Đức Hồng Y Fernando Filoni cử hành Thánh lễ trên bờ Hồ Tiberias vào ngày 17 tháng 8 năm 2025. © Dòng Mộ Thánh, do i.Media cung cấp


Tạp chí Aleteia, ngày 03/10/25, công bố cuộc phỏng vấn ĐHY Filoni về tình hình Ki-tô hữu Trung Đông:

Sau chuyến thăm Đất Thánh gần đây, Đức Hồng Y Filoni đã nói về tình hình khó khăn của các Kitô hữu trong khu vực và nhu cầu hòa bình.

Đức Hồng Y Fernando Filoni, Tổng Lãnh Đạo của Dòng Mộ Thánh Jerusalem, vừa trở về từ Đất Thánh. Dòng này là một tổ chức từ thiện hoạt động thông qua Tòa Thượng Phụ Latinh để hỗ trợ các Kitô hữu và các tổ chức trong khu vực.

Đức Hồng Y đã trao đổi với tạp chí Aleteia để thảo luận về việc hỗ trợ sự hiện diện của Kitô giáo tại khu vực này, vốn bị chia rẽ bởi cuộc xung đột Israel-Palestine và cuộc chiến đã diễn ra ở Dải Gaza gần hai năm qua.

Ngày 7 tháng 10 năm 2025 sẽ đánh dấu kỷ niệm hai năm vụ tấn công của Hamas khiến hơn một nghìn người thiệt mạng tại Israel. Cuộc tấn công quy mô lớn của Israel sau đó đã giết chết hàng chục nghìn người tại vùng đất Palestine.

Dòng Mộ Thánh, được Đức Piô IX thành lập vào giữa thế kỷ 19, không gửi viện trợ trực tiếp. Thay vào đó, dòng luôn hoạt động thông qua Tòa Thượng phụ Latinh Jerusalem, cơ quan đối thoại trực tiếp của Nhà nước Israel và Chính quyền Palestine, cũng như của tất cả các tổ chức địa phương và quốc tế.

Sự hỗ trợ của dòng là thiết yếu cho sự tồn tại của các trường học, bệnh viện và nhiều cơ sở Kitô giáo khác nhau tại Đất Thánh. Điều này bao gồm cả Dải Gaza, nơi giáo xứ duy nhất hỗ trợ cho người Công Giáo cũng như các gia đình Chính thống giáo và Hồi giáo.

Đối diện với khủng hoảng tài chính

Gần hai năm sau khi chiến tranh Gaza nổ ra, các cộng đồng Kitô giáo tại Đất Thánh đang đối phó như thế nào? Họ có những nguồn lực gì?

Đức Hồng Y Fernando Filoni: Tôi nghĩ rằng bất cứ ai đến thăm Đất Thánh hôm nay sẽ nhận thấy sự khác biệt so với những chuyến đi trước. Các vương cung thánh đường trống rỗng; Dòng người hành hương không còn như trước nữa.

Nhiều Kitô hữu địa phương, và cả những người không theo Kitô giáo, kiếm sống bằng các hoạt động liên quan đến hành hương: bán đồ lưu niệm và đồ vật thánh thiêng, vận chuyển, phục vụ ăn uống, v.v. Về mặt kinh tế, cuộc khủng hoảng này đang ảnh hưởng nặng nề đến các gia đình Kitô hữu và cộng đồng tôn giáo. Họ vẫn có chi phí, nhưng lại thiếu thu nhập.

Nhưng vấn đề không chỉ nằm ở kinh tế và hành chính. Việc chứng kiến tất cả những nhà thờ trống rỗng này đặt ra một vấn đề tâm linh. Tuy nhiên, tôi phải nói rằng đối với một số ít người hành hương dám đến, đây có thể là cơ hội để trải nghiệm những khoảnh khắc tâm linh tuyệt vời, trong một bầu không khí tĩnh lặng hơn nhiều so với trước đây. Sự tĩnh lặng mang đến cơ hội để suy gẫm sâu sắc. Điều này cho thấy những điều tốt đẹp có thể xuất hiện từ những hoàn cảnh khó khăn.

Tuy nhiên, cộng đồng của chúng ta vẫn đang gặp rất nhiều khó khăn, với một cuộc khủng hoảng niềm tin về tương lai của họ. Trong chuyến thăm gần đây nhất, khi nói chuyện với các linh mục địa phương và các nhà lãnh đạo tôn giáo, tôi thấy rằng sự tồn tại của các gia đình thường phụ thuộc vào các phiếu mua hàng do Tòa Thượng phụ Latinh cung cấp để chi trả cho các nhu yếu phẩm thiết yếu.

Điều này có nghĩa là cộng đồng Kitô giáo trên toàn thế giới, thông qua sự hỗ trợ của Tòa Thượng phụ, đang hỗ trợ sự hiện diện của những gia đình này.

Chiến tranh không bao giờ mang lại giải pháp

Vì vậy, sự hỗ trợ này dành cho các cộng đồng Kitô giáo tại Đất Thánh vẫn là một công cụ quý giá để bảo vệ triển vọng hòa bình trong tương lai, ngay cả khi điều đó dường như ngoài tầm với trong ngắn hạn?

Đức Hồng Y Filoni: Tin tức chúng tôi nhận được rất đáng quan tâm. Chiến tranh khơi dậy cảm xúc, nhưng nó không bao giờ mang lại giải pháp. Ngọn lửa hận thù phải được dập tắt. Lời dạy mà Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta luôn là hy vọng chống lại mọi hy vọng. Cả Đức Giáo Hoàng Leo và Đức Giáo Hoàng Phanxicô đều liên tục kêu gọi hòa bình, và chúng tôi ủng hộ tầm nhìn này.

Giáo hội tin rằng Israel có quyền tồn tại và sống trong hòa bình, cũng như người dân Palestine có mọi quyền được sống trong hòa bình trên đất của họ. Những thực tế này không được phép đối đầu hoặc loại trừ lẫn nhau: chúng phải được phối hợp.

Mọi hình thức bạo lực đều không thể chấp nhận được. Không có mạng sống nào quan trọng hơn mạng sống nào. Do đó, chúng tôi tin rằng đối thoại phải được nối lại, nhưng dường như không phải ai cũng mong muốn điều này.

Liệu việc một số lượng lớn các nước phương Tây công nhận Nhà nước Palestine có phải là một cơ hội tích cực cho việc nối lại đối thoại?

Đức Hồng Y Filoni: Mỗi quốc gia đánh giá tình hình theo tầm nhìn chính trị riêng của mình, và tôi không có thẩm quyền bình luận về điều này. Nhưng ngoài điều đó ra, sự công nhận trước hết phải đến từ hai bên trên thực địa. Tôi e rằng việc công nhận mà không thành hiện thực ở bình diện này sẽ không giúp ích cho đối thoại hoặc dẫn đến hòa bình. Trong trường hợp đó, tôi nghi ngờ rằng nó sẽ được cả hai bên đón nhận.

Sự hiện diện của Kitô giáo đang suy giảm

Ngài có cảm thấy tình yêu dành cho đất nước của các cộng đồng Kitô giáo ở Đất Thánh vẫn còn, hay việc di cư vẫn là một cám dỗ mạnh mẽ, đặc biệt là đối với giới trẻ?

Đức Hồng Y Filoni: Thực tế, vấn đề này không chỉ liên quan đến Đất Thánh mà còn đến toàn bộ Trung Đông. Kể từ khi Đế quốc Ottoman sụp đổ, hàng triệu Kitô hữu đã rời khỏi khu vực này. Họ từng chiếm từ 20% đến 22% dân số khu vực, so với 1 hoặc 2% ngày nay…

Điều gì đã dẫn đến tình trạng này? Trước hết, chúng ta phải nhớ lại bạo lực đã gây ra đối với người Armenia, người Hy Lạp, người Chaldean... Vào ngày 19 tháng 10, Đức Giáo Hoàng Leo XIV sẽ phong thánh cho Đức Tổng Giám Mục Ignatius Maloyan, một trong những nạn nhân của thảm kịch diệt chủng người Armenia.

Nhưng vấn đề không chỉ là chiến tranh. Vấn đề còn đến từ các quốc gia, từ luật pháp của đất nước. Nếu họ ban hành những luật lệ phân biệt đối xử khiến người Kitô hữu trở thành công dân hạng hai, nếu họ viết rằng luật pháp được điều chỉnh bởi luật Sharia chứ không phải bởi các quyền cơ bản của con người, thì làm sao người Kitô hữu có thể cảm thấy được bảo vệ bởi những luật lệ này?

Điều này còn phụ thuộc vào cộng đồng quốc tế, vốn không phải lúc nào cũng tạo ra một môi trường thuận lợi. Có quyền di cư, nhưng cũng có quyền ở lại trên đất của mình.

Trong một thế kỷ, chúng ta đã chứng kiến một kiểu chảy máu liên tục. Những Giáo hội cổ xưa này, với nền văn hóa và ngôn ngữ riêng, đã cống hiến rất nhiều cho thế giới, không thể bị lãng quên. Một số Giáo hội sử dụng ngôn ngữ của Chúa Giêsu trong các nghi lễ phụng vụ, nhưng chúng ta biết rằng những người di cư sẽ mất đi quyền sử dụng ngôn ngữ đó.

Khi một gia đình có con cái và chúng không có tương lai, câu hỏi đặt ra là liệu có nên nói hay không. Một số gia đình đã đích thân hỏi tôi sẽ làm gì nếu tôi có con và sống ở đó... Tôi luôn nhận thấy sự gắn bó với đất đai, dù là ở Iraq, Syria, Lebanon hay Đất Thánh. Gia đình chúng tôi yêu Đất Thánh, nhưng chúng tôi phải giúp họ thực sự sống ở đó.

"Đừng sợ"

Ở bình diện tâm linh, ngài nhìn nhận tương lai của Đất Thánh như thế nào?

Đức Hồng Y Filoni: Đây thực sự là một khía cạnh cơ bản. Trong chuyến đi gần đây đến Đất Thánh, tôi đã suy nghĩ rất nhiều về lời Chúa Giêsu nói với các tông đồ: "Hỡi đàn chiên nhỏ bé, đừng sợ!" Điều đó có nghĩa gì ngày nay? Nếu nhìn vào lịch sử của khu vực, cộng đồng Kitô giáo nhỏ bé kể từ thời Chúa Giêsu vẫn luôn là một thiểu số, thường xuyên bị bách hại và phân biệt đối xử: đôi khi bởi người Do Thái, đôi khi bởi người La Mã, và sau đó là bởi các thế lực khác nhau đã thực thi quyền lực của họ đối với khu vực.

Cho đến ngày nay, Kitô hữu vẫn luôn là một đàn chiên nhỏ bé. Những nỗ lực biến họ thành một đàn chiên lớn, chẳng hạn như trong các cuộc Thập tự chinh, luôn thất bại. Nhưng Chúa Giêsu mời gọi đàn chiên nhỏ bé, những người vẫn vun đắp tình yêu dành cho Đất Thánh ngày nay, đừng nản lòng, ngay cả khi họ cảm thấy như một chiếc bình đất sét đối diện với một chiếc bình sắt.

Tầm nhìn Kitô giáo không phải là chinh phục quyền lực mà là bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Chúng tôi không yêu cầu luật lệ cụ thể hay sự công nhận đặc biệt, mà chỉ đơn giản là sự đảm bảo rằng Kitô hữu có thể sống cùng với người dân Israel. Chúng tôi chia sẻ nguồn gốc chung với họ, và họ là "những người anh cả" của chúng tôi, như Đức Benedict XVI vẫn thường nói.

Và chúng tôi cũng muốn Kitô hữu có thể sống chung với người Palestine, đặc biệt là vì nhiều người trong số họ cũng là người Palestine. Có thể chung sống hòa bình với thế giới Hồi giáo, khi tôn trọng sự đa dạng.

Do đó, tầm nhìn của Kitô giáo không phải là một đa số áp đảo một nhóm khác, mà đơn giản là một cộng đồng nhỏ đóng góp cho lợi ích của tất cả: Kitô hữu, Do Thái giáo và Hồi giáo. Vấn đề không phải là cạnh tranh với bất cứ ai, mà là đảm bảo rằng lời Chúa Giêsu, "Đừng sợ", có thể dẫn dắt mỗi cộng đồng Kitô giáo cùng tồn tại với phần còn lại của dân số.