1. Tổng thống Ukraine gặp Đức Thượng phụ Bácthôlômêô

Bên lề khóa họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, tại New York, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đã có cuộc gặp gỡ với Đức Thượng phụ Bácthôlômêô. Cuộc trao đổi xoay quanh ảnh hưởng của Giáo hội Chính thống Nga và những biện pháp để đối phó.

Đức Thượng phụ Bácthôlômêô với tư cách là Thượng phụ Chính thống Constantinople, là vị lãnh đạo tinh thần danh dự của toàn Chính thống giáo. Tuy nhiên, Thượng phụ Kirill của Nga - người bị coi là chỗ dựa tinh thần cho chính quyền Nga - không công nhận vị thế này.

Năm 2018 đã xảy ra chia rẽ khi Giáo hội Chính thống độc lập của Ukraine được Đức Thượng phụ Bácthôlômêô công nhận sự tự trị và độc lập, tách khỏi Chính thống Nga.

Tổng thống Zelenskiy khẳng định với Đức Thượng phụ rằng ở Ukraine không có sự đàn áp tôn giáo, nhưng đồng thời ông xác quyết “không thể có mối liên hệ với quốc gia xâm lược” Nga. Theo thông báo, Thượng phụ Bácthôlômêô gọi cuộc chiến là bất hợp pháp và lên án việc Giáo hội Chính thống Nga “chúc lành cho việc giết hại người Ukraine”. Tổng thống Zelenskiy cũng đã mời Thượng phụ thăm Ukraine.

Vinh dự lớn cho Thượng phụ Bácthôlômêô

Trong chuyến thăm Hoa Kỳ, Đức Thượng phụ Bácthôlômêô, 85 tuổi, gặp Tổng thống Trump và Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guterres. Ngày thứ Tư 24 tháng Chín, tại New York, Đức Thượng phụ đã nhận Giải thưởng Templeton - một giải thưởng danh giá dành cho những cá nhân có đóng góp xuất sắc trong các vấn đề trọng đại của nhân loại, trong đó có cam kết mạnh mẽ của ngài về bảo vệ môi trường. Giải này được coi như giải Nobel về tôn giáo.

2. Nhật ký trừ tà #362: Linh hồn nơi Luyện ngục Liên lạc với chúng tôi

Đức Ông Stephen Rossetti, Nhà Trừ Tà của giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ vừa có bài viết nhan đề “Exorcist Diary #362: Souls in Purgatory Contacting Us”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà #362: Linh hồn nơi Luyện ngục Liên lạc với chúng tôi”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Tôi đã chia sẻ những câu chuyện về các linh mục ở luyện ngục liên lạc với chúng ta để xin cầu nguyện, và sau đó tôi đã yêu cầu mọi người chia sẻ câu chuyện của riêng họ. Những gì họ gửi đến thật sự rất bổ ích và truyền cảm hứng. Dưới đây chỉ là một vài trong số hàng chục câu chuyện tuyệt vời của họ:

Câu chuyện thứ sáu: Tôi có một người bạn tốt đột ngột qua đời vì biến chứng của cơn hen suyễn. Vài năm sau, tôi bắt đầu thấy anh ta trong mơ. Lúc nào cũng mù sương, và dường như lớp sương mù này đã tạo ra một khoảng cách giữa chúng tôi, nên chẳng bao giờ có cuộc trò chuyện nào. Những giấc mơ ngày càng thường xuyên hơn và sương mù càng dày đặc hơn sau mỗi giấc mơ. Tôi kể với chị gái mình rằng: “Thằng bé này không chịu ở một mình.” Chị gái tôi nói với tôi rằng có lẽ bạn tôi cần được cầu nguyện. Vì vậy, tôi đã dâng lễ cho bạn tôi một thời gian khá dài và cũng cầu nguyện cho bạn tôi. Cho đến tận bây giờ, tôi không còn mơ thấy bạn tôi nữa.

Câu chuyện thứ bẩy: Khi biết tin một vị linh mục cũ qua đời, tôi cảm thấy một nỗi đau buồn rất khác thường, rất dịu dàng và cảm nhận được rõ ràng ở giữa lồng ngực. Vì quá khác thường, tôi nghĩ rằng đây hẳn là một sự thúc đẩy siêu nhiên để cầu nguyện cho vị linh mục này. Sau đó, tôi đã sắp xếp các Thánh lễ cầu nguyện cho linh hồn ngài. Sau đó, chồng tôi và tôi đã hành hương một ngày đến một đền thờ Đức Mẹ. Tại đó, sau khi cầu nguyện tại bàn thờ Thánh Giuse, tôi cảm thấy thôi thúc phải mua một cây nến lớn khác và dâng lên cùng với những lời cầu nguyện cho vị linh mục đã khuất. Tôi đến bàn thờ với Chúa Giêsu phục sinh và nhìn thấy hình ảnh Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu, tôi đặt cây nến đang cháy lên đó và quỳ xuống đặt chuỗi hạt Lòng Thương Xót. Khi đọc lời cuối cùng của chuỗi hạt, một niềm vui mạnh mẽ bùng nổ trong tim và lồng ngực tôi, nơi từng là nỗi đau buồn dịu dàng và tôi tin chắc rằng vị linh mục vừa được giải thoát khỏi luyện ngục. Tạ ơn Chúa.

Câu chuyện thứ tám: Vợ chồng tôi đã sống ở căn nhà hiện tại khoảng 10 năm. Các con chúng tôi đã trưởng thành và sống riêng. Nhưng trong suốt thời gian ở đây, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn ngửi thấy mùi khói. Không có ai hút thuốc bên ngoài, nhưng chúng tôi vẫn ngửi thấy mùi khói trong nhà. Rồi mùi đó biến mất, rồi lại quay trở lại. Nhà cũ của chúng tôi chưa bao giờ gặp phải vấn đề này. Thế là một đêm nọ, sau khi tôi đọc kinh Mân Côi trên ghế ở phòng khách xong, ngay cạnh tôi, tôi ngửi thấy mùi khói thuốc lá nồng nặc. Thế là tôi lại nói chuyện với chồng về chuyện này và mọi chuyện bắt đầu sáng tỏ. Anh ta nói rằng cha anh, người mà tôi chưa từng gặp, là một người nghiện thuốc lá rất nặng và đáng tiếc là cũng nghiện rượu nặng. Ông ấy có một cuộc sống khó khăn và chưa bao giờ thực sự được chôn cất theo nghi thức Công Giáo. Vì vậy, tôi đã nói chuyện với một người bạn linh mục về việc này. Ngài nói rằng đó là một linh hồn đang gặp rắc rối từ luyện ngục xin cầu nguyện. Ngài bảo tôi nên dâng ba thánh lễ, mỗi thánh lễ cho một Ngôi trong Ba Ngôi Thiên Chúa, và điều đó sẽ giải quyết được vấn đề. Và đó chính xác là những gì chúng tôi đã làm. Nhưng chúng tôi đã cử hành bốn thánh lễ với hy vọng đưa ông về nơi an nghỉ vĩnh hằng. Từ đó đến nay, tôi không còn ngửi thấy mùi khói thuốc nữa. Tạ ơn Chúa!

Có hàng chục câu chuyện được chia sẻ với chúng tôi và tất cả đều rất giống nhau. Một số điểm chính rút ra từ những câu chuyện trên:

*Luyện ngục có tồn tại. Đó là một nơi mù sương đầy đau khổ, nhưng chỉ là một trạm dừng chân trước thiên đàng.

*Một số linh hồn ở luyện ngục được Chúa cho phép liên lạc với người sống, đặc biệt là người thân và bạn bè thân thiết để được giúp đỡ.

*Việc được một linh hồn ở luyện ngục viếng thăm có thể khiến người sống sợ hãi, nhưng những linh hồn như vậy không gây hại (tuy nhiên ma quỷ có thể và thực sự gây hại).

*Có rất nhiều linh hồn đang chịu đau khổ nơi luyện ngục. Lời cầu nguyện và Thánh lễ từ người còn sống sẽ tạo nên sự khác biệt lớn lao.

*Mọi người có thể cầu nguyện cho những người thân đã khuất một cách hiệu quả và quan trọng.

*Chuỗi kinh Lòng Thương Xót có vẻ đặc biệt mạnh mẽ.

*Những người thân yêu đã khuất từng làm hại chúng ta khi còn sống sẽ được hưởng lợi từ sự tha thứ của chúng ta.

Hãy cầu nguyện hằng ngày cho những người thân yêu của bạn và tất cả các linh hồn nơi luyện ngục. Họ sẽ cầu nguyện cho bạn!


Source:Catholic Exorcism

3. Những bí mật cuối cùng của Nhà thờ Mộ Thánh sắp được tiết lộ

Hiện tại, khu vực xung quanh Mộ Chúa vẫn còn là công trường. Nhưng sắp tới, lối đi vòng quanh nhà nguyện tròn của Nhà thờ Mộ Thánh tại Giêrusalem sẽ được mở cửa trở lại. Các nhà khảo cổ đang làm việc hết công suất.

Lối đi quanh Nhà nguyện Mộ và Phục sinh của Chúa Kitô vẫn đang bị gián đoạn. Sau những tấm rào chắn và vải che, người ta nghe tiếng búa, cưa, khoan, đo đạc; những xe tải nhỏ san lấp các hố đất, và công nhân lát lại nền lịch sử bằng các phiến đá dày. Tuy vậy, lối vào phòng mộ hai phần - nơi theo truyền thống là chỗ đặt thi thể Chúa Giêsu sau khi bị đóng đinh - vẫn mở cửa.

Năm 2016, khi các cộng đồng sở hữu nhà thờ - Chính thống, Công Giáo và Armenia - bất ngờ đạt được đồng thuận về việc trùng tu khẩn cấp nơi thánh thiêng nhất của Kitô giáo, nguyên tắc đặt ra là: nhà thờ phải luôn mở cửa, các nghi lễ phải tiếp tục. Các giới trong Giáo hội hy vọng ngay trong tháng tới, lối đi vòng quanh ngôi nhà nguyện, với tháp hành tây kiểu Nga, sẽ được mở lại.

Những ngày qua, công trình do Đại học Sapienza (Roma) chủ trì tại khu vực trung tâm này được đẩy nhanh tiến độ. Từ năm 2019, nhóm khảo cổ nhận nhiệm vụ khảo sát và gia cố nền đất vốn mất ổn định và nguy hiểm quanh Mộ Thánh.

Nhà thờ được Hoàng đế Constantino xây dựng vào thế kỷ IV trên một mỏ đá đã bị khai thác. Một số phần - như chính Mộ Thánh - nằm trực tiếp trên đá gốc; những phần khác lại được xây trên lớp đất đá bồi dày tới sáu mét, có nhiều hang rỗng và nứt gãy. Trước kia, mái vòm nhà thờ còn để hở, nên nước mưa thấm vào làm nền đất thêm nguy hiểm.

Xung quanh nhà nguyện tròn, vốn đã được trùng tu trong giai đoạn đầu cách đây tám năm, giờ đây các tấm đá lát màu hồng nhạt được đặt, đồng bộ với màu của nhà nguyện. Nguy cơ đe dọa tính mạng - từng là lý do để chính quyền Israel ra lệnh trùng tu mười năm trước - nay đã được loại bỏ. Một vòng đá đen lại đánh dấu mái vòm linh thiêng của nhà thờ tròn 200 năm tuổi. Tuy nhiên, thời điểm hoàn tất toàn bộ công trình vẫn chưa rõ; các nhà khảo cổ và chủ sở hữu nhà thờ chỉ dè dặt nhắc đến Mùa Chay năm tới như một mốc mong đợi.

Hiện tại, Nhà thờ Mộ Thánh với các nguyện đường và nơi tưởng niệm của Chính thống Hy Lạp, Công Giáo, Armenia, Coptic và Syria vẫn là một công trường khổng lồ. Ở sân trước, từng chồng pallet đá lớn chờ thay thế những phiến bị hư hỏng, không thể sửa chữa hoặc quá mỏng. Bên trong, mọi khoảng trống đều được tận dụng làm kho vật liệu, xưởng thi công hoặc văn phòng tạm cho các nhà khảo cổ và công ty xây dựng. Ít khách hành hương tới đây giúp công trình thuận lợi

Do tình hình chính trị hiện nay, khách hành hương và du khách đến đất nước cũng như đến nhà thờ rất ít - điều này lại thuận lợi cho việc thi công. Trong những năm cao điểm du lịch, nơi đây lúc nào cũng chen chúc, tiếng ồn ào đến mức khó chịu, hàng dài người xếp hàng từ ngoài sân. Chỉ vào sáng sớm mới có thể hy vọng tìm được chút tĩnh lặng để cầu nguyện.

Các nhà khảo cổ người Roma, cũng như trước đó là đồng nghiệp Hy Lạp, có nhiệm vụ vừa bảo đảm an toàn cho du khách, vừa nghiên cứu những bí mật còn lại của lịch sử công trình. Lịch sử ấy bắt đầu với Hoàng đế Constantino, người vào năm 326 đã ra lệnh phá bỏ các công trình ngoại giáo và dọn sạch mọi lớp đất bồi để lộ ra đá gốc.

Người tiền nhiệm Hadriano từng cho dựng Đền Jupiter che phủ Mộ Chúa, và xây Đền thờ Venus trên đồi Golgotha - nơi Chúa chịu đóng đinh - với cả một hang thờ Venus bên dưới. Ngoài một con đường cổ bị di dời, các nhà khảo cổ cho biết hiện ít tìm thấy dấu tích Rôma. Còn ở đồi Golgotha, vốn đã bị công nhân của Constantinus mài phẳng từ xưa, thì những can thiệp khảo cổ sâu hơn bị xem là quá rủi ro.

Dù vậy, cho đến nay các chuyên gia Roma - giống như đồng nghiệp Hy Lạp trước đó - vẫn tiết lộ rất ít về phát hiện của họ. Theo thông lệ khoa học, sẽ có một báo cáo khai quật chính thức. Nhưng trước cả thời điểm ấy, Nhà thờ Mộ Thánh tại Giêrusalem sẽ lại trở thành nơi tưởng niệm, cử hành phụng vụ và cầu nguyện.

4. Bênh vực thai nhi - Đức Cha Thomas John Joseph Paprocki khẳng định: Thượng nghị sĩ Durbin không phù hợp để nhận bất cứ danh dự nào của Công Giáo

Đức Cha Thomas John Joseph Paprocki, sinh ngày 5 tháng 8 năm 1952, là một giám mục người Mỹ của Giáo Hội Công Giáo. Ngài được Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 bổ nhiệm làm giám mục của Giáo phận Springfield ở Illinois kể từ năm 2010. Trước đó, ngài từng là Giám Mục Phụ Tá của Tổng giáo phận Chicago từ năm 2003 đến năm 2010.

Ngài vừa có bài viết nhan đề “Senator Durbin Is Unfit to Receive Any Catholic Honor”, nghĩa là “Thượng nghị sĩ Durbin không phù hợp để nhận bất cứ danh dự nào của Công Giáo”. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Tôi rất sốc khi biết rằng Đức Tổng Giám Mục Chicago, Hồng Y Blase Cupich, dự định trao tặng giải thưởng thành tựu trọn đời cho Thượng nghị sĩ Richard Durbin thông qua Văn phòng Nhân phẩm và Đoàn kết của Tổng giáo phận tại buổi gây quỹ vào ngày 3 tháng 11 tại Trường Trung học Dự bị St. Inhaxiô. Vì quyết định này có nguy cơ gây phẫn nộ cho các tín hữu và làm tổn hại đến mối liên kết hiệp thông giáo hội, nên cần phải hủy bỏ quyết định này.

Giáo hội dạy rằng phá thai - hay cố ý giết một con người chưa sinh ra trong bụng mẹ - “tự bản chất là một hành động xấu xa”, một hành động luôn luôn và ở mọi nơi “không tương thích với tình yêu Thiên Chúa và tha nhân”. Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói trong Evangelium Vitae, chúng ta phải, “có can đảm nhìn thẳng vào sự thật và gọi mọi thứ bằng đúng tên của chúng”. Trong trường hợp phá thai, “chúng ta đang đối phó với tội giết người” vì “hữu thể bị loại bỏ là một con người ngay từ khi bắt đầu cuộc sống”. Công đồng Vatican II đã mô tả phá thai là “một tội ác không thể nói nên lời”. Phản ánh bản chất bạo lực cố hữu của hành động này, Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường so sánh phá thai với việc thuê một sát thủ mafia “để lấy mạng người để giải quyết vấn đề”. Ngay sau khi được bầu làm Giáo hoàng, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã nói với Đoàn Ngoại giao Vatican vào ngày 16 tháng 5 rằng “không ai được miễn trừ khỏi việc phấn đấu để bảo đảm tôn trọng phẩm giá của mọi người, đặc biệt là những người yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất, từ trẻ chưa sinh đến người già, từ người bệnh đến người thất nghiệp, công dân và người nhập cư như nhau”. Thật không may, Thượng nghị sĩ Durbin đã loại trừ quyền tôn trọng nhân phẩm của thai nhi. Luật pháp “không thể tuyên bố là đúng bất cứ điều gì trái với luật tự nhiên”. Do đó, những nỗ lực tạo ra một thứ quyền phá thai hợp pháp về bản chất là bất hợp pháp và không phù hợp với công lý và thiện ích chung.

Trong suốt nhiệm kỳ của mình, Thượng nghị sĩ Durbin là người ủng hộ mạnh mẽ việc hợp pháp hóa phá thai. Trong gần ba thập niên tại Thượng viện Hoa Kỳ, Durbin đã cống hiến hết mình để tạo ra, bảo vệ và mở rộng quyền phá thai - tức là hợp pháp hóa quyền được giết một con người vô tội trong bụng mẹ. Trong nhiều cuộc bỏ phiếu, Durbin đã ủng hộ các nỗ lực lập pháp nhằm loại trừ cả một tầng lớp con người khỏi sự bảo vệ hợp pháp của luật pháp. Quan điểm của ông cực đoan đến mức ông thậm chí còn bỏ phiếu chống lại Đạo luật Cấm phá thai khi hài nhi đã được sinh một phần (đạo luật này cấm thủ thuật kinh hoàng trong đó hộp sọ của trẻ em bị đâm thủng bằng một chiếc kéo và não của trẻ bị hút ra bằng máy hút chân không) và Đạo luật Bảo vệ những người sống sót sau phá thai khi sinh ra (đạo luật này sẽ yêu cầu chăm sóc y tế cứu sống cho bất kỳ đứa trẻ nào tình cờ sống sót sau một ca phá thai thất bại).

Bạo lực vô nhân đạo này—một quyền hợp pháp mà Durbin tìm cách ghi nhận trong luật pháp Hoa Kỳ—trái ngược với nhân phẩm và tình đoàn kết của con người. Vì vậy, thật vô lý khi Thượng nghị sĩ Durbin được trao tặng giải thưởng từ văn phòng “nhân phẩm và tình đoàn kết” khi Durbin đã dành thời gian tại nhiệm để phủ nhận nhân phẩm của những đứa trẻ chưa chào đời và làm suy yếu tình đoàn kết với những người yếu thế và dễ bị tổn thương nhất trong chúng ta.

Giải thưởng dự kiến được đặt tên là “giải thưởng thành tựu trọn đời” và sự kiện mà Durbin sẽ nhận giải thưởng này được gọi là chương trình bác ái “Giữ Hy vọng Sống”. Điều này thật trớ trêu bởi việc tàn sát những đứa trẻ vô tội trong bụng mẹ là hành động hư vô và luôn vô vọng, và những chính sách mà Durbin ủng hộ đã tước đi cuộc sống của vô số trẻ em chưa chào đời.

Hồ sơ kinh hoàng của Thượng nghị sĩ Durbin về vấn đề cơ bản của sự sống con người chưa chào đời khiến ông không đủ điều kiện để nhận giải thưởng được đề xuất hoặc bất kỳ danh hiệu Công Giáo nào.

Quyết định trao tặng Durbin vinh dự này là một sai lầm nghiêm trọng. Nếu điều đó xảy ra, nó sẽ gây ra một tai tiếng lớn trong cả người Công Giáo lẫn công chúng nói chung. Người ta sẽ cực kỳ hoang mang tự hỏi tại sao Giáo hội lại bối rối như thế, và không biết liệu Giáo hội có thành tâm phản đối phá thai hay không, liệu Giáo hội có thực sự coi phá thai là vấn đề sống còn hay không, và liệu Giáo hội có thực sự tin rằng phẩm giá con người đang bị đe dọa hay không. Một số người Công Giáo có thể kết luận rằng, xét cho cùng, phá thai thực sự không quan trọng đến vậy. Họ có thể kết luận rằng một số giáo huấn của Giáo hội có thể được bỏ qua một cách an toàn nếu người ta ủng hộ các chính sách khác phù hợp với giáo huấn của Giáo hội về các vấn đề khác, chẳng hạn như vấn đề nhập cư.

Việc trao giải thưởng cho Durbin vì công trình của ông về vấn đề nhập cư, bất chấp sự ủng hộ trắng trợn của ông đối với giấy phép phá thai, là phớt lờ giáo huấn của Giáo hội rằng “một cam kết chính trị đối với một khía cạnh riêng biệt của học thuyết xã hội của Giáo hội không làm cạn kiệt trách nhiệm của một người đối với lợi ích chung”. Ơn gọi Kitô hữu trong đời sống công cộng đòi hỏi sự chính trực, chứ không phải là việc viện dẫn một cách có chọn lọc những giáo lý cụ thể. Như các giám mục Hoa Kỳ đã dạy, “việc 'đúng' trong những vấn đề như vậy không bao giờ có thể bào chữa cho một lựa chọn sai lầm liên quan đến các cuộc tấn công trực tiếp vào mạng sống con người vô tội. Thật vậy, việc không bảo vệ và không bênh vực mạng sống trong những giai đoạn dễ bị tổn thương nhất khiến bất kỳ tuyên bố nào về 'sự đúng đắn' của các lập trường trong các vấn đề khác ảnh hưởng đến những người nghèo nhất và yếu thế nhất trong cộng đồng nhân loại đều bị nghi ngờ”. Một người như Thượng nghị sĩ Durbin, người có các hành vi lập pháp đã làm suy yếu việc bảo vệ mạng sống con người - nền tảng của xã hội dân sự - không xứng đáng với bất kỳ danh dự công khai nào.

Hơn nữa, việc trao giải thưởng này cho Durbin sẽ vi phạm cả hướng dẫn của Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ và chính sách của Tổng giáo phận Chicago liên quan đến danh hiệu và giải thưởng. Trong tuyên bố năm 2004, có nhan đề “Người Công Giáo trong Đời sống Chính trị”, các giám mục của quốc gia đã đồng thanh lên tiếng dạy rằng “những người hành động bất chấp các nguyên tắc đạo đức cơ bản của chúng ta... không nên được trao giải thưởng, danh hiệu hoặc các diễn đàn gợi ý ủng hộ cho hành động của họ”. Tương tự, sổ tay chính sách của Tổng giáo phận Chicago quy định rằng “Bất kỳ tổ chức Công Giáo nào chịu sự quản lý của Tổng giám mục Chicago và bất kỳ hội đồng/ủy ban gây quỹ nào trực thuộc họ sẽ không trao giải thưởng hoặc danh hiệu hoặc tổ chức các bài thuyết trình, cơ hội phát biểu hoặc sự xuất hiện của các cá nhân hoặc tổ chức có lập trường công khai trái ngược với các nguyên tắc đạo đức cơ bản của Giáo Hội Công Giáo”. Không rõ tại sao Hồng Y Cupich lại thấy phù hợp để bỏ qua cả các giám mục anh em của mình và sổ tay chính sách giáo phận của chính mình.

Mặc dù Richard Durbin vẫn cư trú tại Springfield và do đó chịu sự chăm sóc mục vụ và thẩm quyền của tôi với tư cách là giám mục nơi cư trú của mình, Hồng Y Cupich đã không tham khảo ý kiến của tôi về giải thưởng này và thậm chí cũng chẳng hề thông báo cho tôi về quyết định của mình. Tôi chỉ được biết về điều này trên các phương tiện truyền thông. Việc không tham khảo ý kiến của một giám mục anh em liên quan đến một thành viên trong giáo phận của mình thậm chí còn đáng lo ngại hơn vì Hồng Y Cupich biết rằng Thượng nghị sĩ Durbin đã không được phép rước lễ tại Giáo phận Springfield ở Illinois kể từ năm 2004 theo Điều 915 của Bộ Giáo luật của Giáo hội vì “cố chấp kiên trì trong tội trọng rõ ràng” bằng cách ủng hộ phá thai. Thay vì trao giải thưởng cho các chính trị gia ủng hộ việc phá hủy hợp pháp sự sống con người chưa sinh, Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ kêu gọi những người như Durbin “hãy cân nhắc hậu quả đối với hạnh phúc tinh thần của chính họ, cũng như tai tiếng mà họ có nguy cơ gặp phải khi dẫn dắt người khác vào tội trọng”.

Tôi đưa ra lời sửa sai này với hy vọng rằng Đức Hồng Y Cupich có thể đảo ngược quyết định sai lầm này, và do đó bảo tồn được tính toàn vẹn của giáo huấn luân lý của Giáo hội và tránh được tai tiếng mà quyết định này có thể gây ra cho các tín hữu.


Source:Firat Things

5. Câu chuyện giáo phận Vinh: Hiệp Thông Và Bình An Đôi Bạn Không Thể Tách Rời

Có những vết thương làm cho tim người ta nhói đau, nhưng vẫn còn chịu đựng được. Có những mất mát làm cho lòng người quặn lại, nhưng vẫn còn tìm thấy lối gượng đứng dậy. Nhưng có những gãy đổ trong Hội Thánh, nơi lẽ ra phải là ngôi nhà của hiệp thông và nguồn mạch bình an, lại khiến trái tim bao người, từ những kẻ cùng đứng chung hàng ngũ đến những ai đang chịu sự lãnh đạo như chẳng vò mà rối, chẳng dần mà nát, chẳng bóp mà vỡ.

Bởi lẽ, hiệp thông và bình an vốn luôn sóng đôi nhau, là đôi bạn thân thiết, đến nỗi không thể thiếu nhau. Có hiệp thông, bình an tỏa rạng. Có bình an, hiệp thông triển nở. Ở đâu bình an ngự trị, ở đâu có một bầu khí chan hòa, thánh thiện, tình yêu, tương trợ, đầm ấm…, ở đó càng lúc, hiệp thông càng dồi dào, càng sâu sắc.

Ngược lại, một khi hiệp thông bị đập vỡ, bình an lập tức tan biến, chỉ còn lại tiếng ồn ào của tranh chấp, của giận dữ, của những nhát dao cứa vào chính thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô. Và đó là điều đang làm cho trái tim Hội Thánh đau, rất đau.

Chúng ta nghẹn ngào, khó giấu nổi sự mệt mỏi khi chứng kiến cảnh các bậc được đặt làm thủ lãnh trong Hội Thánh, những người có bổn phận nuôi dưỡng đoàn chiên bằng Lời Chúa, lại quay sang bôi nhọ, sỉ nhục, xát muối vào nhau trước mặt bao người. Khi họ đánh nhau, không chỉ là đánh nhau; khi họ hạ nhục nhau, không chỉ là hạ nhục nhau. Họ còn hạ nhục đoàn dân đang được họ chăn dắt. Họ làm nhơ nhớp dung nhan Hội Thánh, làm tan nát niềm tin của bao nhiêu người vẫn hằng ngày hy vọng nơi họ.

Lời Chúa trong sách tiên tri Êzêkiel từng nghiêm khắc cảnh cáo:

“Khốn cho các mục tử Israel chỉ biết lo cho mình! Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo các ngươi giết, còn đoàn chiên thì các ngươi không chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không đi tìm; các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hung hãn. Vì thế, đoàn chiên của Ta đã bị tản mác... Này, chính Ta chống lại các mục tử... Ta sẽ đòi lại chiên của Ta... Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, và chính Ta sẽ cho chúng được nghỉ ngơi” (Ed 34, 2-16).

Lời ấy, xưa vang lên ở miền đất Israel, nhưng nay lại đang trở thành một tiếng sét đánh vào tận lương tâm chúng ta. Thật đáng run sợ, nếu đoàn chiên không còn tìm được bình an bên cạnh người chăn, thì chính Thiên Chúa sẽ ra tay lấy lại đoàn chiên của Ngài.

Có biết chăng, khi một vị lãnh đạo tinh thần ném bùn đất vào mặt đồng nghiệp của mình, thì bùn đất ấy chẳng dừng lại ở gương mặt kia, nhưng văng tung tóe lên tất cả đoàn dân, lên khuôn mặt của cả Hội Thánh. Khi họ chửi rủa, khi họ hằn học, cũng là khi cả đoàn dân bị kéo vào một nỗi ê chề chung. Và lúc ấy, kẻ thù của Hội Thánh hả hê, người đời chế giễu, còn đàn con của Chúa thì bơ vơ, mất niềm tin.

Bao nhiêu thế hệ đã ngã xuống, đã đổ máu, đã quên mình, đã hy sinh trọn vẹn cho Hội Thánh, để từ hạt cải bé nhỏ thành cây vững chắc cho muôn người nương náu, tất cả công lao ấy nay bị coi rẻ, chỉ vì kiêu căng, vì cái tôi ngạo mạn, vì đam mê quyền lực! Phải chăng bao nhiêu thế hệ thừa sai, bao nhiêu chứng nhân đức tin, bao nhiêu anh hùng tử đạo, tất cả chỉ còn là trò cười trước mắt người đời, khi những người kế vị lại rút dao chém vào nhau?

Có lẽ nơi cõi lòng của bất cứ ai nghĩ cho Hội Thánh của Chúa Kitô, đều có cả giận dữ, có cả sự uất ức muốn thốt lên những lời cay nghiệt, muốn làm điều gì đó cho hả nỗi đau của mình. Nhưng rồi, chúng ta phải nén lại, không phải vì hèn nhát, mà vì yêu Hội Thánh, vì không muốn danh Chúa bị sỉ nhục hơn nữa. Chúng ta đau như thấy ai cắt mất đường đua mà cả đoàn con của Hội Thánh vẫn hằng cố gắng chạy. Cuộc chạy loan báo Tin Mừng, cuộc chạy của những nỗ lực làm chứng, bỗng chốc bị chắn đứng bởi hận thù, nghi kỵ, tranh chấp, ghen ghét.

Là mục tử - nhưng mục tử để làm gì, nếu chính mình lại là con sói tấn công đàn chiên? Chúng ta giảng dạy về sự tha thứ, nhưng chính ta lại sống oán hận. Chúng ta rao giảng về tình yêu, nhưng chính ta lại gieo rắc hận thù. Chúng ta kêu gọi người khác hiệp thông, nhưng chính ta lại phá tan hiệp thông bằng những cú đánh chí tử vào nhau.

Uớc mong tất cả những người đã được Chúa chọn, đã được Hội Thánh đặt làm người dẫn đường - hãy một lần ngồi xuống, hãy lắng nghe tiếng tim mình đập, để hiểu rằng: không có hiệp thông, Hội Thánh không thể còn bình an. Và không có bình an, mọi công cuộc rao giảng đều trở nên vô nghĩa. Chúng ta phải biết run sợ trước hậu quả khủng khiếp của sự chia rẽ.

Cần lắm sự can đảm để quay lại, can đảm để nối lại nhịp cầu hiệp thông. Đừng biến Hội Thánh thành chiến trường cho cái tôi, cho sự kiêu ngạo, cho những rác rưởi của hận thù. Từng người có trách nhiệm trả lại cho Hội Thánh dung nhan tươi sáng, để đoàn chiên được thấy bình an, được sống trong hiệp nhất.

Chúng ta khao khát đến cháy lòng về một Hội Thánh chỉ còn có Chúa Kitô là trung tâm. Ngoài Ngài ra, không gì khác đáng để chúng ta tranh giành. Xin Ngài hãy đổ tràn Thần Khí hiệp thông, để bình an lại tràn ngập trong mọi tâm hồn, để Hội Thánh, từ trong đau thương, có thể hồi sinh và tiếp tục là dấu chỉ yêu thương giữa thế gian.

Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG