Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh

Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước

Tiết Một: Ngũ Kinh [tiếp theo]


(5) Chương năm: Sách Dân Số



Conrad E. L’Heureux
The New Jerome Biblical Commentary, Student Edition, các tr. 80-81


Tài liệu Tham khảo

Budd, P. J., Numbers [Dân Số] (WBC 5; Waco, 1984).
Burns, R. J., Exodus, Leviticus, Numbers [Xuất Hành, Lêvi, Dân Số] (OTM 3; Wilmington, 1983).
Coats, G. W., Rebellion in the Wilderness [Nổi loạn trong Hoang địa] (Nash, 1968).
Fritz, V., Israel in der Wiiste (Marburg, 1970).
W. Harrelson, "Guidance in the Wilderness [Hướng dẫn trong hoang địa]," Int 13 (1959) 24-36.
Kellermann, D., Die Priesterschrift von Numeri [Việc viết sách Dân số của các tư tế] 1:1 đến 10:10 (Berlin, 1970).
Noth, M., Numbers: A Commentary (Dân số: một Bình luận] (OTL; London, 1968).
Snaith, N. H., Leviticus and Numbers [ (NCB; London, 1967).
Sturdy.j., Numbers (CBC; Cambridge, 1976). De Vaulx,]., Les Nombres [Dân số] (SB; Paris, 1972).

Dẫn Nhập

(I). Tựa Đề và Soạn Thảo

Tựa đề trong bản Phổ Thông là Numeri có nghĩa là các con số. Tựa này lấy theo Bản Bẩy Mươi arithmoi cũng có nghĩa là các con số. Các bản tiếng Việt đều dịch là Dân Số. Bản Bẩy Mươi dùng chữ đó chắc hẳn có ý nói tới các con số thống kê dân số trong các chương 1 và 26 cũng như các dữ kiện số học ở nhiều chỗ khác trong sách. Điều này có cái bất lợi là đã nhấn mạnh đến điều thực ra chỉ là một phần nhỏ của một công trình lớn gồm đủ trình thuật, thi ca và các vấn đề luật pháp. Tựa đề trong bản Hípri bĕmidbar có nghĩa là “ở trong hoang địa”, lấy các chữ đầu của sách và quả đã cho ta một cái nhìn tổng quát về nội dung của sách.

Các vấn đề về tác giả và lịch sử soạn thảo sách này cũng giống như đối với các sách khác của Ngũ Kinh. Riêng đối với Sách Dân Số, ta cần lưu ý điều này: truyền thống tư tế (P) đóng góp rất nhiều tư liệu ở đây, trong đó phải kể các chương 1:1-10:28; 15; 17-19; 26-31 và 33-36. Các tư liệu sớm hơn và không thuộc dòng P thì thấy tại các chương 10:29-12:16 và 21-24. Các chương còn lại thì gồm cả tư liệu P lẫn tư liệu trước đó.

Tuy nhiên, trong các phần thuộc dòng Tư Tế, người ta vẫn tìm thấy một số đoạn tương đối mới có sau này chứ không hẳn thuộc chính dòng P. Nhiều nhà phân tích đưa ra giả thuyết sau đây: công trình tư tế nền tảng (gọi là PG) sau đó đã tiếp nhận nhiều bổ túc (PS) trong lịch sử san định Ngũ Kinh. Tuy nhiên, cũng có giả thuyết cho rằng Dân Số, trong yếu tính, là công trình san định của một nhà san định thuộc dòng Tư Tế. Nhà san định này đã lên khuôn cho Sách Dân Số với ít nhiều tính độc lập hơn là các sách Ngũ Kinh khác. Các vấn đề này, hiện nay, không thể giải quyết ngay được. Ở đây, chúng tôi chỉ nhấn mạnh tới phần đóng góp mà phần đông các học giả đều nhất trí cho là của dòng văn tư tế.

Các dòng văn trước đó và không có tính tư tế được chia thành dòng văn J (Giavít) và E (Êlohít), dựa vào lối phê bình cổ điển về Ngũ Kinh. Tuy nhiên, trong Dân Số, sự phân biệt giữa J và E khá khó khăn. Trong các trước tác gần đây, người ta thấy có khuynh hướng muốn gán tất cả các tư liệu này cho dòng văn J. Hiện nay, thái độ khôn ngoan nhất là thận trọng đối với các vấn đề này.

(II). Tính lịch sử

Một cách chung, các nhà sử học đồng ý rằng việc trình bày sau cùng có tính qui điển về lịch sử Dân Do Thái như một cuộc hành trình của tất cả 12 chi tộc ra khỏi Ai Cập, băng qua sa mạc quanh vùng Biển Chết, để sau cùng từ hướng đông ồ ạt xâm lăng Ca-na-an chỉ là một sự giản lược vĩ đại các điều thực sự đã xẩy ra trên thực tế. Quan điểm chính xác của ta liên quan đến vấn đề Israel đã làm cách nào hiện hữu được tại vùng đất họ định cư phần lớn sẽ xác định ra quan điểm của ta về tính lịch sử của Sách Dân Số. Chắc chắn tác phẩm này, nhất là dòng P, quan tâm nhiều tới các vấn đề sau này thuộc thần học và tổ chức cộng đồng hơn là trình bày lịch sử khách quan. Giữa thế kỷ 20, có một khuynh hướng nơi các học giả, nhất là những người chịu ảnh hưởng của W. F. Albright, nghiêng nhiều hơn về tính lịch sử dựa vào các khám phá khảo cổ học hồi đó. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ 20, người ta tỏ ra hoài nghi nhiều hơn đối với sự yểm trợ của các khám phá khảo cổ ấy. Dù tất nhiên có những truyền thống cổ xưa được duy trì trong Dân Số, nhưng tất cả đều đã được san định lại cho các mục đích sau này khiến người ta phải hết sức thận trọng khi đưa ra bất cứ kết luận nào liên quan đến lịch sử tiền định cư mà chỉ biết dựa vào các dữ kiện trong sách này.

(III). Các ý niệm thần học

Một chức năng chủ yếu của Dân Số dưới hình thức tư tế sau cùng là công nhận giá trị trong các thực hành và tổ chức tôn giáo của Do Thái Giáo thời sau lưu đày bằng cách lui lại thời Mô-sê và thời lang thang trong sa mạc để tìm cho ra các qui chế thiết lập ra chúng. Như thế, có thể coi tác phẩm này như một sách hộ giáo có tính thần học nhằm hỗ trợ cho các điều dân tộc này tự nhận về mình lúc họ đã chiếm được sức mạnh vào thời phục hưng. Trên bình diện sâu hơn, Sách Dân Số cho thấy một xác tín có tính tư tế rằng: cái hồng phúc mà Thiên Chúa ban cho Dân của Người chính là sự kiện này: Người luôn cư ngụ bên cạnh họ trong tư cách Đấng Chí Thánh. Toàn bộ hệ thống phụng tự là hồng ơn của Thiên Chúa nhằm xin ơn xá tội cho nhân loại. Chỉ có phương tiện hòa giải theo nghi lễ này mới cho phép con người phàm tục sống gần gũi Thiên Chúa đang ở trong nhà tạm mà không bị tiêu diệt bởi quyền uy đáng kính đáng sợ của thánh thiện. Việc đóng trại của các chi tộc quanh lều nhà tạm trong hoang địa báo trước việc định cư trên mảnh đất sau cùng sẽ chiếm hữu được. Cái xu hướng năng động hướng về mảnh đất ấy đã tiêu biểu cho mục tiêu sau cùng của Israel và đó cũng là điều trọn bộ công trình P ở đây nhắm tới (xem W. Bruggemann, The Land, Phl 1977). Như thế, trình thuật về thời sống trong hoang địa đem lại một cơ hội để lên tài liệu cho kế hoạch của Thiên Chúa dành cho Dân của Người. Đồng thời, cả truyền thống tư tế lẫn các truyền thống trước đó đều sử dụng câu truyện của thời trong sa mạc như là cách để cung cấp các thí dụ điển hình cho thấy dân đã phạm tội và phản nghịch cùng Thiên Chúa và các đại diện của Người ra sao.

Có lẽ, giáo huấn tôn giáo lâu bền nhất của Dân Số là như thế này: ngay khi còn đang lữ hành, chưa tới quê hương, người ta vẫn có thể là Dân của Thiên Chúa rồi. Bất kể ta nghĩ tới hành trình cuộc đời của mỗi con người hướng tới cá nhân hóa (individuation) hay toàn diện tính (wholeness), hay nghĩ tới kinh nghiệm tập thể của một cộng đồng tín hữu, thì vị trí của Israel trong Dân Số cũng là vị trí của mọi tín hữu khắp nơi. Giải thoát khỏi ách nô lệ, họ lên đường hướng về mảnh đất hứa. Những gian khổ và trách nhiệm của tự do thường làm cho tín hữu có khuynh hướng chống lại chính bước tiến của mình và mơ ước tìm trở lại cái yên ổn của cảnh tôi đòi. Gương của Israel xưa có thể thúc đẩy họ trung thành tiếp tục tiến bước hướng về mảnh đất họ được kêu gọi bước tới.

(IV). Các nét chính

Các học giả buổi đầu thường cho Dân Số như một sưu tập gồm các phần rời rạc nhau không liên tục theo bất cứ một thứ tự hợp lý nào. Các bình luận gần đây, nhất là của P.J. Budd (Numbers, Waco 1984) và của J. De Vaulx (Les Nombres, Paris 1972), đã chứng minh rằng ta có thể thấy ra các nguyên tắc tổ chức nằm ở bên dưới. Tuy thế, việc đưa ra các nét chính không dễ dàng, đôi khi bị coi chỉ là tùy tiện.

(6) Chương sáu: Sách Đệ Nhị Luật



Joseph Blenkinsopp
The New Jerome Biblical Commentary, Student Edition, các tr.94-95.


Tài liệu Tham khảo

Khảo sát chung:

Eissfeldt, EOTI I 71-82, 219-33.
Weiser, OT/FD 125-35.

Các bình luận xưa hơn:

Bertholet, A., Deuteronomium [Đệ nhị luật] (KHAT; Tubingen, 1899).
Driver, S. R., Deuteronomy [Đệ nhị luật] (ICC; Edinburgh, 1903).
Steuernagel, C., Das Deuteronomium (HAT; Gottingen,1923).

Các bình luận gần đây:

Craigie, P. C., The Book of Deuteronomy (NICOT; GR, 1976).
Mayes, A. D. H., Deuteronomy (NCB; London, 1979).
Phillips, A., Deuteronomy (CBC; Cambridge, 1973).
Von Rad, G., Deuteronomy (OTL; Phi, 1966).
Wright, G. E., " Deuteronomy" lB 2. 311-57.

Các nghiên cứu đáng kể gần đây:

Alt, A., "Die Heimat des Deuteronomiums [ngôi nhà của Đệ nhị luật]," KIS 2. 250-75; ''The Origins of Israelite Law [Nguồn gốc của Luật Israel]," AEOT81-132.
Baltzer, K., The Covenant Formulary [Tập công thức Giao ước] (Phi, 1971).
Blenkinsopp,J., Prophecy and Canon [Nói tiên tri và Quy điển] (Notre Dame, 1977) 24-53.
Braulik, G., Testament des Mose. Das Buch Deuteronomium [Di ước của Mô-sê. Sách Đệ nhị luật] (Stuttgart, 1976).
Carmichael, C. M., The Laws of Deuteronomy [lề luật của Đệ nhị luật] (Ithaca,1974).
Clements, R. E., "Deuteronomy and the Jerusalem Cult Tradition [Đệ nhị luật và truyền thống phụng tự Giêrusalem]," VT 15 (1965) 300-12.
Le Deaut, R., Deuteronome: Targum du Pentateuque 4 [Đệ nhị luật: Giải thích Ngũ kinh 4] (Paris, 1980).
Levenson, J., " Who inserted the book of the Torah [Ai đã chèn sách Tôra]?" HTR 68 (1975) 203-33.
Lindars, B., "Torah in Deuteronomy," Words and Meanings [Tôra trong Đệ nhị luật, Lời lẽ và Ý nghĩa] (biên tập. P. R. Ackroyd và B. Lindars; Cambridge, 1968) 117-36.
Lohfink, N., Das Hauptgebot [điều răn chính] (AnBib 20; Rome, 1963); "Deuteronomy," IDBSup 229-32.
McCarthy, D. J., Treaty and Covenant [Hiệp ước và giao ước] (AnBib 21 A; ấn bản lần thứ 2; Rome, 1978); Old Testament Covenant [giao ước trong Cựu ước]
(Oxford, 1972).
Mayes, A. D. H., The Story of Israel between Settlement and Exile [Sử Israel giữa việc Định cư và Lưu đầy] (GR, 1983).
Mendenhall, G. E., "Covenant Forms in Israelite Traditions [Các Hình thức Giao ước trong Các Truyền thống Do Thái]," BA 17 (1954) 49-76.
Minette de Tillesse, G., "Sections 'tu' et section 'vous ' dans le Deureronome [Các phần ‘ngươi’ và ‘các ngươi’ trong Đệ nhị luật]," VT 12 (1962) 29-87.
Nicholson, E. W., Deuteronomy and Tradition [Đệ nhị luật và Truyền thống] (Oxford, 1967).
Noth, M., The Deuteronomistic History [Lịch sử Đệ nhị luật] OSOTSup 15; Sheffield, 1981); A History of Pentateuchal Traditions [Lịch sử Các truyền thống đệ nhị luật] (EC, 1972).
Perlitt, L., Bundestheologie im Alten Testament [Thần học giao ước trong Cựu Ước] (WM ANT 36; Berlin, 1969).
Phillips, A., Ancient Israel's Criminal Law [Luật Hình sự của Israel Ngày xưa] (Oxford, 1970).
Polzin, R., Moses and the Deuteronomist [Môsê và nhà Đệ nhị luật] (NY, 1980).
Seitz, G., Redaktionsgeschichtfiche Studien zum Deuteronomium [Nghiên cứu Lịch sử Biên tập Đệ nhị luật](BWANT 93; Stuttgart, 1971).
Von Rad, G., Studies in Deuteronomy [Nghiên cứu về Đệ nhị luật] (London, 1953).
Wevers, J. W., Text History of the Greek Deuteronomy [Lịch sử bản văn Đệ nhị luật Hy Lạp] (Gottingen, 1978).
Weinfeld, M., Deuteronomy and the Deuterononic School [Đệ nhị luật và Trường phái Đệ nhị luật](Oxford, 1972).
Wurthwein, E., “Die Josianische Reform und das Deuteronomium [Cải cách Giô-si-gia vè Đệ nhị luật],” ZTK 73 (1976) 395-423.

Dẫn Nhập

(I). Tựa đề, vị trí trong qui điển

Đệ Nhị Luật là sách thứ năm và là sách cuối cùng của Ngũ Kinh. Tựa Latinh Deuteronomium là do tựa Hy Ngữ Deuteronomion của Bản Bẩy Mươi, có nghĩa là “luật thứ hai” căn cứ vào câu 17:18 của Bản này trong khi Bản Hípri thì ghi câu này là “nhà vua phải viết cho mình một bản sao của luật” (Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ và Cha Nguyễn Thế Thuấn đều dịch cùng một ý này). Tuy thế, tựa đề ở đây không hoàn toàn bất thích đáng vì luật của Thứ Luật quả có ý thay thế cho điều gọi là Luật Giao Ước (Xh 20:23-23:19). Trong truyền thống Do Thái, tựa đề là dĕbārîm có nghĩa là “lời” lấy từ chữ đầu của sách. Sách được gán cho Mô-sê, dù trình thuật về cái chết của ông ở chương cuối là do một người khác viết (Babylonian Talmud, Baba Batra 14b-15a).

Trước thời Rôma, bộ Tôra năm cuốn, với Đệ Nhị Luật được coi như đứng riêng, không được chứng nhận (Josephus, Against Apion 1.37-41). Dù có sự liên tục với Dân Số vì các chương cuối của sách sau cũng chứa các lề luật ban hành “tại cánh đồng Mô-áp” (Ds 36:13), nhưng cũng có dấu chỉ cho thấy một luật thứ hai (thứ luật) với đủ cả lời mở đầu và lời kết thúc, được coi như một bản văn đứng riêng, có thế giá, và được dùng công khai mà người ta không được sửa đổi (4:2; 13:1), phải đem ra giảng dạy (6:7), phải công bố cho mọi người (31:9-13, 24-26), và được ấn hành dưới sự chăm lo của nhà vua (17:18). Đàng khác, chính Thứ Luật đã là sách đầu tiên nói một cách nhất quán không phải về các luật mà về Lề Luật (xem B. Lindars, “Torah in Deuteronomy” Words and Meanings, Cambridge, 1968, 117-136) và chính Lề Luật này đã được nhắc tới trong các sách lịch sử (như 2Vua 14:6 khi trích dẫn Đnl 24:16). Bởi thế, việc xuất hiện một sách luật đã đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong việc hình thành qui điển.

Vào một thời điểm nào đó trong thời hậu lưu đày, cuốn sách này đã được nhập vào trình thuật P nhờ niên biểu tại câu 1:3, một kiểu niên biểu không có ở nơi khác trong sách nhưng rất quen thuộc với truyền thống P (nhất là Ds 33:38, khi nói tới cái chết của A-a-ron), và trình thuật về cái chết của Mô-sê tiếp theo việc trao nhiệm vụ cho Giô-suê (32:48-52; 34:1, 7-9). Khi so sánh với Ds 27:12-23, một trình thuật P song song trước đó, người ta thấy cái chết của Mô-sê đã được chuyển về vị trí hiện nay sau khi Đệ Nhị Luật đã được cho vào cơ cấu trình thuật. Bằng cách đó, toàn bộ Ngũ Kinh đã hoàn chỉnh với cái chết của Mô-sê và do đó, lịch sử các biến cố lập quốc đã bị giới hạn tới thời kỳ chiếm đất, nhưng loại bỏ chính việc chiếm đất ấy.

(II) Việc thành hình ra Đệ Nhị Luật

Dù hầu hết các học giả đều nhận rằng Đệ Nhị Luật đạt tới hình thức hiện nay là do một diễn trình hình thành rất dài, hiện vẫn chưa có nhất trí về việc giải thích các tiêu chuẩn nội tại (từ vựng, văn phong, chủ đề) mà lịch sử hình thành kia dựa vào. Chủ trương của G. Von Rad (The Problem of Hexateuch and Other Essays 33-40) cho rằng hình thức của sách phản ảnh nghi lễ giao ước tại đền thờ chi tộc tại Si-khem chỉ có giá trị gợi ý nhưng nói chung lầm lẫn, và dù sao, vẫn không giải thích được nhiều điều. Cũng có tính gợi ý như thế là chủ trương cho rằng đây là một loại suy từ lối ký hiệp ước quốc tế (G.E. Mendenhall, “Covenant Forms" trong Israelite Traditions, Biblical Archaeologist 17 [1954] 49-76; D.J. McCarthy, Old Testament Covenant…) nhất là khi giới hạn vào các hiệp ước kiểu Assyria ký với chư hầu và những nét đặc thù trong Đnl (như lời chúc dữ tại chương 28); nhưng cả chủ trương này cũng thiếu sót, không thể coi là một giải thích toàn diện. Các song đối về ngữ học và chủ đề với truyền thống D, được soạn thảo sau năm 560 trong hình thức cuối cùng của nó, cho thấy thời đó chính là giai đoạn dứt khoát trong đó sách được san định lần cuối. Nhiều người đồng ý rằng trọn các chương 1-4, 27, và 29-30 đã được thêm vào trong khoảng thời gian trên với việc nới rộng các tư liệu luật pháp tại các chương 12-26. Trong khi tóm tắt lại và lên khuôn lại các chủ đề trong truyền thống trình thuật trước đó, phần mở đầu có tính lịch tại các chương 1-3 vẫn có thể được coi như là một phần của công trình lớn thuộc thời lưu đày và Đệ Nhị Luật, kể cả một trình thuật về các biến cố lập quốc thuộc thời Mô-sê, một sưu tập các luật lệ đã được cập nhật hóa, một lịch sử về các vương quốc và một sưu tập các tư liệu tiên tri đã được san định. Hiện nay nhiều người cũng nhìn nhận rằng các chỉ dẫn về một bản thảo lịch sử đầu tiên vào cuối thời Giu-đa đã củng cố giả thuyết cho rằng vào thời gian này, đã có một giai đoạn san định các tài liệu có trước, gồm chủ yếu các chương 5-11 và 28 như một cái khung cho luật lệ.

Điểm then chốt trong các nghiên cứu về Ngũ Kinh vẫn là niềm tin, có từ thời Wilhelm de Wette đầu thế kỷ 19, cho rằng sách luật được tìm thấy trong lúc tu sửa Đền Thờ dưới thời Giô-si-gia (khoảng năm 621 TCN) chính là ấn bản có trước của Đệ Nhị Luật (2V 22:3-10). Dù một số nét trong sách có hỗ trợ nguồn gốc hay ít nhất việc công bố Đệ Nhị Luật vào thời gian này (như triết lý sống có tính duy quốc gia phát biểu trong các luật lệ về việc chiến tranh và đặc tính địa phương nơi các định chế then chốt như quân chủ và tiên tri), Giô-si-gia vẫn không phải là người đầu tiên đưa ra cố gắng trung ương hóa việc phụng tự (xem 2V 18:4, 22) và đây cũng không phải là lần đầu tiên Đền Thờ được tu sửa (xem 2V 12:4-16). Cũng có thể, câu truyện tu sửa Đền Thờ và việc khám phá ra sách luật chỉ là một soạn tác tự do của những người thuộc trường phái Đệ Nhị Luật để giải thích sự bất trung tôn giáo của hai triều đại trước và lòng nhiệt thành tôn giáo ngược hẳn lại của Giô-si-gia. Dù sao, rất hợp lý khi lần giở lại nguồn gốc của sách trong phong trào canh tân tôn giáo, trong đó có cả việc giải phóng chính trị nữa, một điều lác đác vẫn xẩy ra trong suốt lịch sử Giu-đa, một phong trào hẳn đã nhận được thúc đẩy và động viên mới mẻ từ việc hủy diệt vương quốc phía bắc.

Dù việc rao giảng và tạo thành các lề luật trong Đnl chịu ảnh hưởng nhiều nơi các tiên tri ở cả hai vương quốc, nhưng giả thuyết cho rằng các tiên tri là tác giả của sách thì khó có giá trị. Giả thuyết hay hơn có thể là của G. von Rad (Deuteronomy, Phl 1966). Giả thuyết này cho rằng tác giả là các tư tế Lê-vi không cơ hữu của Đền Thờ Giêrusalem. Tuy nhiên, ta biết rất ít về các chức năng của họ dưới chế độ quân chủ, nên chỉ dám coi giả thuyết này như một chuyện có thể mà thôi. Việc cho rằng các tư liệu luật lệ là do các luật sĩ soạn thảo (căn cứ vào lời chỉ trích công việc họ làm tại Gr 8:8-9) xem ra có thể đúng (xem M. Weinfeld, Deuteronomy), nhưng chức năng này khó có thể coi là làm tác giả được. Tóm lại, ta không có đủ dữ liệu để trả lời cách chắc chắn cho câu hỏi này.

(III) Thần học của Đệ Nhị Luật

Bản chất phức hợp của sách buộc ta phải đi tìm vết tích sự khai triển các ý niệm trong nó. Ở đây, điều ta có thể làm được là chỉ ra một số ý tưởng chủ đạo. Trước nhất, Đnl là một sách luật, một điểm thường hay bị các học giả Kitô Giáo làm ngơ. Quan tâm dùng luật để điều hòa cuộc sống, đặc điểm chính của Do Thái Giáo, vẫn được coi hệ ở việc thích ứng một truyền thống luật lệ xưa vào các hoàn cảnh mới (thí dụ, các thay đổi liên quan đến việc quản lý nô lệ). Luật trong truyền thống D đã tóm tắt lại sứ điệp của các tiên tri vĩ đại (như “công bình, ngươi chỉ nên theo đuổi đức công bình mà thôi”, 16:20). Ở một vài khía cạnh, nó được coi như một chương trình không tưởng vì nó mạnh mẽ đứng về phía giai cấp thua thiệt như quả phụ, cô nhi, và khách trú. Mục tiêu của luật là phác họa ra một bình diện thực hành luân lý xứng hợp với việc Thiên Chúa tự mặc khải mình ra và ơn gọi cao cả của Israel (như các câu 4:32-40). Dù giao ước chắc chắn có lui trở lại với các ý niệm và biến cố xưa, nhưng việc biên soạn nó một cách vững ổn thì lần đầu chỉ có trong Đệ Nhị Luật. Dù liên kết chặt chẽ với giao ước Khô-rép [Xi-nai] (đặc biệt xem các chương 1-3), giao ước tại Mô-áp vẫn cùng một lúc là giao ước mới (xem câu 28:69), phù hợp với nhu cầu của hoàn cảnh mới (xem Gr 31:31-34). Một trong các hậu quả quan trọng nhất của giao ước này là sự liên kết giữa dân và lãnh thổ, một khía cạnh thường hằng trong ý thức Do Thái mà Kitô hữu thường đánh giá không đúng mức. Israel là dân thánh (xem 7:6; 14:2) từng biểu lộ lòng trung thành của mình với Thiên Chúa trong công thức Shema: “Hỡi Israel, hãy lắng nghe” (6:4-9). Để đơn giản hóa, sứ điệp của Đệ Nhị Luật có thể tóm lược như sau: một Thiên Chúa, một dân, một đền thánh. Bởi thế, người ta hiểu được rằng cuốn sách có tính thần học nhất của Cựu Ước này đã gây nhiều ảnh hưởng mạnh mẽ đối với cả Do Thái Giáo lẫn Kitô Giáo.