Robert Lazu Kmita, trên The Catholic Thing, Thứ Bảy, ngày 20 tháng 9 năm 2025, cho hay: Bài viết gần đây của Michael Rota và Stephen Bullivant, “Sự truyền bá tôn giáo: Giải pháp cho vấn đề lớn nhất của Giáo hội”, được đăng trên Tạp chí Đời sống Giáo hội, đã gây ra phản ứng ở nhiều nơi vì luận điểm chính của bài viết: chín trong số mười người sinh ra trong cộng đồng Công Giáo rời bỏ Giáo hội.
Cuộc rời bỏ của người lớn, đặc biệt là thanh thiếu niên và người trẻ, là một trong những triệu chứng đáng lo ngại nhất của cuộc khủng hoảng sâu xa trong đời sống Kitô hữu, không những trong Giáo hội mà còn trong toàn bộ nền văn hóa của chúng ta. (Tôi tin rằng căn bệnh khủng khiếp và lan rộng nhất là não trạng ngừa thai, mà cả chế độ phá thai mà nó dẫn đến. Tất cả các vấn đề khác phản ảnh sự tự sát chậm chạp của các cộng đồng ở thế giới phương Tây đã ngừng sinh sản.)
Về việc ra đi của giới trẻ nói riêng, một cuộc khảo sát sâu sắc và những đề xuất cụ thể là điều hoàn toàn cần thiết. Nhưng trước đó – cũng như trường hợp bệnh nhân có nhiều triệu chứng nghiêm trọng – điều cần thiết là phải đưa ra chẩn đoán chính xác để tìm ra nguyên nhân tiềm ẩn của “căn bệnh”. Quan điểm của tôi về tất cả những điều này có phần khác thường trong thời đại ngày nay: quan điểm của một người từ Giáo hội “Chính thống giáo” gia nhập Giáo Hội Công Giáo Rôma.
Điều tôi nhận thấy sau khi tôi xin (vào năm 2000) được hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội Rôma (qua đó trở về với Giáo hội của tổ tiên Ba Lan của tôi) là một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về bản sắc Công Giáo. Không hề phóng đại, tôi dám nói rằng bản sắc Công Giáo của một số lượng lớn tín đồ ngày nay đang tan rã. Rõ ràng, cuộc khủng hoảng này chỉ có thể dẫn đến sự xa lánh và thờ ơ, dễ dàng dẫn đến sự ra đi mà Rota, Bullivant và những người khác đã lên án.
Để hiểu rõ hơn về nguyên nhân, cần định nghĩa ngắn gọn về “bản sắc Công Giáo”. Điểm khởi đầu của tôi là “Kinh Đức tin” cổ điển:
Lạy Chúa, con tin chắc rằng Chúa là Thiên Chúa duy nhất trong ba ngôi vị thần linh, Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần; Con tin rằng Con Thiên Chúa của Ngài đã làm người và chịu chết vì tội lỗi chúng con, và Người sẽ đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Con tin những điều này và tất cả những chân lý mà Giáo Hội Công Giáo thánh thiện dạy, bởi vì Ngài đã mặc khải những điều đó, Đấng không thể lừa dối và cũng không thể bị lừa dối. Amen.
Bất cứ ai tin vào những điều được nêu ra một cách ngắn gọn ở đây đều có thể được coi là một Ki-tôi hữu (tức là người Công Giáo). Thêm vào đó, tôi muốn bổ sung thêm sự cần thiết phải tin chắc rằng Giáo Hội Công Giáo là Giáo hội duy nhất do Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, sáng lập.

Không một cộng đồng hay “giáo hội” nào khác có thể được coi là như vậy. Hơn nữa, không một cộng đồng hay “giáo hội” nào khác có thể mang đến ơn cứu rỗi cho các tín hữu của mình. Các tà thuyết và tình trạng ly giáo khỏi Giáo hội chân chính là những mối nguy hiểm thực sự ngăn cản sự hoán cải trọn vẹn và cuối cùng, sự cứu rỗi các linh hồn.
Dĩ nhiên, điều này không loại trừ sự thật này: Thiên Chúa có thể cứu rỗi các linh hồn ngay cả từ những cộng đồng khác. Tuy nhiên, điều này nhất thiết ngụ ý rằng họ phải hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo, ít nhất là qua “phép rửa của lòng khao khát”.
Người Công Giáo ngày nay không còn tin – như Thánh Cyprianô– rằng ngoài Giáo Hội Công Giáo thì không có ơn cứu rỗi (Extra Ecclesiam nulla salus). Đối thoại liên tôn và đại kết, chủ nghĩa đa nguyên thực tiễn của thế giới ngày nay, và việc thiếu vắng việc truyền giáo và giáo lý Kitô giáo đích thực đã tạo ra sự thờ ơ, thậm chí thù địch đối với bất cứ giá trị “cố định” nào (đôi khi thậm chí đối với chính khái niệm “tín điều”).
Thực thế, mặc dù một số linh mục, giám mục và tín hữu đã tỏ ra thông cảm với sự trở lại của tôi, nhưng nhiều người khác lại tỏ ra bối rối: Mục đích của việc trở lại từ “Chính thống giáo” sang Giáo Hội Công Giáo là gì? Chẳng phải chúng đều như nhau sao? Bạn không thể tưởng tượng được tôi đã được hỏi câu hỏi này bao nhiêu lần rồi. Đối với tôi, đây là một chi tiết quan trọng: trong các nhà thờ "Chính thống giáo" và trong các cộng đồng Tin Lành và Tân Tin Lành, người Công Giáo liên tục bị coi là dị giáo, bội giáo, v.v. Ví dụ, các tu sĩ nổi tiếng ở Romania liên tục tuyên bố rằng kể từ cuộc Đại ly giáo (1054), không còn Giáo hội nào ở phương Tây. Họ cũng nói rằng Công Giáo là một tập hợp những phát minh và dị giáo của giáo hoàng được thêm vào tín điều truyền thống, v.v.
Tôi có thể trình bày những tuyên bố ấn tượng như vậy, mà tôi phải nhấn mạnh, là quy luật, không phải là ngoại lệ.
Ngược lại, người Công Giáo không còn tin rằng Giáo hội của họ thực sự là Giáo hội duy nhất do Chúa Kitô thành lập, và rằng nếu không là thành viên của Giáo hội, sự cứu rỗi là không thể. Chìm đắm trong những cuộc tranh luận bất tận về "những Kitô hữu vô danh" và những điều tinh tế khác, các nhà thần học hậu Công đồng như Karl Rahner, Hans Küng, Jacques Dupuis và những người khác đã nuôi dưỡng và khuếch đại cuộc khủng hoảng bản sắc này.
Tương tự như vậy, sự mờ dần của “kiếp sau” – Thiên đường và Địa ngục – như đường chân trời để tham chiếu liên tục và mỗi suy niệm về mặt tâm linh đã góp phần vào sự thờ ơ phổ biến. Nếu ơn cứu độ có thể tìm thấy ở bất cứ đâu, tại sao người trẻ vẫn phải tiếp tục theo Công Giáo?
Hậu quả rõ ràng và tức thời nhất của cuộc khủng hoảng bản sắc Giáo hội là sự biến mất của tinh thần truyền giáo. (Tôi không biết điều này được thể hiện rõ ràng đến mức nào ở một quốc gia có hàng chục triệu tín đồ Công Giáo, chẳng hạn như Hoa Kỳ, nhưng ở một quốc gia có thiểu số Công Giáo chỉ vài chục hoặc vài trăm nghìn người, thì hậu quả này thật rõ ràng.)
Trong bối cảnh phần lớn dân số đang có nguy cơ mất ơn cứu độ vì thuộc về các giáo hội và cộng đồng dị giáo và ly giáo, người ta mong đợi tất cả mọi người - giám mục, linh mục, giáo dân bình thường - phải liên tục nỗ lực để hoán cải những linh hồn lạc lối này. Hoặc, ít nhất, luôn sẵn sàng giúp đỡ những người như vậy đón nhận Kitô giáo đích thực.
Thật không may, điều này hoàn toàn không đúng. Đối thoại đại kết từ lâu đã thay thế việc rao giảng Tin Mừng và hình thành một bản sắc Công Giáo vững mạnh, và những người trẻ đã học được bài học này. Nhiều người trong số họ chỉ đơn giản là rời bỏ tôn giáo của cha mẹ, những người không chỉ không biết, mà có lẽ chưa bao giờ biết, tại sao họ theo Công Giáo.