữu nghị, hợp tác và tôn trọng tồn tại giữa hai nhóm tôn giáo. Vào thế kỷ thứ chín và thứ mười, đã có sự hợp tác khoa học hiệu quả cũng như các cuộc thảo luận thần học diễn ra tại Baghdad, khi đó là thủ đô của nhà nước Abbasid. Các học giả Kitô giáo và Hồi giáo đã cùng nhau biên dịch và bình luận về Triết học và khoa học Hy Lạp. Chính trong thời gian này, các học giả đã nỗ lực nghiêm túc để xác định những điểm hội tụ và khác biệt giữa hai tôn giáo. Tây Ban Nha và Sicily cũng là những nơi hợp tác. Trong thời Norman cai trị tại Silicy, những bản dịch đầu tiên về triết học và khoa học Ả Rập đã được thực hiện. Công trình này có ảnh hưởng đáng kể đến các học giả châu Âu như các Thánh Albertô Cả và Tôma Aquinô. Chính thông qua các tác phẩm của những vị sau, mà các phạm trù và khái niệm của các học giả Hồi giáo như Al-Farabi, lbin Sina và Ibin Rushd đã tiếp tục được nghiên cứu trong các phân khoa thần học Kitô giáo. Có một đoạn thư từ giữa Quốc vương Al-Nasir của Bejaya (Algeria) và Đức Giáo Hoàng Gregoriô VII, cho thấy mối quan hệ tích cực ban đầu. Năm 1076, nhà cai trị Hồi giáo đã viết thư cho Đức Giáo Hoàng Gregoriô yêu cầu một trong những linh mục địa phương được phong làm giám mục để chăm sóc Ki-tô hữu sống trong lãnh thổ của mình. Cùng với bức thư là quà tặng và nô lệ được chuộc. Đức Giáo Hoàng Gregoriô kết thúc thư trả lời bằng câu:
... chúng ta tin và tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất, mặc dù theo những cách khác nhau, và chúng ta ca ngợi và tôn kính Người mỗi ngày là Đấng Tạo Hóa và Đấng Cai Quản thế giới này. Chúng ta cầu nguyện bằng cả trái tim và môi miệng rằng, sau một cuộc hành trình dài trên cuộc đời này, chính Thiên Chúa ấy sẽ dẫn dắt bạn đến với hạnh phúc của Thánh Tổ Ápraham.1
Có rất nhiều ví dụ như vậy. Một ví dụ nổi bật là cuộc gặp gỡ giữa hai con người phi thường, Thánh Phanxicô thành Assisi và Quốc vương Al-Malik al-Kamil. Năm 1219, trong thời đỉnh cao của các cuộc Thập tự chinh, Thánh Phanxicô đã du hành trong hòa bình đến Damietta (Ai Cập hiện đại), nơi ngài được Quốc vương, cháu trai của Saladin lừng danh, tiếp đón nồng hậu.
Không lịch sử nào có thể kể hết câu chuyện về mối quan hệ tích cực giữa những Ki-tô hữu và người Hồi giáo — những hành động tử tế nhỏ bé hàng ngày giữa những người hàng xóm không phải là chất liệu tạo nên lịch sử. Những hành động tử tế không được báo trước, những mối quan hệ bạn bè được thiết lập, sự hợp tác giữa đồng nghiệp, công nhân và các bà nội trợ — tất cả đều nằm trong số những cách mà các Ki-tô hữu và người Hồi giáo đã gắn kết với nhau.
Tuy nhiên, điểm nhấn sâu sắc nhất trong mọi mối quan hệ Kitô giáo-Hồi giáo là ký ức về nhiều cuộc xung đột xuyên suốt nhiều thế kỷ và những huyền thoại được tạo ra bởi nỗi sợ hãi và thông tin sai lệch. Vào thế kỷ 18 và 19, dưới con mắt của Kitô giáo, Mohamed thường bị coi là kẻ mạo danh, bị thúc đẩy bởi tham vọng chính trị, người đã truyền bá Hồi giáo bằng gươm giáo. Khi tranh luận về chân lý tương đối của Hồi giáo và Kitô giáo, người ta nhấn mạnh rất nhiều đến việc sử dụng vũ lực để truyền bá Hồi giáo trong khi lại gán sự truyền bá của Kitô giáo do bàn tay của Thiên Chúa.
Hồi giáo, trên hết, được miêu tả là tôn giáo của gươm giáo, các Ki-tô hữu đã dễ dàng quên đi những tia lửa bạo lực trong mắt của chính truyền thống họ. 2
Ngày nay, áp lực kinh tế, bất ổn chính trị và áp bức, cùng với các cuộc khủng hoảng đang diễn ra, đã tạo ra những làn sóng di cư mới, đưa người Hồi giáo và người Kitô giáo đến gần nhau hơn ở những nơi trên thế giới mà cho đến nay vẫn chủ yếu là Kitô giáo — ví dụ như Tây Âu, Hoa Kỳ và Châu Đại Dương. Ký ức lịch sử không có ranh giới địa lý. Hơn nữa, lịch sử không chỉ liên quan đến quá khứ xa xôi mà còn tiếp tục tiến về phía trước, và một số sai lầm đã gây ra và những đau khổ đã phải chịu đựng chỉ còn là quá khứ xa xôi như những dòng tít báo chí ngày hôm qua.
Với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở Trung Đông, Châu Phi, Indonesia và những nơi khác, sức mạnh của huyền thoại Hồi giáo là bạo lực đã tái hiện, dẫn đến những lời chỉ trích công khai, thậm chí là nỗi sợ hãi Hồi giáo hiện đại. Từ nỗi sợ hãi Hồi giáo như một mối đe dọa thời Trung cổ, đến nỗi sợ hãi Hồi giáo ngày nay như một mối đe dọa đối với sự ổn định thế giới, những sự cạnh tranh ý thức hệ tương tự dẫn đến sự bóp méo sự thật vẫn đang hoạt động.
Nỗi sợ hãi là một cố vấn tồi tệ và cản trở sự phát triển của các mối quan hệ hữu hiệu. Có một sự cám dỗ muốn ẩn náu trong những khuôn mẫu.3
Là những Kitô hữu, chúng ta có lý do để chú ý đến những tia sáng trong con mắt truyền thống của chính mình.
Hình ảnh một Kitô giáo nhân từ đối lập với một Hồi giáo độc ác đã, và vẫn là một hình ảnh mang tính huyền thoại. 4
Đối thoại liên tôn
Điều quan trọng là phải định vị các mối quan hệ Kitô giáo-Hồi giáo khi chúng ta thảo luận nó chủ yếu trong bối cảnh đối thoại liên tôn. Các cá nhân và quốc gia, Kitô giáo và Hồi giáo, đều có mối quan hệ. Có những mối quan hệ quân sự như ở Iraq, quan hệ chính trị, quan hệ kinh doanh và quan hệ văn hóa. Chúng ta đang đề cập đến mối quan hệ giữa Kitô giáo và Hồi giáo ở bình diện tín ngưỡng tôn giáo.
Đối thoại liên tôn trước hết là mối quan hệ giữa những người theo các tín ngưỡng khác nhau, và thứ hai, nó được bắt đầu với nhận thức đầy đủ về sự khác biệt đó - người ta có thể nói, chính vì điều đó. Đối với người Công Giáo, Công đồng Vatican II đã đánh dấu một khởi đầu mới trong mối quan hệ Kitô giáo-Hồi giáo. Nó đã mang lại một thái độ mới đối với những người theo các tôn giáo khác nói chung, và đối với người Hồi giáo nói riêng. Tuyên bố cụ thể về mối quan hệ của Giáo hội với các tôn giáo ngoài Kitô giáo (Nostra Aetate) nêu rõ rằng Giáo hội 'rất coi trọng người Hồi giáo' (số 3).
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI (1963-1978) đã lãnh đạo Giáo hội thực hiện các chỉ thị của Công đồng Vatican II. Năm 1964, ngài thành lập một cơ quan tự trị tại các văn phòng trung ương của Vatican — Văn phòng Thư ký cho Người ngoài Kitô giáo — mà đến năm 1988 được đổi tên thành Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn. Ngay từ khi bắt đầu triều giáo hoàng của mình vào năm 1978, Đức Gioan Phaolô II đã biểu lộ sự cởi mở sâu sắc đối với người dân thuộc các tôn giáo khác. Không chuyến thăm nào đến một quốc gia được coi là trọn vẹn nếu không có một cuộc gặp gỡ với đại diện của các tôn giáo khác. Một số hành động mang tính biểu tượng nổi tiếng hơn của ngài là cuộc gặp gỡ với 80,000 thanh niên Hồi giáo tại Casablanca, Maroc năm 1985, chuyến thăm Giáo đường Do Thái ở Rome năm 1986, lời mời các nhà lãnh đạo của các tôn giáo lớn tham dự Ngày Cầu nguyện Thế giới cho Hòa bình tại Assisi năm 1986 và lời mời 250 đại diện của hầu hết các tôn giáo trên thế giới đến Vatican năm 1999 để chuẩn bị cho sự hợp tác giữa các tôn giáo khi bước vào thiên niên kỷ thứ ba.5 (Một cuộc họp Assisi thứ hai diễn ra vào năm 2002).
Thông thường, việc làm rõ ý nghĩa cụ thể của đối thoại liên tôn bằng cách gợi ý những gì không phải là nó sẽ dễ dàng hơn. Đức Hồng Y Arinze, với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn, bắt đầu bài giải thích của mình về "Bản chất của Đối thoại Liên tôn" bằng cách nói:
Nó không giống như việc nghiên cứu các tôn giáo so sánh.
Đối thoại liên tôn không phải là một cuộc tranh luận để xác định tôn giáo nào đúng và tôn giáo nào sai.
Nó không giống với chủ nghĩa đại kết, vốn nhằm thúc đẩy sự hợp nhất của các Kitô hữu trong một Giáo hội.
Nó không nhằm mục đích mang lại sự thống nhất cho tất cả các tôn giáo.
Nó không phải là nỗ lực thuyết phục người khác theo tôn giáo của mình.6
Đối thoại liên tôn, theo định nghĩa của Đức Hồng Y Arinze:
là một cuộc gặp gỡ của những người thuộc các tôn giáo khác nhau trong bầu không khí tự do và cởi mở để lắng nghe người khác, cố gắng hiểu tôn giáo của người đó, và hy vọng tìm kiếm khả năng hợp tác. Hy vọng rằng đối tác kia sẽ đáp lại, bởi vì đối thoại nên được đánh dấu bằng một chuyển động hai chiều chứ không phải một chiều. Tính hỗ tương nằm trong bản chất của đối thoại. Có sự cho đi và nhận lại. Đối thoại bao hàm cả tính tiếp nhận lẫn đàm đạo tích cực.7
Tính phức tạp của đối thoại nằm ở trong quá trình: ai tham gia vào cuộc đối thoại, trình độ học thuật tôn giáo của các bên, mục tiêu đặt ra và mức độ hiểu biết lẫn nhau về quá trình này.8
Bốn loại hình đối thoại liên tôn chính đã được xác định. Đối thoại trong cuộc sống, nằm trong tầm tay của bất cứ ai sống hoặc tương tác với các tín đồ khác ở bình diện gia đình, trường học, công việc hoặc tiếp xúc xã hội/văn hóa. Đối thoại trong hành động đề cập đến sự hợp tác nhằm thúc đẩy sự phát triển của con người, cùng nhau làm việc vì các mục tiêu chung trong xã hội. Đối thoại trong diễn ngôn được thực hiện bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo và các chuyên gia thần học để nhận diện những tín ngưỡng và thực hành chung và khác nhau trong truyền thống riêng của họ. Họ cùng nhau cố gắng giải quyết các vấn đề và thách thức của ngày nay dưới góc nhìn của các tôn giáo khác nhau. Đối thoại về kinh nghiệm tôn giáo đề cập đến việc chia sẻ kinh nghiệm suy niệm, cầu nguyện và cách thức tìm kiếm Đấng Tuyệt Đối.
Arinze liệt kê một số điều kiện nhất định để việc thực hành đối thoại liên tôn đạt hiệu quả chứ không chỉ là hình thức bên ngoài:
*một bầu không khí tự do;
*các đối tác nên có một bản sắc tôn giáo rõ ràng và có uy tín trong cộng đồng tôn giáo của mình;
*những người tham gia nên được thuyết phục về giá trị của nó. Một số Kitô hữu, và có lẽ cả những tín đồ khác, coi đối thoại là hoạt động tốt thứ hai sau hoạt động khó khăn hơn là thuyết phục người khác cải đạo. Những người có những ý tưởng như vậy không có khả năng thúc đẩy hoặc thực hiện đối thoại liên tôn;
*cởi mở ở một số bình diện — hướng tới hành động của ân sủng Thiên Chúa để nhìn nhận và vui mừng trước những hoạt động của Thiên Chúa nơi những người thuộc các tôn giáo khác, và hướng tới những tín đồ khác trong sự sẵn sàng gạt bỏ những ý tưởng cố hữu, những định kiến và khái quát hóa đã ăn sâu;
*một thái độ yêu thương và tôn trọng, bao gồm sự sẵn lòng thích nghi với những khác biệt văn hóa, trình độ học vấn khác nhau và sự linh hoạt với những cách tiếp cận khác nhau.9
Một khía cạnh khác của sự phức tạp trong đối thoại liên tôn là việc lựa chọn sự khác biệt và coi trọng nó không phải lúc nào cũng dễ dàng. Bởi vì trong mỗi chúng ta đều có một cảm giác sợ hãi tiềm ẩn đối với "người khác".
Chúng ta luôn có xu hướng giản lược cái chưa biết thành cái đã biết, cái chưa biết thành cái quen thuộc, bóp méo hình ảnh của người khác, dù cố ý hay vô thức, theo một cách nào đó. 10
Chúng ta dễ bị cám dỗ diễn giải “người khác” theo cách hiểu của riêng mình. Mối quan hệ giữa các đối tác càng trở nên gần gũi, thì càng dễ bị lôi cuốn muốn nhấn mạnh những điểm tương đồng và làm dịu đi những điểm khác biệt — để mọi thứ phù hợp với thế giới quan niệm của chúng ta. Khi tiếp cận người khác, trước hết, người ta phải chấp nhận “người khác trong sự khác biệt của họ” và coi trọng sự khác biệt. Điều này đặc biệt đúng trong mối quan hệ Kitô giáo - Hồi giáo, nơi Áp-ra-ham, “cha chúng ta trong đức tin”, các tiên tri, các thiên thần như sứ giả của Chúa, ý nghĩa của Chúa Giêsu, Đức Maria, sự thăng thiên và tái lâm của Chúa Giêsu vào thời kỳ cuối cùng được xem là những điểm chung rộng rãi.
Tình hình đương thời trong mối quan hệ Kitô giáo - Hồi giáo
Những trường hợp quan hệ Kitô giáo - Hồi giáo tích cực không nhận được nhiều sự chú ý của truyền thông, ngay cả trên truyền thông Công Giáo. Việc liên tục đưa tin tiêu cực về người Hồi giáo tạo ra một dư luận thiên vị. Một số người kết luận rằng tất cả người Hồi giáo đều bạo lực; những người khác thắc mắc tại sao các tổ chức Hồi giáo không lên tiếng phản đối bạo lực và khủng bố; và những người khác lại tự hỏi liệu, hoặc có bao giờ, có mối quan hệ thân thiện giữa các Kitô hữu và người Hồi giáo hay không. Sự im lặng của giới truyền thông về "những câu chuyện tin tốt lành" dẫn đến những diễn giải sai lệch này.
Một cái nhìn tổng quan ngắn gọn và có thể nói là đa chiều về cách Kitô hữu và người Hồi giáo đang tương tác theo nhiều cách tích cực sẽ mang lại một bức tranh cân bằng hơn. Bài viết này chỉ giới hạn ở các hoạt động liên quan đến Giáo Hội Công Giáo trong khoảng năm năm trở lại đây ở bình diện đối thoại lãnh đạo và học thuật.11 Chỉ cần một vài minh họa là đủ. Cần lưu ý rằng cả hai tôn giáo đều đã có những sáng kiến trong các lĩnh vực này.
Giới Lãnh đạo: Vatican
Nhà nước Vatican thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên của một quốc gia trong quan hệ với các quốc gia khác: trao đổi Đại sứ; các chuyến thăm của Đức Gioan Phaolô II với tư cách là Nguyên thủ quốc gia; và tiếp đón các nhà lãnh đạo thế giới. Rất nhiều chuyến thăm của Đức Gioan Phaolô II liên quan đến các quốc gia Hồi giáo, và những dịp này, các cơ hội được tận dụng để thảo luận và khuyến khích sự phát triển trong đối thoại. Một ví dụ điển hình về điều này đã xảy ra trong dịp kỷ niệm 2000 năm ngày sinh của Chúa Kitô khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến thăm và cầu nguyện tại những địa điểm đặc biệt gắn liền với sự can thiệp của Thiên Chúa vào lịch sử. Đầu năm 2000, Đức Gioan Phaolô II đã gặp gỡ các nhà lãnh đạo chính phủ và tôn giáo tại Ai Cập, Jordan và Palestine.
Một số quốc gia có Đại sứ đặc biệt tại Tòa thánh, cư trú tại Rome. Bao gồm các quốc gia thuộc Tổ chức Hội nghị Hồi giáo: Ai Cập, Indonesia, Iran, Iraq, Kuwait, Lebanon, Libya, Maroc và Thổ Nhĩ Kỳ.
Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn (PCID) là Bộ (ban) chính thức của Vatican, chịu trách nhiệm về quan hệ giữa Giáo Hội Công Giáo và các tôn giáo khác. Trong số nhiều chức năng của Bộ, có hoạt động chung với các đối tác tại một số quốc gia Hồi giáo.
Có một Ủy ban Liên lạc Công Giáo Hồi giáo thường trực được thành lập vào năm 1995 giữa Hội đồng Giáo hoàng và bốn tổ chức Hồi giáo quốc tế: Liên đoàn Hồi giáo Thế giới; Đại hội Hồi giáo Thế giới; Ủy ban Hồi giáo Quốc tế về Da'wah và Cứu trợ Nhân đạo; và ISESCO (tương đương UNESCO của Hồi giáo). Vào tháng 4 năm 2002, Ủy ban Liên lạc đã ra Tuyên bố Chung kêu gọi hòa bình tại Đất Thánh:
Là những người tin vào Thiên Chúa Duy Nhất, chúng tôi, những người Kitô hữu và Hồi giáo (công nhận) rằng hòa bình là một món quà của Đấng Toàn năng,... kêu gọi cầu nguyện liên tục cho hòa bình và ủng hộ tất cả các sáng kiến theo hướng này.12
Trong cùng tháng đó, một Tuyên bố Ý định đã được soạn thảo giữa PCID và Văn phòng Chủ tịch Tôn giáo, Văn phòng Thủ tướng, Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. Hai bên đã đưa ra những cam kết bao gồm:
thúc đẩy sự hiểu biết đúng đắn về các tôn giáo và xóa bỏ những hiểu lầm và định kiến trong các vấn đề tôn giáo, đồng thời thúc đẩy đối thoại liên tôn dưới mọi hình thức, đặc biệt bằng cách tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc tiếp xúc giữa các tổ chức học thuật liên quan đến việc giảng dạy tôn giáo.13
Không chỉ ở bình diện lãnh đạo Công Giáo cao nhất mà các sáng kiến mới được thực hiện hoặc đáp ứng. Một cuộc họp đã được tổ chức vào tháng 4 năm 2003 tại Washington, do Tiểu ban Đối thoại Liên tôn của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ khởi xướng. Với tư cách là thành viên của Ủy ban đó, Đức Hồng Y William H. Keeler của Baltimore và Đức Hồng Y Theodore E. McCarrick của Washington đã có mặt. Imam Abdulaziz Sachedina, Giáo sư Nghiên cứu Tôn giáo tại Đại học Virginia, đã phát biểu tại cuộc họp, ghi nhận sự phát triển của đối thoại giữa các nhà lãnh đạo và học giả Hồi giáo và Kitô giáo, nhưng đặt câu hỏi: 'Khi đối thoại diễn ra ở bình diện chính thức, liệu nó có đến được với người dân không? Đây là nơi đối thoại cần phát huy tác dụng. Đây là nơi sự tôn trọng phải diễn ra'.
Đức Tổng Giám Mục Michael Fitzgerald, Chủ tịch PCID, người cũng tham dự cuộc họp, đã trả lời rằng ngài tin rằng kể từ cuộc chiến tranh Iraq và các cuộc tấn công khủng bố năm 2001, chính những nỗi sợ hãi và căng thẳng do đó gây ra đã 'đưa người Kitô giáo và người Hồi giáo xích lại gần nhau hơn bao giờ hết. Những cơ hội mới đã được tạo ra cho một cuộc đối thoại mang tính xây dựng giữa những người theo Kitô giáo và Hồi giáo'. 14
Giáo dục và Nền học giả
Trong lĩnh vực giáo dục, nhiều mối liên kết đã được thiết lập ở bình diện đại học giữa các định chế học thuật Công Giáo và Hồi giáo. Đại học Giáo hoàng Gregorian tại Rome đang đối thoại học thuật với Đại học Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ, qua đó tổ chức các hội thảo chung và trao đổi giáo sư thỉnh giảng. Viện Giáo hoàng về Nghiên cứu Ả Rập và Hồi giáo, cùng với Đại học Gregorian, liên kết với Đại học Zaitouna, Tunis, trong khi Viện Al-Azhar ở Cairo tổ chức các cuộc họp thường niên với Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn, nơi cả đối thoại học thuật và nói chung giữa Kitô giáo và Hồi giáo đều được xem xét.
Một cuộc họp như vậy đã được triệu tập tại Cairo vào tháng 10 năm 2001, vài tuần sau các cuộc tấn công khủng bố tại Hoa Kỳ bởi Diễn đàn Đối thoại Hồi giáo Quốc tế và Đại hội Hồi giáo Thế giới. Phái đoàn Vatican do Đức Giám Mục (nay là Tổng Giám mục) Michael Fitzgerald, lúc đó là Thư ký Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn, dẫn đầu, đã chúc mừng sáng kiến của người Hồi giáo khi đáp ứng nhu cầu của tất cả những người hiện diện về việc củng cố mối liên kết tinh thần gắn kết chúng ta, để chúng ta có thể cùng lên tiếng trong khả năng có thể.
Trong số những đề xuất khác được phái đoàn Công Giáo đưa ra tại cuộc họp, có lời kêu gọi các tôn giáo cùng chung tay phục vụ nhân loại. Mặc dù giáo dục là quan trọng, các hội nghị và cuộc họp là cần thiết, nhưng các chương trình hợp tác chung trong lĩnh vực cứu trợ cho người dân ở các khu vực chiến tranh và người tị nạn là rất quan trọng để chứng tỏ đối thoại trong hành động.
Đối thoại liên tôn hiện được công nhận là có một vị trí quan trọng trong giáo dục giới trẻ. Nó không chỉ dành cho những người có ý định tham gia vào hoạt động liên tôn theo bất cứ hình thức chính thức nào, mà còn dành cho tất cả những người mà sự nghiệp và những chuyến đi sẽ đưa họ đến với việc tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp với những người theo các tôn giáo khác.
Việc dẫn nhập chính thức về các tôn giáo trên thế giới thông qua sách vở và các lớp học là cần thiết và đang được thực hiện trong các trường học và đại học của chúng ta. Tuy nhiên, điều ngày càng trở nên rõ ràng là việc học này có xu hướng dừng lại ở mức độ khái niệm và không chạm đến yếu tố "con người" - con người sống theo tín ngưỡng này hay tín ngưỡng khác. Hy vọng thay đổi thái độ và nhận thức không gì thay thế được những cuộc gặp gỡ bản thân. Các giá trị đức tin sâu sắc của một người được truyền đạt thông qua tương tác xã hội, cùng nhau thực hiện các nhiệm vụ chung, chia sẻ những câu chuyện cười và trao đổi câu chuyện bản thân. Cơ hội gặp gỡ những người theo các tín ngưỡng khác nên trở thành một phần không thể thiếu của giáo dục tôn giáo nếu chúng ta muốn xây dựng một "nền văn hóa đối thoại".16
Những ví dụ về chuyện kết hợp việc học tại lớp với việc gặp gỡ bản thân đang ngày càng tăng thông qua các chương trình trao đổi sinh viên giữa các cơ sở giáo dục Hồi giáo và Công Giáo. Ví dụ, ba sinh viên cao học đến từ Li-băng, Thổ Nhĩ Kỳ và Tunisia gần đây đã tham gia các khóa học tại Đại học Angelicum, Đại học Gregorian, Đại học St. Thomas và Viện Giáo hoàng về Nghiên cứu Ả Rập và Hồi giáo tại Rome.17 Betul Avci đến từ Thổ Nhĩ Kỳ, sau khi hoàn thành chương trình Cử nhân, hiện đang theo học chương trình Tiến sĩ tại Đại học Gregorian. Sự hiểu biết của cô về đối thoại liên tôn đòi hỏi cô phải có cách tiếp cận học thuật đối với thần học và linh đạo Công Giáo, nhưng cũng phải bao gồm các mối quan hệ giữa con người với nhau giữa hai tôn giáo. Cô chia sẻ:
Tôi đã đến đây (Rome) để uống một tách cappuccino với một người bạn Công Giáo trong khi cố gắng trả lời câu hỏi của anh ấy: 'Betul, Chúa đang làm gì trong cuộc đời bạn?' Và tôi sẽ không bao giờ quên câu nói của anh ấy: 'Tôi sẽ không bao giờ biết rằng người Hồi giáo có một linh đạo như vậy nếu tôi không gặp bạn'.18
Hội thảo Mở Sedos tại Rome, vào tháng 5 năm 2003, có chủ đề "Lời kêu gọi hướng đến một tầm nhìn mới về tha nhân và chính mình thông qua Đối thoại Liên tôn: Tập trung vào Hồi giáo". Betul là một trong số những người đóng góp xuất sắc. Hai bài thuyết trình của bà có chủ đề “Cởi mở với Mầu nhiệm Thiên Chúa vượt quá bản thân chúng ta” và “Bản sắc riêng của người ta một cách sâu sắc hơn”. Trong phần sau, bà kết luận bằng những lời sau:
Được tiếp xúc với một nền văn hóa và đức tin mới, người ta tìm thấy bản sắc riêng của mình một cách sâu sắc hơn, nhưng hơn thế nữa, tôi đã có trải nghiệm tìm thấy Thiên Chúa trong sự hiện diện của người khác." 19
Bối cảnh Úc
Câu chuyện đầy đủ về mối quan hệ Kitô giáo - Hồi giáo ở Úc vẫn là một cuốn sách chưa được viết. Nghiên cứu sẽ phải mở rộng phạm vi địa lý của lục địa này và tính đến những đặc thù về sự đa dạng của các cộng đồng Kitô giáo và Hồi giáo trong tất cả sự phân mảnh của họ. Mối quan hệ giữa những người theo Kitô giáo và Hồi giáo có thể được nhìn nhận trên một phạm vi rộng, từ những người hàng xóm láng giềng đến các Hội nghị Kitô giáo - Hồi giáo Quốc tế. Bản sắc tín phái khác nhau của những người theo Kitô giáo và sự đa dạng của các nhóm Hồi giáo dựa trên sắc tộc cũng làm tăng thêm mối quan hệ này.
Mối quan hệ giữa Kitô giáo và Hồi giáo ở Úc đã có từ đầu thế kỷ 19. Trong Chương "Thống nhất hay Phân mảnh" trong các Cộng đồng Hồi giáo ở Úc, Shahram Akbarzadeh nhận thấy ba giai đoạn riêng biệt trong quá trình phát triển bản sắc Hồi giáo.20 Giai đoạn đầu tiên liên quan đến những người Hồi giáo cá nhân - tù nhân và những người định cư đầu tiên — những người gặp vô cùng khó khăn trong việc duy trì bản sắc tôn giáo của mình, và thường bị cô lập khỏi cả xã hội Úc lẫn quê hương gốc. Trên thực tế, không có cộng đồng Hồi giáo nào. Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ sự xuất hiện của những người chăn lạc đà Afghanistan và sự thành lập các cộng đồng Hồi giáo tại các thị trấn ‘Ghan’. Điều này đánh dấu sự chuyển dịch sang sự phát triển của một cộng đồng Hồi giáo lâu dài. Đền thờ Hồi giáo ‘Ghan’ được xây dựng vào năm 1889, một biểu tượng của bản sắc mới này. Tuy nhiên, số lượng rất nhỏ (3,908 vào năm 1911 và 2,704 vào năm 1947). 21 Điều này có những hàm ý xã hội ở chỗ có một nhu cầu cảm thấy phải đoàn kết lại, vượt qua những khác biệt về sắc tộc và nhấn mạnh những điểm chung của họ với tư cách là người Hồi giáo. Kết quả là người Hồi giáo được người Úc coi là một cộng đồng đa sắc tộc nhưng thống nhất.
Chúng ta hiện đang ở Giai đoạn ba, bắt đầu sau khi Chính sách Nước Úc Da Trắng bị bãi bỏ. Giai đoạn này được đặc trưng bởi sự gia tăng của các nhóm sắc tộc khác nhau. Các đền thờ Hồi giáo đã và đang đóng một vai trò xã hội quan trọng trong việc hỗ trợ những người di cư mới đến. Do đó, sự phát triển của các cộng đồng dân tộc và ảnh hưởng ngày càng tăng của Hồi giáo sắc tộc và tín phái trong cộng đồng người Hồi giáo ở Úc.22 Ngôn ngữ là rào cản đối với sự gắn kết, đối với sự phát triển lý tưởng của umma (cộng đồng tín đồ).
Mặc dù với người ngoài, tất cả các đền thờ Hồi giáo có thể trông giống nhau, và tất cả người Hồi giáo được coi là một "khối thống nhất" (trang 231), mặc dù công chúng Úc ủng hộ "cách đối xử chung chung với người Hồi giáo" (trang 232), thì sự đa dạng sắc tộc lại có ý nghĩa quan trọng đối với chính người Hồi giáo. Như Akbarzadeh viết, "nói về nhiều Cộng đồng Hồi giáo ở Úc hơn là một cộng đồng Hồi giáo duy nhất".23 Đây là một yếu tố quan trọng cần được xem xét khi tham gia vào quan hệ Hồi giáo-Kitô giáo.
Trong một nước Úc đa tín ngưỡng, mỗi tôn giáo đều cần có một tập chú tổ chức - một điểm tham chiếu để tương tác với chính phủ, phương tiện truyền thông và với nhau. Người Hồi giáo được tổ chức rất tốt về mặt này. Cơ quan quốc gia bao trùm là Liên đoàn Hội đồng Hồi giáo Úc (AFIC) và đúng như tên gọi của nó, bao gồm đại diện của các Hội đồng Tiểu bang tự trị. Ngoài ra còn có Mạng lưới Phụ nữ Hồi giáo Quốc gia điều phối các mạng lưới Tiểu bang.
Người Hồi giáo đang sử dụng nhiều cách khác nhau để chống lại hình ảnh rập khuôn về Hồi giáo và cách miêu tả tiêu cực của chúng. Từ những năm 1980, họ đã xuất bản các bản tin thường kỳ, các tờ báo như Australian Muslim News (Sydney), Australian Islamic Review (Adelaide), Crescent (Brisbane) cũng như sử dụng radio và truyền hình. Một thành viên mới đây trong cộng đồng Hồi giáo ngày càng đông đảo là Diễn đàn về các Mối quan hệ Hồi giáo của Úc (FAIR). Đây là một nhóm quan hệ công chúng độc lập, hoạt động từ cơ sở, với mục tiêu cụ thể là thúc đẩy mối quan hệ tích cực và hòa hợp giữa người Hồi giáo và cộng đồng rộng lớn hơn thông qua tương tác với truyền thông, chính phủ, các tôn giáo khác và giáo dục. Thông qua tờ báo Australia Fair, họ hy vọng sẽ thúc đẩy sự tham gia và đóng góp tích cực của người Hồi giáo Úc trong phạm vi rộng lớn hơn của xã hội Úc. (Thư giới thiệu, Kuranda Seyit, tháng 5 năm 2003). FAIR đã ra Thông cáo báo chí vào ngày 22 tháng 8 năm 2003 lên án các cuộc tấn công vào Liên Hợp Quốc và Giêrusalem.
Những gì đang diễn ra ở Úc giữa người Hồi giáo và Kitô giáo phần lớn ở bình diện 'đối thoại trong cuộc sống' và 'đối thoại trong hành động'. Ở các thành phố lớn, đặc biệt là Sydney và Melbourne, nơi đại đa số trong số khoảng 300,000 người Hồi giáo Úc sinh sống, các mối quan hệ được hình thành trong khu phố, nơi làm việc, các cơ sở giáo dục, sân thể thao và các cơ quan dân sự. Ở những nơi mọi người quen biết nhau trong những môi trường này, các mối quan hệ nhìn chung là tích cực. Ở những nơi vị trí địa lý khiến sự tiếp xúc giữa hai nhóm là tối thiểu, dù là ở các khu vực Hồi giáo tập trung đông đúc hay các khu vực không theo đạo Hồi tập trung, thì “nỗi sợ hãi điều chưa biết” thường xuất hiện. Điều này không có nghĩa là sự quen thuộc hàng ngày cũng không có vấn đề riêng, ví dụ như phản ứng tiêu cực của những người không theo đạo Hồi, những người cảm thấy vùng ngoại ô của họ đã bị tước đoạt.
Điều đặc biệt quan trọng là tác động của thảm kịch ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ lên mối quan hệ Kitô giáo-Hồi giáo nói chung và ở Úc. Có hai kết quả hoàn toàn trái ngược nhau. Một là sự phản đối mạnh mẽ đối với cộng đồng Hồi giáo. Như Abdullah Saeed nhận xét:
Người Hồi giáo trở thành mục tiêu của các mối đe dọa giết người, đánh bom, thư thù hận và tấn công thể lý.24
Mặt khác, ông thừa nhận rằng những biến cố như vậy chỉ liên quan đến một nhóm rất nhỏ ở Úc. Phần lớn đều đồng cảm với những mối quan hệ đang phải đối diện bởi người Hồi giáo Úc do liên kết. Các tổ chức cá nhân cũng như cộng đồng đã tích cực tổ chức các buổi nói chuyện, đưa ra quan điểm và viết bài để giải thích Hồi giáo là gì và tránh xa những kẻ khủng bố. Nhiều nhóm, bao gồm các nhà thờ Ki-tô giáo, nhà báo và nhà bình luận, đã lên tiếng bảo vệ người Hồi giáo. Quan điểm của Saeed là rất có thể sự hợp tác giữa người Hồi giáo và các thành phần khác trong cộng đồng sẽ tiếp tục, đặc biệt là khi 'người Hồi giáo ngày càng tham gia nhiều hơn vào các cuộc đối thoại liên tôn và liên văn hóa'.
Một kết quả rất tích cực của sự kiện 11 tháng 9 là động lực to lớn cho hoạt động liên tôn. Người Ki-tô giáo muốn hiểu về Hồi giáo. Những gì xảy ra ở New York chắc chắn không thể là một hành động tôn giáo. Ở một mức độ nào đó, với những định kiến và khuôn mẫu sâu sắc hơn, người Ki-tô hữu cảm nhận được sự thao túng tôn giáo cho những mục đích khác. Trong quá trình tìm kiếm sự hiểu biết về cộng đồng Hồi giáo thông qua các đền thờ Hồi giáo, các cơ quan quốc gia và tiểu bang, đã có rất nhiều yêu cầu và đề nghị diễn giả, khiến các hiệu sách không thể lấp đầy kệ sách - mọi người muốn đọc kinh Koran. Họ muốn lắng nghe người Hồi giáo chia sẻ hiểu biết của họ về đức tin.
Trung tâm Columban về Quan hệ Ki-tô giáo - Hồi giáo
Trung tâm Quan hệ Kitô giáo - Hồi giáo được thành lập tại Viện Truyền giáo Columban ở Bắc Turramurra vào năm 1997 nhằm thúc đẩy mối quan hệ giữa người Công Giáo và người Hồi giáo. Công việc của Trung tâm tập trung vào việc thiết lập mạng lưới với các cộng đồng và tổ chức Hồi giáo, đồng thời hỗ trợ người Công Giáo (và những người theo Kitô giáo khác) hiểu biết về Hồi giáo, về đối thoại liên tôn và sự cần thiết của nó trong bối cảnh đa tôn giáo ở Úc. Việc này chủ yếu được thực hiện thông qua các buổi nói chuyện với nhiều nhóm khác nhau, xuất bản các ấn phẩm định kỳ, bản tin, các chương trình cầu nối và một trang web. Bất cứ khi nào có thể, các bài thuyết trình đều được thực hiện bởi cả diễn giả Kitô giáo và Hồi giáo để minh họa cho mối quan hệ này. Mặc dù luôn có một dòng lời mời diễn giả ổn định, nhưng sau ngày 11 tháng 9 năm 2001, khối lượng công việc đã tăng gấp ba. Đột nhiên, với lượng khán giả đông đảo như vậy, Trung tâm cần phải tăng gấp đôi nhân viên. Mặc dù hoạt động chủ yếu ở khu vực Sydney, nhưng Trung tâm đã đáp ứng, mặc dù theo cách ít cụ thể hơn, nhu cầu thông tin và hợp tác ngày càng tăng từ các khu vực khác của Úc. Ví dụ, một cuộc họp đã được tổ chức tại Nhà thờ Hồi giáo Tây Melbourne giữa đại diện của tiểu nhóm thuộc Ủy ban Đại kết và Quan hệ Liên tôn của Tổng giáo phận, được gọi là Người Công Giáo Quan tâm đến Đối thoại Liên tôn (CHD), và đại diện của Hội đồng Hồi giáo Victoria (ICV). Mục đích của cuộc họp là tìm hiểu những cách thức mà người Công Giáo và người Hồi giáo có thể tham gia đối thoại một cách cụ thể hơn, đó là là "đối thoại hành động". Các dự án đã được đề xuất, bao gồm việc khai triển Tuyên bố Chung về Hòa bình giữa các nhà lãnh đạo Hồi giáo và Kitô giáo tại Melbourne và khả năng hợp tác giữa ICV và Hội Thánh Vincent de Paul tại các "cửa hàng tiện lợi" khác nhau quanh Melbourne để học cách tự vận hành các hoạt động tương tự. Cả hai đề xuất đều đã được theo đuổi.
Sự tham gia của phụ nữ
Một trong những điển hình cơ sở quan trọng nhất về quan hệ Kitô giáo-Hồi giáo ở Sydney là sự phát triển của các nhóm phụ nữ. Phụ nữ trong các cộng đồng Hồi giáo và Kitô giáo đã thành lập các tổ chức với mục tiêu đa văn hóa và liên tôn, đặc biệt là thúc đẩy đối thoại. Tôi xin đề cập đến hai trong số đó.
Đầu tiên là Mạng lưới Phụ nữ Hồi giáo Quốc gia Úc, với thành viên đa sắc tộc. Mạng lưới được thành lập một phần để giúp thu hẹp khoảng cách văn hóa giữa cộng đồng Hồi giáo và phi Hồi giáo. Một mục đích chính khác là giáo dục phụ nữ Hồi giáo về tôn giáo của họ: như Chủ tịch MWNNA, bà Aziza Abdel Halim đã nói, "để giáo dục phụ nữ về các quyền và nghĩa vụ của họ trong Hồi giáo như những hình thức khác biệt của các tập tục văn hóa mà họ đã được nuôi dưỡng". Do đó, Mạng lưới tổ chức các hội thảo thông tin và hội thảo chuyên đề để giáo dục người Hồi giáo và người không theo Hồi giáo về các vấn đề tôn giáo và văn hóa ảnh hưởng đến phụ nữ Hồi giáo Úc. Mạng lưới cũng cung cấp diễn giả về các vấn đề Hồi giáo, tư vấn giáo dục cho các trường học và cơ sở giáo dục Hồi giáo và không theo Hồi giáo. MWNNA ưu tiên đối thoại với các nhóm phụ nữ Kitô giáo, ví dụ như Mạng lưới Đối thoại Phụ nữ Công Giáo, để xem xét các vấn đề chung và nếu có thể, tham gia vào "đối thoại hành động".
Nhóm thứ hai cần đề cập là Quỹ Liên văn hóa Affinity, được thành lập năm 2001, đặc biệt nhằm phát triển các mối liên kết liên văn hóa và liên tôn với cộng đồng rộng lớn hơn. Quỹ có mối quan hệ chặt chẽ với Đền thờ Hồi giáo Auburn Gallipoli, nơi phục vụ một cộng đồng chủ yếu là người Thổ Nhĩ Kỳ. Nhóm Phụ nữ Affinity cam kết đối thoại liên tôn. Nhóm đã tiếp cận các nhóm phụ nữ Kitô giáo (và các nhóm khác), tổ chức các bữa tối và các sự kiện xã hội khác để kết nối những người phụ nữ có đức tin với nhau. Họ luôn được mời đến nói chuyện với nhiều tổ chức khác nhau, đặc biệt là các trường Công Giáo, nơi họ cảm thấy rất được chào đón.
Các hoạt động khác
Quỹ Liên văn hóa Affinity là đơn vị khởi xướng hai Hội nghị Đối thoại Quốc tế được tổ chức tại Sydney và Melbourne vào năm 2002 và 2003. Hội nghị đầu tiên về Đối thoại Kitô giáo - Hồi giáo; hội nghị thứ hai về "Abraham: Biểu tượng Hy vọng cho người Do Thái, Kitô giáo và Hồi giáo". Các diễn giả bao gồm các học giả trong nước cũng như khách mời quốc tế đến từ Thổ Nhĩ Kỳ, Đức, Hoa Kỳ và New Zealand. Những sáng kiến như vậy từ một nhóm tín ngưỡng nhỏ bé về số lượng cho thấy tầm quan trọng mà người Hồi giáo Úc đang đặt vào đối thoại.
Có rất nhiều sáng kiến Kitô giáo đang được triển khai. Các khóa học ở cấp độ học thuật về Hồi giáo và đối thoại liên tôn đang được cung cấp, ví dụ:
Một minh họa cuối cùng sẽ minh họa cho sự đa dạng trong cách thức thực hành Kitô giáo-Hồi giáo tại Úc. Giáo xứ Bridgewater, Hobart, đã áp dụng chế độ ăn chay theo kiểu Ramadan vào các ngày thứ Sáu của Mùa Chay. Linh mục Giáo xứ, Cha Michael Tate, cho biết ý tưởng này là thể hiện một cử chỉ đoàn kết và thúc đẩy sự hòa giải và hiểu biết giữa Kitô giáo và Hồi giáo. Ngài tiếp tục nói:
Ăn chay, cầu nguyện và bố thí tạo thành một bộ ba thực hành tôn giáo mà chúng ta cùng chia sẻ. Trong việc ăn chay giữa lúc mặt trời mọc và lặn vào các ngày Thứ Sáu Mùa Chay (năm 2002), người Công Giáo trong giáo xứ chúng tôi đã tìm thấy một mục đích mới nghiêm túc hơn trong một kỷ luật đã phần nào bị bỏ quên trong vài thập niên qua." 25
Quyết định ăn chay vào ngày cuối cùng của tháng Ramadan trước đó của Đức Giáo Hoàng đã khơi nguồn ý tưởng, và cộng đồng Hồi giáo địa phương đã nhiệt tình ủng hộ.
Kết luận
Người Kitô hữu Úc cần được khích lệ để mở mắt nhìn thấy những lợi ích của việc kết nối với người Hồi giáo. Có sự phong phú lẫn nhau từ góc độ tôn giáo, khi chúng ta nhìn nhận bản thân qua con mắt của người khác. Việc gặp gỡ niềm tin tôn giáo ở một người có đức tin khác có thể giúp chúng ta đánh giá tôn giáo của mình tốt hơn và diễn đạt rõ ràng hơn niềm tin và quy tắc ứng xử của mình. Trong quá trình đối thoại, chúng ta được thử thách để cởi mở đón nhận hành động của Thiên Chúa trong chính mình và người khác. Chúng ta bắt đầu ngưỡng mộ điều tốt lành, chân thật và cao quý trong một đức tin khác và ngợi khen Thiên Chúa vì điều đó. Sự hiểu biết phát triển giữa những người tham gia đối thoại gạt bỏ những định kiến và phán xét về người khác. Mọi người trở nên bớt hung hăng, cởi mở hơn. Họ bắt đầu nhìn thấy một số điểm yếu của chính mình và để sở hữu chúng. Khi điều này đến từ cả hai phía, nó sẽ dẫn đến những cử chỉ hòa giải và tăng cường sự hòa hợp trong cộng đồng. Cuối cùng, tấm gương của người Hồi giáo có thể giúp chúng ta, những người Ki-tô hữu, cởi mở hơn về đức tin của mình. Người Hồi giáo không ngại cầu nguyện vào những thời điểm nhất định, dù là trong một bữa tiệc hay giờ nghỉ giữa giờ họp. Có thể chúng ta không cần phải làm dấu thánh giá trong nhà hàng, nhưng chúng ta có thể chấp nhận thử thách mà các anh chị em Hồi giáo đặt ra cho chúng ta để biểu lộ đức tin của mình. Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết:
Các tôn giáo khác tạo nên một thách đố tích cực cho Giáo Hội: chúng thúc đẩy Giáo Hội khám phá và nhận biết những dấu chỉ về sự hiện diện của Chúa Kitô và hoạt động của Chúa Thánh Thần, cũng như đào sâu hơn về căn tính của chính mình và làm chứng cho sự trọn vẹn của Mặc Khải mà Giáo Hội đã đón nhận vì lợi ích của mọi người. 26
__________________________________
1.Được trích dẫn trong Thomas Michel SJ & Mons. Michael Fitzgerald M.Afr., Recognising the Spiritual Bonds that Unite us [Nhìn nhận mối dây nối kết thiêng liêng vốn đoàn kết chúng ta] Bản văn tiếng Anh] (Thành phố Vatican: PCID, 1994).
2.Philip Almond, ‘Modern Imaginings of Islam’ ‘Những tưởng tượng về Hồi giáo’, Tạp chí St Mark's 129 (2003/1): 25.
3. Michael Fitzgerald, Pro Dialogo 97 (1998/1): 99.
4. Almond, ‘Modem Imaginings of Islam’, 25.
5. Đức Hồng Y Francis Arinze, ‘Thế giới cần Đối thoại Liên tôn”, Encounter 270 (tháng 12 năm 2000).
6. Đức Hồng Y Francis Arinze, Gặp Gỡ Các Tín Hữu Khác (Gracewing, 1997), 1.
7. Arinze Gặp Gỡ Các Tín Hữu Khác, 5
8. Đức Hồng Y Francis Arinze, "Những Thực Tại Thực Tế Đòi Hỏi Đối Thoại Liên Tôn" Pro Dialogo 110 (2002/2): 196-199
9. xem Arinze, Gặp gỡ những tín hữu khác, 55-57.
10.Giuseppi Scattolin, 'Linh đạo trong Đối thoại Liên tôn: Thách thức và Hứa hẹn' Encounter 274 (tháng 4 năm 2001): 9.
11. Đối thoại Kitô giáo-Hồi giáo cũng là một ưu tiên hàng đầu của Hội đồng Thế giới các Giáo hội và song hành chặt chẽ với các sáng kiến của Giáo Hội Công Giáo.
12. Pro Dialogo 110 (2002/2): 192.
13. Ibid. 193
14. Catholic News Service (ngày 25 tháng 4 năm 2003).
15 Pro dialogo 109 (2002/1)
16. Thomas Michel, "Một loạt các phương pháp tiếp cận đối thoại liên tôn", Encounter 249 (1998).
17. Những sinh viên này đang nhận Học bổng Nostra Aetate [được đặt theo tên của văn kiện Công đồng Vatican II.]
18. Encounter 282 (Thánh Hai 2002) 6-7
19. Sedos Bulletin 38 (tháng 8 năm 2003): 114.
20. Abdullah Saeed & Shahram Akbarzadeh, biên tập, Cộng đồng Hồi giáo tại Úc (Kensington: UNSW Press, 200 1), 229.
21. Saeed & Akbarzaadeh, Cộng đồng Hồi giáo tại Úc, 230.
22. Ibid. 231
23. Ibid. 234
24. Abdullah Saeed, Hồi giáo tại Úc (St Leonards: Allen & Unwin, 2003), 191.
25. Pro Dialogo 112 (2003/1): 124.
26. Redemptoris Missio, số 56Các Tương quan Kitô giáo - Hồi giáo ở đầu thiên niên kỷ thứ ba trên thế giới và tại Úc Châu