Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. ·
00:13 10/10/2025
20. Khiêm tốn cách chân thành tức là không tự khoe là thông minh, và cũng không giả bộ hồ đồ.
(Thánh Francis de Sales)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. ·
00:15 10/10/2025
65. TAY GẤU LÀM MÓN ĂN
Thầy giáo kêu học trò giải thích ý nghĩa của câu “Tay gấu tôi đều muốn” trong sách Mạnh tử, có một học trò viết như sau:
- “Ăn sáng, món ăn là tay gấu; ăn tối, món ăn là tay gấu”.
Thầy giáo cười nói:
- “Ta từ trước đến nay chưa hề được nếm thử tay gấu, mày lại có thể đem tay gấu làm thức ăn ư?”
Các học trò cười vang lên.
(Tiếu tiếu lục)
Suy tư 65:
Mật gấu được dùng làm thuốc rất quý, tay gấu cũng là loại thức ăn bổ hiếm khiến ai cũng...thèm ăn, vậy mà có nhiều người sống cả đời cũng chưa ăn được một miếng tay gấu, đúng là hiếm thật.
Mình Máu Thánh Đức Chúa Giê-su là lương thực cao trọng và quý nhất trần gian, vậy mà Đức Chúa Giê-su đã hào phóng khoãn đãi chúng ta mỗi ngày trong bàn tiệc thánh lễ Mi-sa, không phải vì Ngài chơi nổi như các phú ông ở trần gian, nhưng vì Ngài rất yêu thương nhân loại và muốn cho tất cả những ai ăn và uống Mình Máu Ngài thì cũng được sự sống đời đời...
Nhưng có những người Ki-tô hữu coi thường của ăn hằng sống ấy, họ tham dự thánh lễ nhưng không muốn rước lễ vì coi đó là chuyện của đàn bà con nít và của những người nhẹ dạ.
Đức Chúa Giê-su hào phóng với chúng ta vì thương yêu chúng ta, còn chúng ta thì thích hưởng thụ thú vui ăn uống xác thịt trần gian, nên đã quay lưng lại với tình yêu của Ngài trong bí tích Thánh Thể cao trọng này.
Tiếc thật, uổng thật !
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Thầy giáo kêu học trò giải thích ý nghĩa của câu “Tay gấu tôi đều muốn” trong sách Mạnh tử, có một học trò viết như sau:
- “Ăn sáng, món ăn là tay gấu; ăn tối, món ăn là tay gấu”.
Thầy giáo cười nói:
- “Ta từ trước đến nay chưa hề được nếm thử tay gấu, mày lại có thể đem tay gấu làm thức ăn ư?”
Các học trò cười vang lên.
(Tiếu tiếu lục)
Suy tư 65:
Mật gấu được dùng làm thuốc rất quý, tay gấu cũng là loại thức ăn bổ hiếm khiến ai cũng...thèm ăn, vậy mà có nhiều người sống cả đời cũng chưa ăn được một miếng tay gấu, đúng là hiếm thật.
Mình Máu Thánh Đức Chúa Giê-su là lương thực cao trọng và quý nhất trần gian, vậy mà Đức Chúa Giê-su đã hào phóng khoãn đãi chúng ta mỗi ngày trong bàn tiệc thánh lễ Mi-sa, không phải vì Ngài chơi nổi như các phú ông ở trần gian, nhưng vì Ngài rất yêu thương nhân loại và muốn cho tất cả những ai ăn và uống Mình Máu Ngài thì cũng được sự sống đời đời...
Nhưng có những người Ki-tô hữu coi thường của ăn hằng sống ấy, họ tham dự thánh lễ nhưng không muốn rước lễ vì coi đó là chuyện của đàn bà con nít và của những người nhẹ dạ.
Đức Chúa Giê-su hào phóng với chúng ta vì thương yêu chúng ta, còn chúng ta thì thích hưởng thụ thú vui ăn uống xác thịt trần gian, nên đã quay lưng lại với tình yêu của Ngài trong bí tích Thánh Thể cao trọng này.
Tiếc thật, uổng thật !
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Ngày 11/10: Cưu mang Lời của Chúa – Lm. Anthony Nguyễn Hữu Quảng, SDB
Giáo Hội Năm Châu
02:46 10/10/2025
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
Khi ấy, Đức Giê-su đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người : “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm !” Nhưng Người đáp lại : “Đúng hơn phải nói rằng : Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa.”
Đó là Lời Chúa
Nguy cơ vô ơn
Lm. Nguyễn Xuân Trường
06:00 10/10/2025
Nguy cơ vô ơn
Thiên Chúa yêu thương luôn rộng tay ban muôn vàn ơn phúc cho con người. Ấy thế mà trong đời, người ta lại thấy một nghịch lý đau lòng: ơn thì nhiều, mà lòng biết ơn lại hiếm. Phúc Âm tuần này kể chuyện 10 người phong hủi được Chúa chữa lành, mà chỉ có mỗi 1 người trở lại tạ ơn. Sao lại thế nhỉ?
1. Không nhận ra ơn. Muốn sống biết ơn thì trước tiên phải nhận ra ơn. Nhiều người không nhận ra ơn bởi vì coi nó là chuyện đương nhiên, miễn phí. Người ta quên tạ ơn Chúa vì đã ban cho khí trời để thở, để sống. Con cái quên cảm ơn cha mẹ đã cho cơm ăn áo mặc. Người ta không nhận ra ơn còn bởi vì ơn đó trái với ý thích của họ. Chắc không đứa trẻ nào cảm ơn khi cha mẹ bảo dừng chơi để học bài!
2. Quên Người ban ơn. Khi còn bé, đứa trẻ chỉ để ý đến gói quà, quên người cho quà. Khi lớn lên, người ta thường chú ý đến ân huệ, mà quên ân nhân. Chúng ta rất quan tâm sức khỏe, dáng vẻ, đầu óc của mình, mà lại quên không nhớ đến ai nuôi ta khôn lớn? Ai cho ta sức khỏe trí khôn?
3. Gần không cảm ơn. Người quay lại tạ ơn Chúa là người Samari, người ngoài, còn 9 người Israel là người nhà thì không. Giống chúng ta nhỉ. Với người ngoài xã hội ta dễ dàng nói lời cảm ơn – thank you, với người trong gia đình thì mở miệng nói lời cảm ơn sao khó thế. Người ngoài mời ăn một bữa, ta cảm ơn rối rít, ở nhà mẹ nấu ăn cho cả đời thì ta lại cứ im thin thít. Đã không cảm ơn thì chớ, nhiều khi lại còn chê trách mới buồn chứ!
Phải chăng vì thấy người ta hay vô ơn nên thánh Phaolô mới căn dặn:“anh em hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh, đó chính là điều Thiên Chúa muốn.” Biết ơn sẽ làm Chúa vui, người vui, chính mình cũng vui hạnh phúc. Và khi làm ơn cho người khác sẽ giúp chúng ta nên giống Chúa là Đấng Ban Ơn. Amen.
Thiên Chúa yêu thương luôn rộng tay ban muôn vàn ơn phúc cho con người. Ấy thế mà trong đời, người ta lại thấy một nghịch lý đau lòng: ơn thì nhiều, mà lòng biết ơn lại hiếm. Phúc Âm tuần này kể chuyện 10 người phong hủi được Chúa chữa lành, mà chỉ có mỗi 1 người trở lại tạ ơn. Sao lại thế nhỉ?
1. Không nhận ra ơn. Muốn sống biết ơn thì trước tiên phải nhận ra ơn. Nhiều người không nhận ra ơn bởi vì coi nó là chuyện đương nhiên, miễn phí. Người ta quên tạ ơn Chúa vì đã ban cho khí trời để thở, để sống. Con cái quên cảm ơn cha mẹ đã cho cơm ăn áo mặc. Người ta không nhận ra ơn còn bởi vì ơn đó trái với ý thích của họ. Chắc không đứa trẻ nào cảm ơn khi cha mẹ bảo dừng chơi để học bài!
2. Quên Người ban ơn. Khi còn bé, đứa trẻ chỉ để ý đến gói quà, quên người cho quà. Khi lớn lên, người ta thường chú ý đến ân huệ, mà quên ân nhân. Chúng ta rất quan tâm sức khỏe, dáng vẻ, đầu óc của mình, mà lại quên không nhớ đến ai nuôi ta khôn lớn? Ai cho ta sức khỏe trí khôn?
3. Gần không cảm ơn. Người quay lại tạ ơn Chúa là người Samari, người ngoài, còn 9 người Israel là người nhà thì không. Giống chúng ta nhỉ. Với người ngoài xã hội ta dễ dàng nói lời cảm ơn – thank you, với người trong gia đình thì mở miệng nói lời cảm ơn sao khó thế. Người ngoài mời ăn một bữa, ta cảm ơn rối rít, ở nhà mẹ nấu ăn cho cả đời thì ta lại cứ im thin thít. Đã không cảm ơn thì chớ, nhiều khi lại còn chê trách mới buồn chứ!
Phải chăng vì thấy người ta hay vô ơn nên thánh Phaolô mới căn dặn:“anh em hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh, đó chính là điều Thiên Chúa muốn.” Biết ơn sẽ làm Chúa vui, người vui, chính mình cũng vui hạnh phúc. Và khi làm ơn cho người khác sẽ giúp chúng ta nên giống Chúa là Đấng Ban Ơn. Amen.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Nguyên văn Tông Huấn DILEXI TE CỦA Đức Thánh Cha LÊÔ XIV GỬI TẤT CẢ CÁC KITÔ HỮU VỀ TÌNH YÊU THƯƠNG NGƯỜI NGHÈO, tiếp
Vũ Văn An
00:58 10/10/2025
Chăm sóc người nghèo trong đời sống đơn tu
53. Đời sống đơn tu, khởi nguồn từ sự tĩnh lặng của sa mạc, ngay từ đầu đã là một chứng tá cho tình liên đới. Các đan sĩ và nữ tu đã từ bỏ tất cả — của cải, danh vọng, gia đình — không chỉ vì họ khinh miệt của cải trần gian — sự khinh miệt thế gian — mà còn để gặp gỡ Chúa Kitô nghèo khó trong sự tách biệt triệt để này. Thánh Basilêô Cả, trong Luật dòng của ngài, không thấy mâu thuẫn nào giữa đời sống cầu nguyện và chiêm niệm của các đan sĩ với công việc phục vụ người nghèo. Đối với ngài, lòng hiếu khách và sự chăm sóc người nghèo là một phần không thể thiếu trong linh đạo đơn tu, và các đan sĩ, ngay cả sau khi đã từ bỏ tất cả để theo đuổi sự nghèo khó, vẫn phải giúp đỡ những người nghèo nhất bằng công việc của họ, bởi vì “để có đủ tiền giúp đỡ người nghèo… rõ ràng là chúng ta phải làm việc siêng năng… Lối sống này không chỉ có lợi cho việc chế ngự thân xác, mà còn cho việc bác ái đối với tha nhân, để qua chúng ta, Thiên Chúa có thể ban đủ cho những anh chị em yếu đuối hơn của chúng ta.” [42]
54. Tại Xêdaria, nơi ngài làm Giám mục, ngài đã xây dựng một nơi gọi là Basiliad, bao gồm nhà ở, bệnh viện và trường học cho người nghèo và người bệnh. Do đó, vị đan sĩ không chỉ là một nhà khổ hạnh mà còn là một người phục vụ. Thánh Basilêô đã chứng minh rằng để gần gũi với Thiên Chúa, người ta phải gần gũi với người nghèo. Tình yêu cụ thể là tiêu chuẩn của sự thánh thiện. Cầu nguyện và chăm sóc, chiêm niệm và chữa lành, viết lách và chào đón: tất cả đều là biểu thức của cùng một tình yêu dành cho Chúa Kitô.
55. Ở phương Tây, Thánh Bênêđíctô thành Norcia đã soạn thảo một Luật mà sau này trở thành xương sống của linh đạo đơn tu châu Âu. Việc chào đón người nghèo và khách hành hương chiếm một vị trí nổi bật trong văn kiện: “Người nghèo và khách hành hương phải được đón tiếp với tất cả sự quan tâm và hiếu khách, vì chính nơi họ, Chúa Kitô được đón nhận.” [43] Đây không chỉ là lời nói: trong nhiều thế kỷ, các đan viện Biển Đức là nơi trú ẩn cho các góa phụ, trẻ em bị bỏ rơi, khách hành hương và người ăn xin. Đối với Thánh Bênêđíctô, đời sống cộng đoàn là một trường học về bác ái. Lao động chân tay không chỉ có chức năng thực tế mà còn hình thành nên trái tim phục vụ. Việc chia sẻ giữa các đan sĩ, chăm sóc người bệnh và lắng nghe những người dễ bị tổn thương nhất đã chuẩn bị cho họ chào đón Chúa Kitô đến trong con người của người nghèo và người xa lạ. Ngày nay, lòng hiếu khách của tu viện Biển Đức vẫn là dấu chỉ của một Giáo hội mở rộng cửa, chào đón mà không đòi hỏi và chữa lành mà không đòi hỏi bất cứ điều gì đáp lại.
56. Theo thời gian, các tu viện Biển Đức đã trở thành nơi vượt qua văn hóa loại trừ. Các nam nữ đan sĩ canh tác đất đai, sản xuất lương thực, chuẩn bị thuốc men và cung cấp chúng, một cách giản dị, cho những người thiếu thốn nhất. Công việc thầm lặng của họ là chất men của một nền văn minh mới, nơi người nghèo không phải là vấn đề cần giải quyết, mà là anh chị em cần được chào đón. Nguyên tắc chia sẻ, làm việc cùng nhau và giúp đỡ những người dễ bị tổn thương đã thiết lập một nền kinh tế liên đới, trái ngược với luận lý học tích lũy. Chứng tá của các đan sĩ cho thấy rằng sự nghèo khó tự nguyện, không phải là sự khốn cùng, mà là một con đường của tự do và hiệp thông. Họ không giới hạn bản thân trong việc giúp đỡ người nghèo: họ trở thành những người lân cận, anh chị em trong cùng một Chúa. Trong các phòng nhỏ và nội vi, họ đã tạo nên một sự huyền bí về sự hiện diện của Thiên Chúa nơi những người bé nhỏ.
57. Bên cạnh việc cung cấp hỗ trợ vật chất, các đan viện còn đóng một vai trò nền tảng trong việc hình thành văn hóa và tinh thần cho những người khiêm nhường nhất. Trong thời kỳ dịch bệnh, chiến tranh và nạn đói, đó là nơi người nghèo tìm thấy bánh mì và thuốc men, cũng như phẩm giá và tiếng nói. Chính tại đó, trẻ mồ côi được giáo dục, người học việc được đào tạo và người dân thường được dạy kỹ thuật nông nghiệp và cách đọc. Kiến thức được chia sẻ như một món quà và một trách nhiệm. Viện phụ vừa là thầy vừa là cha, và trường dòng là nơi tự do thông qua chân lý. Thật vậy, như John Cassian đã viết, người đan sĩ phải được đặc trưng bởi “lòng khiêm nhường… điều này không dẫn đến kiến thức khoa trương, mà dẫn đến kiến thức soi sáng nhờ lòng bác ái trọn vẹn.” [44] Bằng cách đào tạo lương tâm và truyền đạt khôn ngoan, các đan sĩ đã đóng góp vào một phương pháp sư phạm Kitô giáo về sự hòa nhập. Văn hóa, được đánh dấu bằng đức tin, được chia sẻ một cách giản dị. Kiến thức, được soi sáng bởi lòng bác ái, trở thành sự phục vụ. Do đó, đời sống đơn tu tự bộc lộ như một phong cách thánh thiện và là một cách cụ thể để biến đổi xã hội.
58. Truyền thống đơn tu dạy chúng ta rằng cầu nguyện và bác ái, thinh lặng và phục vụ, phòng giam và bệnh viện tạo thành một cấu trúc tinh thần duy nhất. Đan viện là nơi lắng nghe và hành động, thờ phượng và chia sẻ. Thánh Bernarđô thành Clairvaux, nhà cải cách vĩ đại của dòng Xitô, “đã mạnh mẽ nhắc nhở về nhu cầu của một cuộc sống tiết độ và chừng mực, trong phòng ăn cũng như trong y phục và các tòa nhà đan viện, khuyến khích việc hỗ trợ và chăm sóc người nghèo.” [45] Đối với ngài, lòng cảm thương không phải là một lựa chọn, mà là con đường đích thực để theo Chúa Kitô. Do đó, đời sống đơn tu, nếu trung thành với ơn gọi ban đầu của mình, cho thấy rằng Giáo hội chỉ thực sự là hiền thê của Chúa khi Giáo hội cũng là chị em của người nghèo. Đan viện không chỉ là nơi ẩn náu khỏi thế gian, mà còn là trường học nơi người ta học cách phục vụ thế gian tốt hơn. Nơi các nam nữ đan sĩ mở cửa đón nhận người nghèo, Giáo hội đã khiêm nhường và kiên định cho thấy rằng việc chiêm niệm không loại trừ lòng thương xót, nhưng đòi hỏi lòng thương xót như hoa trái tinh tuyền nhất của nó.
Giải thoát tù nhân
59. Từ thời các tông đồ, Giáo hội đã xem việc giải phóng những người bị áp bức là dấu chỉ của Nước Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố khi bắt đầu sứ vụ công khai của Người: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Người đã xức dầu cho tôi để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó. Người đã sai tôi đi công bố sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm” (Lc 4:18). Các Kitô hữu tiên khởi, ngay cả trong những điều kiện bấp bênh, vẫn cầu nguyện và giúp đỡ anh chị em mình là những người bị giam cầm, như sách Công vụ Tông đồ (x. 12:5; 24:23) và nhiều tác phẩm khác nhau của các Giáo phụ đã chứng thực. Sứ mệnh giải phóng này đã được tiếp tục qua nhiều thế kỷ thông qua những hành động cụ thể, đặc biệt là khi thảm kịch nô lệ và tù đày đã in đậm dấu ấn trên toàn thể xã hội.
60. Từ cuối thế kỷ XII đến đầu thế kỷ XIII, khi nhiều Kitô hữu bị bắt ở Địa Trung Hải hoặc bị bắt làm nô lệ trong chiến tranh, hai dòng tu đã xuất hiện: Dòng Chúa Ba Ngôi và Dòng Tù nhân (Trinitarians), do Thánh Gioan thành Matha và Thánh Phê-lích thành Valois sáng lập, và Dòng Đức Trinh Nữ Maria Thương Xót (Mercedarians), do Thánh Phê-rô Nolasco sáng lập với sự hỗ trợ của Thánh Đa Minh Raymond thành Peñafort. Các cộng đồng người thánh hiến này ra đời với đặc sủng đặc biệt là giải phóng những Kitô hữu bị bắt làm nô lệ, trao tài sản của mình cho những người bị bắt làm nô lệ sử dụng [46] và nhiều lần hiến dâng mạng sống của mình để trao đổi. Dòng Chúa Ba Ngôi, với khẩu hiệu Gloria tibi Trinitas et captivis libertas (Vinh quang cho Chúa, lạy Chúa Ba Ngôi, và tự do cho những người bị bắt làm nô lệ), và dòng Mercedarians, là dòng đã thêm lời khấn thứ tư [47] vào các lời khấn dòng khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, đã chứng thực rằng lòng bác ái có thể anh hùng. Việc giải thoát tù nhân là một biểu thức của tình yêu Ba Ngôi: một Thiên Chúa giải thoát không chỉ khỏi ách nô lệ tinh thần mà còn khỏi sự áp bức cụ thể. Hành động giải cứu một người khỏi ách nô lệ và tù đày được xem như sự nối dài hy lễ cứu chuộc của Chúa Kitô, mà máu của Người là giá chuộc chúng ta (x. 1 Cr 6:20).
61. Linh đạo nguyên thủy của các dòng tu này bắt nguồn sâu xa từ việc chiêm ngắm thập giá. Chúa Kitô là Đấng Cứu Chuộc các tù nhân một cách tuyệt hảo, và Giáo Hội, Thân Thể của Người, kéo dài mầu nhiệm này trong thời gian. [48] Các tu sĩ không xem việc cứu chuộc là một hành động chính trị hay kinh tế, mà là một hành vi gần như phụng vụ, là sự dâng hiến chính mình một cách bí tích. Nhiều người đã hiến dâng thân xác mình để thay thế các tù nhân, thực sự chu toàn điều răn: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (Ga 15:13). Truyền thống của các dòng tu này vẫn còn tồn tại. Ngược lại, nó đã khơi nguồn cảm hứng cho những hình thức hành động mới trước các hình thức nô lệ hiện đại: nạn buôn người, lao động cưỡng bức, bóc lột tình dục và nhiều hình thức lệ thuộc khác. [49] Đức ái Kitô giáo mang tính giải phóng khi nó được nhập thể. Tương tự như vậy, sứ mệnh của Giáo hội, khi trung thành với Chúa, là luôn luôn công bố sự giải phóng. Ngay cả ngày nay, khi “hàng triệu người – trẻ em, phụ nữ và nam giới ở mọi lứa tuổi – bị tước đoạt tự do và buộc phải sống trong những điều kiện gần giống như nô lệ”, [50] di sản này vẫn được tiếp nối bởi các dòng tu này, các tổ chức và hội dòng khác hoạt động ở các vùng ngoại vi đô thị, các vùng xung đột và các tuyến đường di cư. Khi Giáo hội cúi mình để phá vỡ những xiềng xích mới trói buộc người nghèo, Giáo hội trở thành một dấu chỉ vượt qua.
62. Chúng ta không thể kết thúc bài suy tư này về những người bị tước đoạt tự do mà không đề cập đến những người trong các nhà tù và trại giam khác nhau. Về vấn đề này, chúng ta nhớ lại lời Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói với một nhóm tù nhân: “Đối với tôi, việc bước vào nhà tù luôn là một khoảnh khắc quan trọng, bởi vì nhà tù là nơi chứa đựng tình người cao cả... Nhân loại bị thử thách, đôi khi bị bào mòn bởi những khó khăn, tội lỗi, phán xét, hiểu lầm, đau khổ, nhưng đồng thời cũng tràn đầy sức mạnh, khao khát được tha thứ và khao khát được cứu chuộc.” [51] Khao khát này, bên cạnh những điều khác, cũng đã được các dòng tu dành riêng cho việc chuộc tội như một sự phục vụ ưu tiên cho Giáo hội tiếp nối. Như Thánh Phaolô đã tuyên bố: “Chính để được tự do, Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta” (Gl 5:1). Sự tự do này không chỉ là nội tâm: nó tự biểu lộ trong lịch sử như một tình yêu thương chăm sóc và giải thoát chúng ta khỏi mọi xiềng xích nô lệ.
Những chứng nhân của đức khó nghèo tin mừng
63. Vào thế kỷ XIII, trước sự phát triển của các thành phố, sự tập trung của cải và sự xuất hiện của những hình thức nghèo khó mới, Chúa Thánh Thần đã khơi dậy một hình thức thánh hiến mới trong Giáo hội: các dòng khất thực. Khác với mô hình đơn tu cố định, các khất sĩ chọn lối sống du mục, không sở hữu tài sản cá nhân hay cộng đồng, hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng. Họ không chỉ phục vụ người nghèo: họ còn tự làm mình nghèo đi cùng họ. Họ coi thành phố như một sa mạc mới, và những người bị gạt ra bên lề xã hội như những bậc thầy tâm linh mới. Các dòng tu này, chẳng hạn như dòng Phanxicô, dòng Đa Minh, Dòng Thánh Augustinô và Dòng Cát Minh, đại diện cho một cuộc cách mạng truyền giáo, trong đó lối sống giản dị và nghèo khó đã trở thành dấu chỉ tiên tri cho sứ mệnh, làm sống lại kinh nghiệm của cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên (x. Cv 4:32). Chứng tá của những người hành khất đã thách thức cả sự xa hoa của giới giáo sĩ lẫn sự lạnh nhạt của xã hội đô thị.
64. Thánh Phanxicô Assisi đã trở thành biểu tượng của mùa xuân tâm linh này. Bằng cách chấp nhận sự nghèo khó, ngài muốn noi gương Chúa Kitô, Đấng nghèo khó, trần truồng và bị đóng đinh. Trong Luật Dòng, ngài yêu cầu “các anh em không được chiếm đoạt bất cứ điều gì, dù là nhà cửa, địa điểm, hay bất cứ điều gì khác. Và là những người hành hương và khách lạ trên thế gian này, phục vụ Chúa trong sự nghèo khó và khiêm nhường, họ nên đi ăn xin với lòng tin tưởng, và không nên xấu hổ, vì Chúa đã trở nên nghèo khó vì chúng ta trên thế gian này.” [52] Cuộc đời của ngài là một cuộc đời liên tục tự hạ mình: từ cung điện đến người phong hủi, từ hùng biện đến im lặng, từ sở hữu đến trao tặng hoàn toàn. Thánh Phanxicô không thành lập một tổ chức dịch vụ xã hội, mà là một hội huynh đệ truyền giáo. Nơi người nghèo, ngài nhìn thấy anh chị em mình, những hình ảnh sống động của Chúa. Sứ mệnh của ngài là ở bên họ, và ngài đã làm điều đó thông qua một tình liên đới vượt qua khoảng cách và một tình yêu thương cảm thông. Sự nghèo khó của Thánh Phanxicô mang tính tương quan: nó dẫn ngài đến việc trở thành người lân cận, ngang hàng, hoặc thậm chí thấp kém hơn những người khác. Sự thánh thiện của ngài xuất phát từ niềm tin rằng Chúa Kitô chỉ có thể được đón nhận thực sự bằng cách quảng đại hiến thân cho anh chị em mình.
65. Thánh Clara thành Assisi, được Thánh Phanxicô truyền cảm hứng, đã thành lập Dòng Các Bà Nghèo Khó, sau này được gọi là Dòng Clara Nghèo Khó. Cuộc đấu tranh tinh thần của ngài bao gồm việc trung thành duy trì lý tưởng sống khó nghèo triệt để. Ngài từ chối các đặc quyền của giáo hoàng vốn có thể đảm bảo an ninh vật chất cho đan viện của mình và, với sự kiên định, đã xin được từ Đức Giáo Hoàng Gregory IX cái gọi là Đặc quyền Nghèo khó, đảm bảo quyền sống mà không cần bất cứ của cải vật chất nào. [53] Sự lựa chọn này thể hiện niềm tin tuyệt đối của ngài vào Thiên Chúa và nhận thức rằng sự nghèo khó tự nguyện là một hình thức tự do và ngôn sứ. Thánh Clara dạy các chị em của mình rằng Chúa Kitô là di sản duy nhất của họ và không gì có thể che khuất sự hiệp thông của họ với Người. Cuộc sống cầu nguyện và ẩn dật của thánh nữ là tiếng kêu chống lại tính thế tục và là sự bảo vệ thầm lặng cho những người nghèo và bị lãng quên.
66. Thánh Đaminh de Guzmán, một người cùng thời với Thánh Phanxicô, đã thành lập Dòng Giảng Thuyết, với một đặc sủng khác nhưng cùng một đời sống cấp tiến. Ngài muốn công bố Tin Mừng với uy quyền đến từ một cuộc đời nghèo khó, tin chắc rằng Chân Lý cần những chứng nhân của sự chính trực. Gương sống nghèo khó trong cuộc đời của họ đi kèm với Lời họ rao giảng. Thoát khỏi gánh nặng của cải trần thế, các tu sĩ Đaminh có thể cống hiến tốt hơn cho công việc rao giảng chính của mình. Họ đến các thành phố, đặc biệt là các trường đại học, để giảng dạy chân lý về Thiên Chúa. [54] Trong sự phụ thuộc vào người khác, họ đã cho thấy rằng đức tin không phải là áp đặt mà là được ban tặng. Và bằng cách sống giữa những người nghèo, họ đã học được chân lý của Tin Mừng “từ bên dưới”, như những môn đệ của Chúa Kitô bị hạ nhục.
67. Do đó, các dòng tu hành khất thực là một phản ứng sống động trước sự loại trừ và thờ ơ. Họ không đề xuất một cách rõ ràng những cải cách xã hội, mà là một sự hoán cải cá nhân và cộng đồng theo luận lý học Vương quốc. Đối với họ, nghèo đói không phải là hậu quả của sự khan hiếm của cải, mà là một lựa chọn tự do: trở nên nhỏ bé để đón nhận những người bé nhỏ. Như thánh Tôma thành Celano đã nói về thánh Phanxicô: “Ngài cho thấy ngài yêu thương người nghèo tha thiết… Ngài thường cởi bỏ thân xác trần truồng để mặc cho người nghèo, những người mà ngài muốn trở nên giống như ngài.” [55] Những người ăn xin đã trở thành biểu tượng của một Giáo hội lữ hành, khiêm nhường và huynh đệ, sống giữa người nghèo không phải để cải đạo mà như một biểu thức nói lên bản sắc đích thực của họ. Họ dạy chúng ta rằng Giáo hội là ánh sáng khi Giáo hội cởi bỏ mọi thứ, và sự thánh thiện đến từ một trái tim khiêm nhường dành cho những người bé nhỏ nhất trong chúng ta.
Giáo hội và giáo dục người nghèo
68. Nói với các nhà giáo dục, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc lại rằng giáo dục luôn là một trong những biểu hiện cao nhất của đức ái Kitô giáo: “Sứ mệnh của anh em đầy những trở ngại cũng như niềm vui… Một sứ mệnh của tình yêu, bởi vì anh em không thể dạy học nếu không yêu thương.” [56] Theo nghĩa này, từ thời xa xưa, các Kitô hữu đã hiểu rằng kiến thức giải thoát, mang lại phẩm giá và đưa chúng ta đến gần chân lý hơn. Đối với Giáo hội, việc giảng dạy người nghèo là một hành động của công lý và đức tin. Được soi sáng bởi tấm gương của vị Thầy đã dạy cho con người những chân lý thần linh và nhân bản, Giáo hội đã đảm nhận sứ mệnh đào tạo trẻ em và thanh thiếu niên, đặc biệt là những người nghèo nhất, trong chân lý và tình yêu. Sứ mệnh này được hình thành với việc thành lập các dòng tu chuyên về giáo dục.
69. Vào thế kỷ XVI, Thánh Joseph Calasanz, bị sốc trước tình trạng thiếu giáo dục và đào tạo trong giới trẻ nghèo ở Rome, đã thành lập trường công lập miễn phí đầu tiên của châu Âu tại một số phòng liền kề với nhà thờ Santa Dorotea ở Trastevere. Đây chính là hạt giống mà Dòng Giáo sĩ Nghèo của Mẹ Thiên Chúa của các Trường Đạo, được gọi là Piarists, sau này sẽ xuất hiện và phát triển, mặc dù không phải là không có khó khăn. Mục tiêu của họ là truyền đạt cho những người trẻ tuổi “không chỉ kiến thức thế tục mà còn cả sự khôn ngoan của Tin Mừng, dạy họ nhận ra, trong cuộc sống bản thân và trong lịch sử, hành động yêu thương của Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và Cứu Chuộc”. [57] Thực thế, chúng ta có thể coi vị linh mục can đảm này là “người sáng lập thực sự của trường Công Giáo hiện đại, hướng tới việc đào tạo toàn diện con người và mở ra cho tất cả mọi người”. [58] Được truyền cảm hứng từ cùng một sự nhạy cảm, Thánh Gioan Baotixita de La Salle, nhận ra sự bất công do việc loại trừ con cái của công nhân và người dân thường khỏi hệ thống giáo dục của Pháp vào thời điểm đó, đã thành lập Dòng Anh em Trường Kitô giáo vào thế kỷ XVII, với lý tưởng cung cấp cho họ nền giáo dục miễn phí, sự đào tạo vững chắc và một môi trường huynh đệ. De La Salle coi lớp học là nơi phát triển con người, nhưng cũng là nơi để hoán cải. Trong các trường đại học của mình, cầu nguyện, phương pháp, kỷ luật và chia sẻ đã được kết hợp. Mỗi đứa trẻ được xem là một món quà độc nhất vô nhị từ Thiên Chúa, và việc dạy dỗ là một sự phục vụ cho Vương quốc Thiên Chúa.
70. Vào thế kỷ XIX, cũng tại Pháp, Thánh Marcellin Champagnat đã thành lập Viện Anh Em Marist của Trường học. “Ngài nhạy cảm với những nhu cầu tâm linh và giáo dục của thời đại mình, đặc biệt là sự thiếu hiểu biết về tôn giáo và tình trạng bị bỏ rơi mà giới trẻ phải trải qua theo một cách đặc biệt.” [59] Ngài đã hết lòng cống hiến cho sứ mệnh giáo dục và truyền giáo cho trẻ em và thanh thiếu niên, đặc biệt là những người thiếu thốn nhất, trong thời kỳ mà việc tiếp cận giáo dục vẫn là đặc quyền của một số ít người. Cũng trong tinh thần đó, Thánh Gioan Bosco đã khởi đầu công trình vĩ đại của các tu sĩ Salêdiêng tại Ý dựa trên ba nguyên tắc của “phương pháp phòng ngừa” — lý trí, tôn giáo và lòng nhân ái. [60] Chân phước Antonio Rosmini đã thành lập Viện Bác ái, trong đó “bác ái trí thức” được đặt bên cạnh “bác ái vật chất”, với “bác ái tinh thần-mục vụ” ở vị trí hàng đầu, như một chiều kích không thể thiếu của bất cứ hoạt động bác ái nào hướng đến sự phát triển tốt đẹp và toàn diện của con người. [61]
71. Nhiều dòng nữ là những người tiên phong trong cuộc cách mạng sư phạm này. Được thành lập vào thế kỷ XVIII và XIX, các nữ tu dòng Ursulines, dòng Nữ tu Đức Mẹ Maria, dòng Maestre Pie và nhiều dòng khác đã bước vào những không gian mà nhà nước vắng mặt. Họ thành lập các trường học ở những ngôi làng nhỏ, vùng ngoại ô và các khu dân cư lao động. Đặc biệt, việc giáo dục trẻ em gái trở thành ưu tiên hàng đầu. Các nữ tu dòng tu dạy chữ, truyền giáo, chăm lo những vấn đề thiết thực của cuộc sống hàng ngày, nâng cao tinh thần của họ thông qua việc trau dồi nghệ thuật, và trên hết là đào tạo lương tâm. Phương pháp sư phạm của họ rất đơn giản: gần gũi, kiên nhẫn và dịu dàng. Họ dạy bằng gương mẫu cuộc sống của mình trước khi dạy bằng lời nói. Trong thời kỳ nạn mù chữ lan rộng và sự loại trừ có hệ thống, những người phụ nữ tận hiến này là ngọn hải đăng của hy vọng. Sứ mệnh của họ là đào tạo trái tim, dạy mọi người suy nghĩ và thúc đẩy phẩm giá. Bằng cách kết hợp đời sống đạo đức và sự tận tụy với tha nhân, họ đã chống lại sự bỏ rơi bằng sự dịu dàng của những người giáo dục nhân danh Chúa Kitô.
72. Đối với đức tin Kitô giáo, việc giáo dục người nghèo không phải là một đặc ân mà là một bổn phận. Trẻ em có quyền được hiểu biết như một yêu cầu cơ bản để được công nhận phẩm giá con người. Việc dạy dỗ các em khẳng định giá trị của các em, trao cho các em những công cụ để biến đổi thực tại của mình. Truyền thống Kitô giáo coi hiểu biết là một món quà từ Thiên Chúa và là một trách nhiệm cộng đồng. Giáo dục Kitô giáo không chỉ đào tạo nên những người chuyên nghiệp, mà còn đào tạo nên những con người cởi mở với chân, thiện, mỹ. Do đó, khi trung thành với tên gọi của mình, các trường Công Giáo là nơi hòa nhập, đào tạo toàn diện và phát triển con người. Bằng cách kết hợp đức tin và văn hóa, các trường này gieo mầm tương lai, tôn vinh hình ảnh Thiên Chúa và xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Đồng hành cùng di dân
73. Kinh nghiệm di dân đồng hành với lịch sử của dân Chúa. Áp-ra-ham lên đường mà không biết mình sẽ đi đâu; Mô-sê dẫn dắt dân hành hương qua sa mạc; Đức Maria và Thánh Giuse trốn sang Ai Cập cùng Hài Nhi Giêsu. Chính Chúa Kitô, Đấng “đã đến nhà mình, nhưng dân mình chẳng đón nhận” (Ga 1:11), đã sống giữa chúng ta như một người xa lạ. Vì lý do này, Giáo hội luôn nhận ra nơi những người di cư sự hiện diện sống động của Chúa, Đấng mà vào ngày phán xét, sẽ nói với những người bên phải Người: “Ta là khách lạ và các ngươi đã tiếp đón Ta” (Mt 25:35).
74. Vào thế kỷ XIX, khi hàng triệu người châu Âu di cư để tìm kiếm điều kiện sống tốt hơn, hai vị thánh vĩ đại đã nổi bật trong việc chăm sóc mục vụ cho người di cư: Thánh Gioan Baotixita Scalabrini và Thánh Phanxicô Xaviê Cabrini. Scalabrini, Giám mục Piacenza, đã thành lập Dòng Thừa sai Thánh Charles để đồng hành cùng người di cư đến đích, cung cấp cho họ sự hỗ trợ về tinh thần, pháp lý và vật chất. Ngài coi di dân như những người tiếp nhận một công cuộc truyền giảng tin mừng mới, cảnh báo về nguy cơ bị bóc lột và mất đức tin ở một vùng đất xa lạ. Đáp lại một cách quảng đại đặc sủng mà Chúa đã ban cho mình, “Scalabrini mong đợi một thế giới và một Giáo hội không có rào cản, nơi không ai là người nước ngoài.” [62] Thánh Frances Cabrini, sinh ra ở Ý và là người Mỹ nhập tịch, là công dân đầu tiên của Hoa Kỳ được phong thánh. Để hoàn thành sứ mệnh hỗ trợ người di cư, bà đã nhiều lần vượt Đại Tây Dương. “Được trang bị lòng can đảm đáng kinh ngạc, bà đã thành lập các trường học, bệnh viện và trại trẻ mồ côi từ con số không cho quần chúng nghèo, những người mạo hiểm đến thế giới mới để tìm kiếm việc làm. Không biết ngôn ngữ và không có phương tiện để tìm một vị trí đáng kính trong xã hội Mỹ, họ thường là nạn nhân của những kẻ vô đạo đức. Trái tim người mẹ, không cho phép bà nghỉ ngơi, đã vươn tới họ ở khắp mọi nơi: trong những túp lều, nhà tù và hầm mỏ.” [63] Trong Năm Thánh 1950, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tuyên bố Mẹ là Bổn Mạng của Mọi Người Di Dân. [64]
75. Truyền thống làm việc vì và với người di dân của Giáo Hội vẫn tiếp tục, và ngày nay sự phục vụ này được phát biểu qua các sáng kiến như các trung tâm tiếp nhận người tị nạn, các sứ vụ biên giới và những nỗ lực của Caritas Quốc tế và các tổ chức khác. Giáo huấn đương thời tái khẳng định rõ ràng cam kết này. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc lại rằng sứ mệnh của Giáo Hội đối với người di dân và người tị nạn thậm chí còn rộng lớn hơn, nhấn mạnh rằng “phản ứng của chúng ta trước những thách thức do di cư đương thời đặt ra có thể được tóm tắt trong bốn động từ: chào đón, bảo vệ, thúc đẩy và hội nhập. Tuy nhiên, những động từ này không chỉ áp dụng cho người di dân và người tị nạn. Chúng mô tả sứ mệnh của Giáo Hội đối với tất cả những người sống ở vùng ngoại vi hiện sinh, những người cần được chào đón, bảo vệ, thúc đẩy và hội nhập.” [65] Ngài cũng nói: “Mỗi con người đều là con Thiên Chúa! Họ mang hình ảnh của Chúa Kitô! Chính chúng ta cần nhìn thấy, và sau đó giúp người khác nhìn thấy, rằng người di cư và người tị nạn không chỉ là một vấn đề cần giải quyết, mà còn là anh chị em cần được chào đón, tôn trọng và yêu thương. Họ là cơ hội mà Chúa Quan Phòng ban cho chúng ta để góp phần xây dựng một xã hội công bằng hơn, một nền dân chủ hoàn hảo hơn, một đất nước đoàn kết hơn, một thế giới huynh đệ hơn và một cộng đồng Kitô giáo cởi mở và truyền giáo hơn.” [66] Giáo Hội, như một người mẹ, đồng hành với những ai đang bước đi. Nơi thế gian nhìn thấy những mối đe dọa, Giáo Hội nhìn thấy những trẻ em; nơi những bức tường được xây dựng, Giáo Hội xây dựng những cây cầu. Giáo Hội biết rằng lời loan báo Tin Mừng của mình chỉ đáng tin cậy khi được chuyển thành những cử chỉ gần gũi và chào đón. Và Giáo Hội biết rằng trong mỗi người di cư bị từ chối, chính Chúa Kitô đang gõ cửa cộng đồng.
Ở bên cạnh những người bé mọn nhất trong chúng ta
76. Sự thánh thiện của Kitô giáo thường nở rộ ở những nơi bị lãng quên và tổn thương nhất của nhân loại. Những người nghèo nhất trong số những người nghèo — những người không chỉ thiếu thốn của cải vật chất mà còn thiếu cả tiếng nói và sự công nhận phẩm giá của họ — có một vị trí đặc biệt trong trái tim Thiên Chúa. Họ là những người được yêu thương của Tin Mừng, là những người thừa kế Vương quốc (x. Lc 6:20). Chính nơi họ, Chúa Kitô tiếp tục chịu đau khổ và phục sinh. Chính nơi họ, Giáo hội tái khám phá lời mời gọi thể hiện bản chất đích thực nhất của mình.
77. Thánh Têrêsa Calcutta, được phong thánh năm 2016, đã trở thành biểu tượng phổ quát của lòng bác ái, được sống trọn vẹn nhất vì những người nghèo khổ nhất, những người bị xã hội ruồng bỏ. Là người sáng lập Dòng Thừa Sai Bác Ái, ngài đã dành trọn cuộc đời mình cho những người hấp hối bị bỏ rơi trên đường phố Ấn Độ. Ngài đã đón nhận những người bị ruồng bỏ, rửa sạch vết thương của họ và đồng hành với họ cho đến giây phút lâm chung với lòng dịu dàng của lời cầu nguyện. Tình yêu của Mẹ dành cho những người nghèo nhất trong số những người nghèo có nghĩa là Mẹ không chỉ chăm lo cho nhu cầu vật chất của họ, mà còn loan báo Tin Mừng cho họ: “Chúng tôi muốn loan báo Tin Mừng cho người nghèo rằng Thiên Chúa yêu thương họ, rằng chúng ta yêu thương họ, rằng họ là một phần của chúng ta, rằng họ cũng được tạo dựng bởi cùng một bàn tay yêu thương của Thiên Chúa, để yêu thương và được yêu thương. Những người nghèo của chúng ta là những con người vĩ đại, là những con người rất đáng yêu, họ không cần lòng thương hại và sự cảm thông của chúng ta, họ cần tình yêu thương thấu hiểu của chúng ta. Họ cần sự tôn trọng của chúng ta; họ cần chúng ta đối xử với họ một cách tôn trọng.” [67] Tất cả những điều này xuất phát từ một nền linh đạo sâu sắc, coi việc phục vụ những người nghèo nhất là hoa trái của lời cầu nguyện và tình yêu, nguồn gốc của hòa bình đích thực, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhắc nhở những người hành hương đến Rome để phong chân phước cho bà: “Mẹ Teresa tìm thấy sức mạnh ở đâu để đặt mình hoàn toàn vào việc phục vụ người khác? Bà tìm thấy sức mạnh đó trong lời cầu nguyện và trong sự chiêm ngưỡng thinh lặng của Chúa Giêsu Kitô, Thánh Nhan của Người, Thánh Tâm của Người. Chính bà đã nói như vậy: ‘Hoa trái của sự thinh lặng là lời cầu nguyện; hoa trái của lời cầu nguyện là đức tin; hoa trái của đức tin là tình yêu; hoa trái của tình yêu là sự phục vụ.’ Chính lời cầu nguyện đã lấp đầy trái tim bà bằng chính sự bình an của Chúa Kitô và giúp bà tỏa sáng sự bình an đó cho người khác.” [68] Thánh Teresa không coi mình là một nhà từ thiện hay một nhà hoạt động, nhưng là một hiền thê của Chúa Kitô bị đóng đinh, phục vụ với tình yêu trọn vẹn những người anh chị em đau khổ của mình.
78. Tại Brazil, Thánh Dulce của Người Nghèo — được gọi là “thiên thần tốt lành của Bahia” — đã hiện thân cùng một tinh thần Tin Mừng với những đặc điểm của Brazil. Nhắc đến ngài và hai nữ tu khác được phong thánh trong cùng một buổi lễ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc lại tình yêu của họ dành cho những thành viên bị gạt ra ngoài lề xã hội và nói rằng các vị thánh mới “cho chúng ta thấy rằng đời sống thánh hiến là một hành trình yêu thương ở những vùng ngoại vi hiện sinh của thế giới.” [69] Sơ Dulce đã đáp lại sự bấp bênh bằng sự sáng tạo, những trở ngại bằng sự dịu dàng và những nhu cầu bằng đức tin không lay chuyển. Sơ bắt đầu bằng việc tiếp nhận người bệnh trong một chuồng gà và từ đó thành lập một trong những dịch vụ xã hội lớn nhất cả nước. Sơ đã giúp đỡ hàng ngàn người mỗi ngày, mà không bao giờ đánh mất sự dịu dàng của mình, trở nên nghèo khó với người nghèo vì tình yêu dành cho Người Nghèo Nhất. Sơ sống giản dị, cầu nguyện sốt sắng và phục vụ với niềm vui. Đức tin của Sơ không làm Sơ xa cách thế gian, nhưng lại lôi kéo Sơ sâu sắc hơn vào nỗi đau của những người bé mọn nhất trong chúng ta.
79. Chúng ta cũng có thể nhắc đến những cá nhân như Thánh Benedict Menni và các Nữ tu Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu, những người đã làm việc cùng với người khuyết tật; Thánh Charles de Foucauld trong các cộng đồng ở Sahara; Thánh Katharine Drexel phục vụ những nhóm người nghèo nhất ở Bắc Mỹ; Sơ Emmanuelle, cùng với những người thu gom rác ở khu phố Ezbet El Nakhl của Cairo; và nhiều người khác nữa. Mỗi người, theo cách riêng của mình, đã khám phá ra rằng những người nghèo nhất không chỉ là đối tượng của lòng cảm thương của chúng ta, mà còn là những người dạy dỗ Tin Mừng. Vấn đề không phải là “mang” Chúa đến với họ, mà là gặp gỡ Người giữa họ. Tất cả những tấm gương này dạy chúng ta rằng việc phục vụ người nghèo không phải là một cử chỉ được thực hiện “từ trên cao”, mà là một cuộc gặp gỡ giữa những người bình đẳng, nơi Chúa Kitô được tỏ lộ và tôn thờ. Thánh Gioan Phaolô II đã nhắc nhở chúng ta rằng “có một sự hiện diện đặc biệt của Chúa Kitô trong người nghèo, và điều này đòi hỏi Giáo hội phải ưu tiên lựa chọn họ.” [70] Vì vậy, khi Giáo hội cúi mình xuống chăm sóc người nghèo, Giáo hội đã đặt mình vào vị thế cao nhất.
Các Phong Trào Bình Dân
80. Chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, trong suốt nhiều thế kỷ lịch sử Kitô giáo, việc giúp đỡ người nghèo và đấu tranh cho quyền lợi của họ không chỉ liên quan đến cá nhân, gia đình, định chế hay cộng đồng tu trì. Đã từng có, và vẫn còn, nhiều phong trào bình dân khác nhau do giáo dân thành lập và do các nhà lãnh đạo bình dân lãnh đạo, những người thường bị nhìn với ánh mắt nghi ngờ và thậm chí bị bức hại. Tôi đang nói đến “tất cả những người hành trình, không phải với tư cách cá nhân, mà là một cộng đồng gắn bó chặt chẽ của tất cả và vì tất cả, một cộng đồng không bỏ rơi người nghèo và những người dễ bị tổn thương... Vậy thì, các nhà lãnh đạo ‘bình dân’ là những người có khả năng lôi kéo tất cả mọi người... Họ không xa lánh hay sợ hãi những người trẻ đã trải qua tổn thương hoặc mang gánh nặng của thập giá.” [71]
81. Những nhà lãnh đạo bình dân này biết rằng liên đới “cũng có nghĩa là đấu tranh chống lại các nguyên nhân mang tính cấu trúc của nghèo đói và bất bình đẳng; của tình trạng thiếu việc làm, đất đai và nhà ở; và của sự phủ nhận các quyền xã hội và lao động. Nó có nghĩa là đối diện với những tác động tàn phá của đế chế tiền bạc… Liên đới, được hiểu theo nghĩa sâu sắc nhất của nó, là một cách làm nên lịch sử, và đây chính là điều mà các phong trào bình dân đang làm.” [72] Vì lý do này, khi các định chế khác nhau suy nghĩ về nhu cầu của người nghèo, cần phải “bao gồm các phong trào bình dân và tiếp thêm sinh lực cho các cơ cấu quản lý địa phương, quốc gia và quốc tế bằng dòng năng lực đạo đức tuôn chảy từ việc bao gồm những người bị loại trừ trong việc xây dựng một vận mệnh chung”. [73] Thực thế, các phong trào bình dân mời gọi chúng ta vượt qua “ý tưởng về các chính sách xã hội là một chính sách dành cho người nghèo, nhưng không bao giờ với người nghèo và không bao giờ của người nghèo, càng không phải là một phần của một dự án có thể đưa mọi người lại với nhau”. [74] Nếu các chính trị gia và chuyên gia không lắng nghe họ, “nền dân chủ sẽ teo tóp, trở thành một khẩu hiệu, một hình thức; nó mất đi tính đại diện và trở nên vô hình, vì nó bỏ rơi người dân trong cuộc đấu tranh hàng ngày của họ cho phẩm giá, trong việc xây dựng tương lai của họ”. [75] Điều tương tự cũng phải được nói về các định chế của Giáo hội.
CHƯƠNG BỐN: MỘT LỊCH SỬ VẪN TIẾP TỤC
Thế kỷ Học thuyết Xã hội của Giáo hội
82. Sự gia tăng nhanh chóng của những thay đổi về kỹ thuật và xã hội trong hai thế kỷ qua, với tất cả những mâu thuẫn và xung đột của nó, không chỉ tác động đến cuộc sống của người nghèo mà còn trở thành đối tượng tranh luận và suy tư của họ. Các phong trào khác nhau của công nhân, phụ nữ và thanh thiếu niên, cùng với cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc, đã khơi dậy một sự trân trọng mới về phẩm giá của những người bên lề xã hội. Học thuyết Xã hội của Giáo hội cũng xuất hiện từ nền tảng này. Việc phân tích mặc khải Kitô giáo trong bối cảnh các vấn đề xã hội, lao động, kinh tế và văn hóa hiện đại sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự đóng góp của giáo dân, cả nam lẫn nữ, những người đã vật lộn với những vấn đề lớn của thời họ. Bên cạnh họ là những nam nữ tu sĩ, những người hiện thân một Giáo hội dẫn đầu theo những hướng đi mới. Sự thay đổi mang tính thời đại mà chúng ta đang trải qua càng làm cho sự tương tác liên tục giữa tín hữu và Huấn quyền Giáo hội, giữa người dân thường và chuyên gia, giữa cá nhân và tổ chức trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Ở đây, một lần nữa cần phải thừa nhận rằng thực tại được nhìn nhận tốt nhất từ bên ngoài, và người nghèo sở hữu những hiểu biết độc đáo, thiết yếu đối với Giáo hội và toàn thể nhân loại.
83. Huấn quyền Giáo hội trong 150 năm qua là một kho tàng giáo huấn quan trọng thực sự về người nghèo. Các Giám mục Rôma đã lên tiếng về những hiểu biết mới được chắt lọc thông qua quá trình phân định của Giáo hội. Ví dụ, trong Thông điệp Rerum Novarum, Đức Lêô XIII đã đề cập đến vấn đề lao động, chỉ ra điều kiện sống không thể chịu đựng được của nhiều công nhân kỹ nghệ và lập luận cho việc thiết lập một trật tự xã hội công bằng. Các vị Giáo hoàng khác cũng đã nói về chủ đề này. Thánh Gioan XXIII, trong Thông điệp Mater et Magistra (1961), đã kêu gọi công lý trên phạm vi hoàn cầu: các nước giàu không thể tiếp tục thờ ơ với các nước đang phải chịu đựng nạn đói và nghèo cùng cực; thay vào đó, họ được kêu gọi hỗ trợ các nước này một cách quảng đại bằng tất cả tài sản của mình.
84. Công đồng Vatican II đánh dấu một cột mốc quan trọng trong sự hiểu biết của Giáo hội về người nghèo trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Mặc dù chủ đề này vẫn còn nằm ngoài lề trong các văn kiện chuẩn bị, Thánh Gioan XXIII, trong Sứ điệp Phát thanh ngày 11 tháng 9 năm 1962, một tháng trước khi khai mạc Công đồng, đã kêu gọi sự chú ý đến vấn đề này. Bằng những lời đáng nhớ của ngài, “Giáo hội tự trình bày mình như mình là và như mình mong muốn: Giáo hội của mọi người và đặc biệt là Giáo hội của người nghèo.” [76] Những nỗ lực mạnh mẽ của các giám mục, nhà thần học và chuyên gia quan tâm đến việc đổi mới Giáo hội — với sự hỗ trợ của chính Thánh Gioan XXIII — đã mang lại cho Công đồng một hướng đi mới. Vị trí trung tâm của Chúa Kitô trong những xem xét này, cả trên bình diện giáo lý lẫn xã hội, sẽ chứng tỏ có tính nền tảng. Nhiều Nghị phụ Công đồng đã ủng hộ cách tiếp cận này, như Đức Hồng Y Lercaro đã diễn đạt một cách hùng hồn trong bài phát biểu của ngài vào ngày 6 tháng 12 năm 1962: “Mầu nhiệm Chúa Kitô trong Giáo hội luôn luôn là và ngày nay, theo một cách đặc biệt, là mầu nhiệm Chúa Kitô trong người nghèo.” [77] Ngài tiếp tục nói rằng, “đây không chỉ là một chủ đề trong số những chủ đề khác, nhưng theo một nghĩa nào đó, là chủ đề duy nhất của toàn bộ Công đồng.” [78] Đức Tổng Giám Mục Bologna, khi chuẩn bị văn bản cho bài phát biểu này, đã lưu ý như sau: “Đây là giờ của người nghèo, của hàng triệu người nghèo trên khắp thế giới. Đây là giờ của mầu nhiệm Giáo hội là mẹ của người nghèo. Đây là giờ của mầu nhiệm Chúa Kitô, hiện diện đặc biệt trong người nghèo.” [79] Ngày càng có cảm giác cần phải có một hình ảnh mới về Giáo hội, một hình ảnh đơn giản và nghiêm túc hơn, bao gồm toàn thể dân Chúa và sự hiện diện của Giáo hội trong lịch sử. Một Giáo hội giống Chúa của mình hơn các quyền lực thế gian và nỗ lực thúc đẩy cam kết cụ thể của toàn thể nhân loại trong việc giải quyết vấn đề nghèo đói to lớn trên thế giới.
85. Khi khai mạc khóa họp thứ hai của Công đồng, Thánh Phaolô VI đã tiếp nối mối quan tâm này do vị tiền nhiệm của ngài nêu ra, cụ thể là Giáo hội đặc biệt quan tâm đến “người nghèo, người túng thiếu, người đau khổ, người đói khát, người đau khổ, người bị giam cầm, nghĩa là Giáo hội hướng đến toàn thể nhân loại đang đau khổ và than khóc: Giáo hội là một phần của họ nhờ quyền Tin Mừng.” [80] Trong buổi tiếp kiến chung ngày 11 tháng 11 năm 1964, ngài đã chỉ ra rằng “người nghèo là đại diện của Chúa Kitô,” và so sánh hình ảnh Chúa nơi người nghèo với hình ảnh được thấy nơi Đức Giáo Hoàng. Ngài khẳng định chân lý này bằng những lời sau: “Hình ảnh Chúa Kitô nơi người nghèo mang tính phổ quát; mỗi người nghèo đều phản ảnh Chúa Kitô; hình ảnh của Đức Giáo Hoàng mang tính bản thân... Người nghèo và Thánh Phêrô có thể là một trong cùng một con người, được khoác lên mình hình ảnh kép; hình ảnh của sự nghèo khó và hình ảnh của quyền bính.” [81] Bằng cách này, mối liên hệ nội tại giữa Giáo hội và người nghèo đã được diễn tả một cách biểu tượng và rõ ràng chưa từng có.
86. Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, dựa trên giáo huấn của các Giáo phụ, mạnh mẽ tái khẳng định mục đích phổ quát của của cải trần gian và chức năng xã hội của tài sản phát sinh từ đó. Hiến chế tuyên bố rằng “Thiên Chúa đã định sẵn trái đất và tất cả những gì chứa đựng trong đó cho mọi người và mọi quốc gia, để mọi tạo vật được chia sẻ công bằng cho toàn thể nhân loại dưới sự hướng dẫn của công lý được điều hòa bởi đức ái… Khi sử dụng của cải, con người phải coi của cải vật chất mà họ sở hữu hợp pháp không chỉ là của riêng mình mà còn là của chung cho người khác, theo nghĩa là chúng có thể mang lại lợi ích cho cả người khác lẫn chính họ. Do đó, mọi người đều có quyền sở hữu một lượng của cải trần gian vừa đủ cho bản thân và gia đình… Những người trong hoàn cảnh cùng cực có quyền lấy những gì họ cần từ của cải của người khác… Theo bản chất của nó, quyền tư hữu có một chiều kích xã hội dựa trên luật mục đích chung của của cải trần gian. Bất cứ khi nào khía cạnh xã hội bị lãng quên, quyền sở hữu thường có thể trở thành đối tượng của lòng tham và là nguồn gốc của sự hỗn loạn nghiêm trọng.” [82] Niềm tin này đã được Thánh Phaolô VI nhắc lại trong Thông điệp Populorum Progressio của ngài. Trong đó, chúng ta đọc thấy rằng không ai được phép “chiếm đoạt của cải dư thừa chỉ để sử dụng riêng cho mình khi những người khác thiếu những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống.” [83] Trong bài phát biểu trước Liên Hiệp Quốc, Đức Phaolô VI đã phát biểu với tư cách là người bênh vực người nghèo [84] và thúc giục cộng đồng quốc tế xây dựng một thế giới liên đới.
87. Với Thánh Gioan Phaolô II, mối quan hệ ưu tiên của Giáo hội với người nghèo đã được củng cố, đặc biệt là từ quan điểm giáo lý. Giáo huấn của ngài nhìn thấy trong việc lựa chọn người nghèo một “hình thức ưu tiên đặc biệt trong việc thực hành bác ái Kitô giáo, điều mà toàn thể truyền thống của Giáo hội làm chứng.” [85] Trong Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis, ngài tiếp tục nói: “Ngày nay, hơn nữa, xét theo chiều kích hoàn cầu mà vấn đề xã hội đã đảm nhận, tình yêu ưu tiên dành cho người nghèo này, và những quyết định mà nó gợi hứng cho chúng ta, không thể không bao gồm vô số người đói khát, người túng thiếu, người vô gia cư, những người không được chăm sóc y tế và, trên hết, những người không có hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn. Không thể không tính đến sự hiện hữu của những thực tại này. Làm ngơ chúng có nghĩa là trở nên giống như ‘người giàu có’ giả vờ không biết đến người ăn xin Ladarô nằm trước cổng nhà mình (x. Lc 16,19-31).” [86] Giáo huấn của Thánh Gioan Phaolô II về lao động cũng rất quan trọng để chúng ta xem xét vai trò tích cực mà người nghèo phải đóng trong công cuộc đổi mới Giáo hội và xã hội, từ đó bỏ lại phía sau một số “chủ nghĩa cha chú” chỉ giới hạn ở việc đáp ứng những nhu cầu cấp thiết của người nghèo. Trong Thông điệp Laborem Exercens, ngài đã thẳng thắn tuyên bố rằng “lao động của con người là chìa khóa, có lẽ là chìa khóa thiết yếu, cho toàn bộ vấn đề xã hội”. [87]
88. Giữa những cuộc khủng hoảng đa dạng đánh dấu sự khởi đầu của thiên niên kỷ thứ ba, giáo huấn của Đức Bênêđictô XVI đã có một bước ngoặt chính trị rõ rệt hơn. Do đó, trong Thông điệp Caritas in Veritate, ngài khẳng định rằng “chúng ta càng nỗ lực bảo đảm công ích tương ứng với những nhu cầu thực sự của người lân cận, thì chúng ta càng yêu thương họ một cách hữu hiệu”. [88] Hơn nữa, ngài nhận xét rằng “nạn đói không phụ thuộc nhiều vào việc thiếu thốn vật chất mà là vào việc thiếu hụt các nguồn lực xã hội, trong đó quan trọng nhất là các nguồn lực định chế. Nói cách khác, điều còn thiếu là một mạng lưới các tổ chức kinh tế có khả năng đảm bảo được tiếp cận thường xuyên với việc đủ lương thực và nước uống cho nhu cầu dinh dưỡng, đồng thời có khả năng giải quyết các nhu cầu và điều cần thiết đệ nhất đẳng phát sinh từ các cuộc khủng hoảng lương thực thực sự, dù là do nguyên nhân tự nhiên hay sự vô trách nhiệm về mặt chính trị, trên phạm vi quốc gia và quốc tế.” [89]
89. Đức Thánh Cha Phanxicô nhận thấy rằng trong những thập niên gần đây, bên cạnh những giáo huấn của các Giám mục Rôma, các Hội đồng Giám mục quốc gia và khu vực ngày càng lớn tiếng. Chẳng hạn, ngài có thể đích thân chứng thực cam kết đặc biệt của hàng giám mục Mỹ Latinh trong việc suy nghĩ lại về mối quan hệ của Giáo hội với người nghèo. Ngay sau Công đồng, ở hầu hết các quốc gia Mỹ Latinh, Giáo hội nhận thức sâu sắc về nhu cầu đồng nhất với người nghèo và tích cực tham gia vào việc bảo đảm tự do cho họ. Giáo hội xúc động trước số đông người nghèo đang phải chịu cảnh thất nghiệp, thiếu việc làm, lương bổng bất công và điều kiện sống dưới mức tiêu chuẩn. Sự tử đạo của Thánh Oscar Romero, Tổng Giám mục San Salvador, là một chứng tá mạnh mẽ và là nguồn cảm hứng cho Giáo hội. Ngài đã đặt hoàn cảnh của đại đa số giáo dân của mình vào đó và biến họ thành trung tâm trong tầm nhìn mục vụ của mình. Các Hội nghị Giám mục Mỹ Latinh được tổ chức tại Medellín, Puebla, Santo Domingo và Aparecida cũng là những sự kiện quan trọng đối với đời sống của toàn thể Giáo hội. Đối với tôi, sau nhiều năm phục vụ với tư cách là nhà truyền giáo ở Peru, tôi vô cùng biết ơn tiến trình phân định của Giáo hội này, mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã khôn ngoan liên kết với tiến trình của các Giáo hội địa phương khác, đặc biệt là các Giáo hội ở Nam bán cầu. Giờ đây, tôi muốn đề cập đến hai chủ đề cụ thể trong giáo huấn giám mục này.
Các cấu trúc tội lỗi tạo ra nghèo đói và bất bình đẳng cực độ
90. Tại Medellín, các giám mục đã tuyên bố ủng hộ một lựa chọn ưu tiên cho người nghèo: “Chúa Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta, không chỉ yêu thương người nghèo, mà ‘vốn giàu có, Người đã trở nên nghèo khó.’ Người đã sống một cuộc đời nghèo khó, tập trung sứ mệnh của mình vào việc rao giảng sự giải phóng cho họ, và thành lập Giáo hội của Người như một dấu chỉ của sự nghèo khó này giữa chúng ta… Sự nghèo khó mà rất nhiều anh chị em chúng ta phải chịu đựng đang kêu gào công lý, tình liên đới, chứng tá, cam kết và nỗ lực hướng đến việc chấm dứt nó, để sứ mệnh cứu độ mà Chúa Kitô giao phó có thể được hoàn thành trọn vẹn.” [90] Các giám mục đã mạnh mẽ tuyên bố rằng, để hoàn toàn trung thành với ơn gọi của mình, Giáo hội không chỉ phải chia sẻ hoàn cảnh của người nghèo, mà còn phải sát cánh bên họ và tích cực hoạt động cho sự phát triển toàn diện của họ. Trước tình trạng nghèo đói ngày càng trầm trọng ở Mỹ Latinh, Hội nghị Puebla đã xác nhận quyết định Medellín ủng hộ một lựa chọn thẳng thắn và mang tính tiên tri cho người nghèo và mô tả các cấu trúc bất công là một “tội lỗi xã hội”.
91. Bác ái có sức mạnh thay đổi thực tại; nó là một động lực đích thực cho sự thay đổi trong lịch sử. Nó là nguồn cảm hứng và dẫn dắt mọi nỗ lực “giải quyết các nguyên nhân cấu trúc của nghèo đói” [91] và phải làm như vậy một cách cấp bách. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ thấy ngày càng nhiều “chính trị gia có khả năng đối thoại chân thành và hiệu quả nhằm chữa lành gốc rễ sâu xa nhất – chứ không chỉ là vẻ bề ngoài – của những tệ nạn trên thế giới của chúng ta”. [92] Bởi vì “vấn đề là lắng nghe tiếng kêu của toàn thể các dân tộc, những dân tộc nghèo nhất trên trái đất”. [93]
92. Do đó, chúng ta phải tiếp tục lên án “chế độ độc tài của một nền kinh tế giết người”, và thừa nhận rằng “trong khi thu nhập của một nhóm thiểu số đang tăng theo cấp số nhân, thì khoảng cách giữa đại đa số và sự thịnh vượng mà số ít may mắn được hưởng cũng tăng theo cấp số nhân. Sự mất cân bằng này là kết quả của các ý thức hệ luôn bảo vệ quyền tự chủ tuyệt đối của thị trường và đầu cơ tài chính. Do đó, chúng bác bỏ quyền của các quốc gia, vốn luôn cảnh giác vì lợi ích chung, được thực hiện bất cứ hình thức kiểm soát nào. Một chế độ chuyên chế mới đang ra đời, vô hình và thường là ảo, đơn phương và không ngừng áp đặt luật lệ và quy tắc của riêng mình.” [94] Không thiếu các lý thuyết cố gắng biện minh cho tình trạng hiện tại hoặc giải thích rằng tư duy kinh tế đòi hỏi chúng ta phải chờ đợi các lực lượng thị trường vô hình giải quyết mọi thứ. Tuy nhiên, phẩm giá của mỗi con người phải được tôn trọng hôm nay, chứ không phải ngày mai, và sự nghèo đói cùng cực của tất cả những người bị tước đoạt phẩm giá này nên luôn đè nặng lên lương tâm chúng ta.
93. Trong Thông điệp Dilexit Nos, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc nhở chúng ta rằng tội lỗi xã hội củng cố một “cấu trúc tội lỗi” trong xã hội, và thường là “một phần của tư duy thống trị vốn coi những gì chỉ là ích kỷ và thờ ơ là bình thường hoặc hợp lý. Điều này sau đó dẫn đến sự tha hóa xã hội.” [95] Khi đó, việc phớt lờ người nghèo và sống như thể họ không hiện hữu trở nên bình thường. Tương tự, việc tổ chức nền kinh tế theo cách đòi hỏi quần chúng phải hy sinh để phục vụ nhu cầu của những người có quyền lực dường như cũng hợp lý. Trong khi đó, người nghèo chỉ được hứa hẹn một vài “giọt” nhỏ giọt, cho đến khi cuộc khủng hoảng toàn cầu tiếp theo đưa mọi thứ trở lại vị trí cũ. Một hình thức tha hóa thực sự xuất hiện khi chúng ta giới hạn bản thân vào những lời bào chữa lý thuyết thay vì tìm cách giải quyết những vấn đề cụ thể của những người đau khổ. Thánh Gioan Phaolô II đã nhận định rằng, “một xã hội bị tha hóa nếu các hình thức tổ chức xã hội, sản xuất và tiêu dùng của nó khiến việc trao ban bản thân và thiết lập tình liên đới giữa mọi người trở nên khó khăn hơn.” [96]
94. Chúng ta cần ngày càng cam kết giải quyết các nguyên nhân mang tính cấu trúc của nghèo đói. Đây là một nhu cầu cấp thiết “không thể trì hoãn, không chỉ vì lý do thực dụng là tính cấp thiết của nó đối với trật tự xã hội tốt đẹp, mà còn bởi vì xã hội cần được chữa khỏi một căn bệnh đang làm suy yếu và gây khó khăn cho nó, và điều này chỉ có thể dẫn đến những cuộc khủng hoảng mới. Các dự án phúc lợi, vốn đáp ứng một số nhu cầu cấp thiết, nên chỉ được coi là những giải pháp tạm thời.” [97] Tôi chỉ có thể khẳng định một lần nữa rằng bất bình đẳng “là gốc rễ của các tệ nạn xã hội.” [98] Thật vậy, “thường thấy rõ ràng rằng, trên thực tế, quyền con người không bình đẳng cho tất cả mọi người.” [99]
95. Thực tế là, “mô hình hiện thời, với sự nhấn mạnh vào thành công và khả năng tự lập, dường như không ủng hộ việc đầu tư vào các nỗ lực giúp đỡ những người chậm chạp, yếu đuối hoặc kém tài năng tìm kiếm cơ hội trong cuộc sống.” [100] Những câu hỏi tương tự cứ liên tục xuất hiện trong đầu chúng ta. Liệu điều này có nghĩa là những người kém tài năng không phải là con người? Hay những người yếu đuối không có cùng phẩm giá như chúng ta? Liệu những người sinh ra với ít cơ hội hơn có giá trị thấp hơn với tư cách là con người không? Liệu họ có nên chỉ giới hạn bản thân trong việc sống còn? Giá trị của xã hội chúng ta, và tương lai của chính chúng ta, phụ thuộc vào câu trả lời mà chúng ta đưa ra cho những câu hỏi này. Hoặc chúng ta lấy lại phẩm giá đạo đức và tinh thần, hoặc chúng ta sẽ rơi vào vũng lầy. Nếu chúng ta không dừng lại và xem xét vấn đề này một cách nghiêm túc, chúng ta sẽ tiếp tục, công khai hoặc lén lút, “hợp pháp hóa mô hình phân phối hiện tại, nơi một nhóm thiểu số tin rằng họ có quyền tiêu thụ theo cách không bao giờ có thể phổ cập hóa, bởi vì hành tinh này thậm chí không thể chứa được chất thải của loại tiêu thụ đó.” [101]
96. Một vấn đề mang tính cấu trúc không thể giải quyết một cách thực tế từ trên xuống và cần được giải quyết càng nhanh càng tốt liên quan đến địa điểm, khu phố, nhà cửa và thành phố nơi người nghèo sinh sống và dành thời gian của họ. Tất cả chúng ta đều trân trọng vẻ đẹp của “những thành phố vượt qua sự ngờ vực tê liệt, hòa nhập những người khác biệt và biến chính sự hòa nhập này thành một yếu tố phát triển mới! Thật hấp dẫn biết bao những thành phố, ngay cả trong thiết kế kiến trúc của chúng, đầy những không gian kết nối, liên hệ và ủng hộ việc công nhận lẫn nhau!” [102] Tuy nhiên, đồng thời, “chúng ta không thể không xem xét những tác động của sự suy thoái môi trường, các mô hình phát triển hiện tại và văn hóa vứt bỏ đối với cuộc sống của con người.” [103] Bởi vì “sự suy thoái của môi trường và xã hội ảnh hưởng đến những người dễ bị tổn thương nhất trên hành tinh.” [104]
97. Tất cả các thành viên của dân Chúa có bổn phận phải lên tiếng, mặc dù bằng những cách khác nhau, để chỉ ra và tố cáo những vấn đề mang tính cấu trúc như vậy, ngay cả khi phải trả giá bằng việc tỏ ra ngu ngốc hoặc ngây thơ. Các cấu trúc bất công cần được nhận ra và xóa bỏ bằng sức mạnh của điều thiện, bằng cách thay đổi tư duy, nhưng cũng cần, với sự trợ giúp của khoa học và kỹ thuật, bằng cách phát triển các chính sách hiệu quả cho sự thay đổi xã hội. Không bao giờ được quên rằng sứ điệp Tin Mừng không chỉ liên quan đến mối quan hệ bản thân của một cá nhân với Chúa, mà còn liên quan đến một điều gì đó lớn lao hơn: “Nước Thiên Chúa (x. Lc 4:43); đó là về việc yêu mến Thiên Chúa, Đấng đang ngự trị trong thế giới của chúng ta. Trong chừng mực Người ngự trị trong chúng ta, đời sống xã hội sẽ là môi trường cho tình huynh đệ phổ quát, công lý, hòa bình và phẩm giá. Do đó, cả lời rao giảng và đời sống Kitô giáo đều phải tác động đến xã hội. Chúng ta đang tìm kiếm Vương quốc Thiên Chúa.” [105]
98. Cuối cùng, trong một văn kiện ban đầu không được mọi người đón nhận nồng nhiệt, chúng ta tìm thấy một suy tư vẫn còn giá trị thời sự cho đến ngày nay: “Những người bảo vệ chính thống đôi khi bị cáo buộc là thụ động, khoan dung, hoặc đồng lõa đáng trách liên quan đến những tình trạng bất công không thể chấp nhận được và các chế độ chính trị kéo dài chúng. Sự hoán cải tâm linh, tình yêu mãnh liệt dành cho Thiên Chúa và tha nhân, lòng nhiệt thành vì công lý và hòa bình, ý nghĩa Tin Mừng về người nghèo và sự nghèo khó, là những điều đòi hỏi nơi mọi người, đặc biệt là các mục tử và những người có trách nhiệm. Mối quan tâm đến sự tinh tuyền của đức tin đòi hỏi phải đưa ra lời đáp trả bằng chứng tá hữu hiệu trong việc phục vụ tha nhân, đặc biệt là người nghèo và người bị áp bức, theo một cách thức thần học toàn diện.” [106]
Người nghèo như những chủ thể
99. Đời sống của Giáo hội hoàn vũ đã được làm phong phú thêm nhờ sự phân định của Hội nghị Aparecida, trong đó các giám mục Mỹ Latinh đã làm rõ rằng lựa chọn ưu tiên của Giáo hội dành cho người nghèo “ngầm ẩn trong đức tin Kitô học vào Thiên Chúa, Đấng đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để làm cho chúng ta trở nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Người”. [107] Văn kiện Aparecida đặt sứ mạng của Giáo hội vào bối cảnh hiện tại của một thế giới hoàn cầu hóa, nơi đang bị đánh dấu bởi những mất cân bằng mới và nghiêm trọng. [108] Trong Sứ điệp Kết thúc, các giám mục đã viết: “Những khác biệt rõ rệt giữa người giàu và người nghèo mời gọi chúng ta làm việc với cam kết lớn hơn để trở thành những môn đệ có khả năng chia sẻ bàn tiệc sự sống, bàn tiệc của tất cả con cái Chúa Cha, một bàn tiệc cởi mở và bao gồm, không ai bị loại trừ. Do đó, chúng tôi tái khẳng định lựa chọn ưu tiên và mang tính Ti Mừng của chúng tôi dành cho người nghèo”. [109]
100. Đồng thời, Văn kiện, tiếp nối một chủ đề đã được đề cập trong các Hội nghị trước đây của hàng Giám mục Mỹ Latinh, nhấn mạnh đến sự cần thiết phải xem các cộng đồng bị gạt ra ngoài lề xã hội như những chủ thể có khả năng tạo ra nền văn hóa riêng của họ, chứ không phải như những đối tượng bác ái của người khác. Điều này có nghĩa là các cộng đồng này có quyền đón nhận Tin Mừng, cử hành và truyền đạt đức tin của mình phù hợp với các giá trị hiện diện trong nền văn hóa của chính họ. Kinh nghiệm về nghèo đói của họ cho họ khả năng nhận ra những khía cạnh của thực tại mà người khác không thể nhìn thấy; vì lý do này, xã hội cần lắng nghe họ. Điều tương tự cũng đúng với Giáo hội, vốn nên nhìn nhận tích cực việc thực hành đức tin “phổ thông” của họ. Một đoạn văn hay từ Văn kiện Aparecida có thể giúp chúng ta suy ngẫm về điểm này và đưa ra câu trả lời thích hợp: “Chỉ có sự gần gũi khiến chúng ta trở thành bạn bè mới có thể trân trọng sâu sắc các giá trị của người nghèo ngày nay, những khát vọng chính đáng của họ, và cách sống đức tin của chính họ… Ngày qua ngày, người nghèo trở thành tác nhân của công cuộc truyền giáo và thăng tiến con người toàn diện: họ giáo dục con cái mình về đức tin, tham gia vào tình liên đới liên tục giữa người thân và hàng xóm, không ngừng tìm kiếm Thiên Chúa, và ban sức sống cho cuộc lữ hành của Giáo Hội. Dưới ánh sáng Tin Mừng, chúng ta nhận ra phẩm giá vô biên và giá trị thánh thiêng của họ trong mắt Chúa Kitô, Đấng đã nghèo khó như họ và bị loại trừ giữa họ. Dựa trên kinh nghiệm đức tin này, chúng ta sẽ cùng họ bảo vệ quyền lợi của họ.” [110]
101. Tất cả những điều này hàm chứa một khía cạnh của việc lựa chọn người nghèo mà chúng ta phải luôn ghi nhớ, đó là nó đòi hỏi chúng ta phải có thái độ quan tâm đến người khác. “Sự quan tâm yêu thương này là khởi đầu của một mối quan tâm thực sự đến con người của họ, thúc đẩy tôi tìm kiếm lợi ích cho họ một cách hữu hiệu. Điều này hàm chứa việc trân trọng người nghèo trong lòng tốt của họ, trong kinh nghiệm sống của họ, trong văn hóa của họ, và trong cách sống đức tin của họ. Tình yêu đích thực luôn mang tính chiêm nghiệm, và cho phép chúng ta phục vụ người khác không phải vì nhu cầu hay phù phiếm, nhưng đúng hơn là bởi vì người ấy đẹp hơn vẻ bề ngoài… Chỉ trên nền tảng của sự gần gũi thực sự và chân thành này, chúng ta mới có thể đồng hành đúng đắn với người nghèo trên con đường giải phóng họ.” [111] Vì lý do này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến tất cả những ai đã chọn sống giữa người nghèo, không chỉ thỉnh thoảng đến thăm họ mà còn sống với họ như họ vẫn sống. Một quyết định như vậy nên được coi là một trong những hình thức cao nhất của đời sống Tin Mừng.
102. Dưới ánh sáng này, rõ ràng là tất cả chúng ta phải “để mình được người nghèo truyền bá Tin Mừng” [112] và nhìn nhận “sự khôn ngoan huyền nhiệm mà Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta qua họ.” [113] Lớn lên trong hoàn cảnh bấp bênh, học cách sinh tồn trong những điều kiện khắc nghiệt nhất, tin tưởng vào Thiên Chúa với sự đảm bảo rằng không ai khác coi trọng họ, và giúp đỡ lẫn nhau trong những khoảnh khắc đen tối nhất, người nghèo đã học được nhiều điều mà họ giấu kín trong lòng. Những ai trong chúng ta chưa từng có những trải nghiệm tương tự về cuộc sống theo cách này chắc chắn có thể học được nhiều điều từ nguồn khôn ngoan là kinh nghiệm của người nghèo. Chỉ bằng cách liên hệ những lời than phiền của chúng ta với những đau khổ và thiếu thốn của họ, chúng ta mới có thể trải nghiệm một sự khiển trách có thể thách thức chúng ta đơn giản hóa cuộc sống của mình.
CHƯƠNG NĂM: MỘT THÁCH THỨC LIÊN TỤC
103. Tôi đã chọn nhắc lại lịch sử lâu đời về việc Giáo hội chăm sóc người nghèo và với người nghèo để làm rõ rằng điều này luôn là một phần trọng tâm trong đời sống của Giáo hội. Thật vậy, việc chăm sóc người nghèo là một phần của Truyền thống vĩ đại của Giáo hội, như một ngọn hải đăng của ánh sáng Tin Mừng để soi sáng tâm hồn và dẫn dắt các quyết định của Kitô hữu trong mọi thời đại. Đó là lý do tại sao chúng ta phải cảm thấy có trách nhiệm mời gọi mọi người chia sẻ ánh sáng và cuộc sống nảy sinh từ việc nhận ra Chúa Kitô nơi khuôn mặt của những người đau khổ và những người túng thiếu. Tình yêu dành cho người nghèo là một yếu tố thiết yếu trong lịch sử Thiên Chúa đối xử với chúng ta; tình yêu này xuất phát từ trái tim của Giáo hội như một lời kêu gọi liên tục đến trái tim của các tín hữu, cả cá nhân lẫn cộng đồng. Là Thân thể Chúa Kitô, Giáo hội trải nghiệm cuộc sống của người nghèo như chính “xác thịt” của mình, vì họ có một vị trí đặc quyền trong dân Thiên Chúa đang lữ hành. Do đó, tình yêu dành cho người nghèo – dù sự nghèo khó của họ có hình thức nào – là dấu ấn Tin mừng của một Giáo hội trung thành với trái tim của Thiên Chúa. Thật vậy, một trong những ưu tiên của mọi phong trào đổi mới trong Giáo hội luôn là mối quan tâm ưu tiên dành cho người nghèo. Theo nghĩa này, công việc của Giáo hội với người nghèo khác biệt về nguồn cảm hứng và phương pháp so với công việc của bất cứ tổ chức nhân đạo nào khác.
104. Không một Kitô hữu nào có thể chỉ xem người nghèo như một vấn đề xã hội; họ là một phần của “gia đình” chúng ta. Họ là “một người trong chúng ta”. Mối quan hệ của chúng ta với người nghèo cũng không thể bị giản lược thành một hoạt động hay chức năng khác của Giáo hội. Theo Văn kiện Aparecida, “chúng ta được mời gọi dành thời gian cho người nghèo, dành cho họ sự quan tâm yêu thương, lắng nghe họ với sự quan tâm, sát cánh bên họ trong những lúc khó khăn, chọn dành hàng giờ, hàng tuần hoặc hàng năm trời với họ, và nỗ lực biến đổi hoàn cảnh của họ, bắt đầu từ chính họ. Chúng ta không thể quên rằng đây chính là điều Chúa Giêsu đã đề ra trong hành động và lời nói của Người.” [114]
Người Samaritanô nhân hậu, một lần nữa
105. Nền văn hóa thống trị vào đầu thiên niên kỷ này muốn chúng ta bỏ mặc người nghèo cho số phận của họ và coi họ không đáng được quan tâm, chứ đừng nói đến việc tôn trọng họ. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Thông điệp Fratelli Tutti, đã thách thức chúng ta suy gẫm về dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu (x. Lc 10:25-37), dụ ngôn trình bày những phản ứng khác nhau của những người chứng kiến cảnh một người bị thương nằm bên đường. Chỉ có Người Samaritanô nhân hậu dừng lại và chăm sóc người ấy. Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục hỏi mỗi người chúng ta: “Bạn đồng nhất với ai trong số những người này? Câu hỏi này, tuy thẳng thắn, nhưng lại rất trực tiếp và sâu sắc. Bạn giống với nhân vật nào trong số họ? Chúng ta cần thừa nhận rằng chúng ta luôn bị cám dỗ bỏ mặc người khác, đặc biệt là những người yếu đuối. Chúng ta hãy thừa nhận rằng, bất chấp tất cả những tiến bộ mà chúng ta đã đạt được, chúng ta vẫn còn “mù chữ” khi nói đến việc đồng hành, chăm sóc và hỗ trợ những thành viên yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất trong các xã hội phát triển của chúng ta. Chúng ta đã quen với việc nhìn đi hướng khác, lướt qua, và lờ đi những tình huống cho đến khi chúng ảnh hưởng trực tiếp đến chúng ta.” [115]
106. Điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra rằng câu chuyện về Người Samaritanô nhân hậu vẫn còn mang tính thời sự cho đến ngày nay. “Nếu tôi gặp một người ngủ ngoài trời vào một đêm lạnh giá, tôi có thể coi người đó là một sự phiền toái, một kẻ lười biếng, một chướng ngại vật trên đường đi của tôi, một cảnh tượng đáng lo ngại, một vấn đề mà các chính trị gia phải giải quyết, hoặc thậm chí là một mảnh rác thải bừa bãi nơi công cộng. Hoặc tôi có thể đáp lại bằng đức tin và lòng bác ái, và nhìn thấy ở người này một con người có phẩm giá giống hệt tôi, một tạo vật được Chúa Cha yêu thương vô bờ bến, một hình ảnh của Thiên Chúa, một người anh chị em được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc. Đó chính là bản chất của một Kitô hữu! Liệu sự thánh thiện có thể được hiểu bằng cách nào đó ngoài sự nhận thức sống động về phẩm giá này của mỗi con người?” [116] Người Samaritanô nhân hậu đã làm gì?
107. Những câu hỏi này càng trở nên cấp bách hơn khi xét đến một khiếm khuyết nghiêm trọng hiện diện trong đời sống xã hội chúng ta, cũng như trong các cộng đồng Kitô giáo của chúng ta. Nhiều hình thức thờ ơ mà chúng ta thấy xung quanh thực chất là “dấu hiệu của một cách tiếp cận cuộc sống đang lan rộng theo nhiều cách thức tinh vi khác nhau. Hơn nữa, vì chúng ta bận tâm đến những nhu cầu của riêng mình, việc nhìn thấy một người đang đau khổ khiến chúng ta lo lắng. Nó khiến chúng ta bất an, vì chúng ta không có thời gian để lãng phí cho những vấn đề của người khác. Đây là những triệu chứng của một xã hội không lành mạnh. Một xã hội tìm kiếm sự thịnh vượng nhưng lại quay lưng lại với đau khổ. Xin cho chúng ta đừng sa vào vực sâu như vậy! Chúng ta hãy nhìn vào tấm gương của Người Samaritanô nhân hậu.” [117] Những lời cuối cùng của dụ ngôn Tin Mừng — “Hãy đi và làm như vậy” (Lc 10:37) — nói lên một mệnh lệnh mà mỗi Kitô hữu phải ghi nhớ hằng ngày.
Một thách đố không thể tránh khỏi cho Giáo hội ngày nay
108. Vào một thời điểm đặc biệt quan trọng trong lịch sử Giáo hội Rôma, khi các định chế đế quốc đang sụp đổ dưới áp lực của những cuộc xâm lược man rợ, Đức Thánh Giáo hoàng Grêgôriô Cả cảm thấy cần phải nhắc nhở các tín hữu: “Mỗi phút chúng ta có thể tìm thấy một Ladarô nếu chúng ta tìm kiếm ông ấy, và mỗi ngày, ngay cả khi không tìm kiếm, chúng ta vẫn thấy một người ở trước cửa nhà mình. Bây giờ, những người ăn xin vây quanh chúng ta, cầu xin bố thí; sau này họ sẽ là những người bênh vực chúng ta... Vì vậy, đừng bỏ lỡ cơ hội làm việc bác ái; đừng tích trữ những điều tốt đẹp mà bạn đang có mà không sử dụng.” [118] Đức Grêgôriô đã dũng cảm lên án các hình thức định kiến đương thời đối với người nghèo, bao gồm cả niềm tin rằng họ phải chịu trách nhiệm về hoàn cảnh của mình: “Bất cứ khi nào bạn thấy người nghèo làm điều gì đó đáng chê trách, đừng khinh thường hoặc hạ thấp uy tín của họ, vì ngọn lửa của sự nghèo đói có lẽ đang thanh tẩy những hành động tội lỗi của họ, dù chúng có nhỏ đến đâu.” [119] Không hiếm khi, sự thịnh vượng của chúng ta có thể khiến chúng ta mù quáng trước nhu cầu của người khác, và thậm chí khiến chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc và sự viên mãn của mình chỉ phụ thuộc vào chính mình, tách biệt khỏi người khác. Trong những trường hợp như vậy, người nghèo có thể đóng vai trò như những người thầy thầm lặng cho chúng ta, khiến chúng ta ý thức được sự kiêu ngạo của mình và gieo vào lòng chúng ta một tinh thần khiêm nhường chính đáng.
109. Mặc dù đúng là người giàu quan tâm đến người nghèo, nhưng điều ngược lại cũng không kém phần đúng. Đây là một sự thật đáng chú ý được toàn bộ truyền thống Kitô giáo xác nhận. Cuộc sống thực sự có thể được thay đổi khi nhận ra rằng người nghèo có nhiều điều để dạy chúng ta về Tin mừng và những đòi hỏi của nó. Bằng chứng từ thầm lặng của họ, họ khiến chúng ta đối diện với sự bấp bênh của cuộc sống. Ví dụ, người cao tuổi, với sự yếu đuối về thể chất, nhắc nhở chúng ta về sự mong manh của chính mình, ngay cả khi chúng ta cố gắng che giấu nó đằng sau sự thịnh vượng và vẻ bề ngoài của mình. Người nghèo cũng nhắc nhở chúng ta rằng thái độ kiêu ngạo hung hăng mà chúng ta thường dùng để đối diện với những khó khăn của cuộc sống là vô căn cứ như thế nào. Họ nhắc nhở chúng ta rằng cuộc sống dường như an toàn và chắc chắn của chúng ta có thể bấp bênh và trống rỗng như thế nào. Ở đây một lần nữa, Thánh Grêgôriô Cả có nhiều điều muốn nói với chúng ta: “Đừng ai tự cho mình là an toàn khi nói rằng: ‘Tôi không ăn cắp của người khác, nhưng chỉ đơn giản là hưởng thụ những gì thuộc về mình’. Người giàu không bị trừng phạt vì đã lấy của người khác, nhưng vì, trong khi sở hữu khối tài sản kếch xù như vậy, ông ta đã trở nên nghèo nàn về mặt nội tâm. Đây thực sự là lý do khiến ông ta bị kết án xuống hỏa ngục: trong sự thịnh vượng của mình, ông ta không còn ý thức về công lý; sự giàu có mà ông ta nhận được khiến ông ta kiêu ngạo và đánh mất hết lòng cảm thương.” [120]
110. Đối với chúng ta, những người Kitô hữu, vấn đề người nghèo dẫn đến chính cốt lõi của đức tin. Thánh Gioan Phaolô II đã dạy rằng việc ưu tiên lựa chọn người nghèo, tức là tình yêu thương của Giáo hội dành cho người nghèo, “là điều thiết yếu đối với Giáo hội và là một phần trong truyền thống liên tục của Giáo hội, và thúc đẩy Giáo hội chú ý đến một thế giới mà nghèo đói đang đe dọa lan tràn trên diện rộng bất chấp những tiến bộ về kỹ thuật và kinh tế.” [121] Đối với các Kitô hữu, người nghèo không phải là một phạm trù xã hội học, mà chính là “xác thịt” của Chúa Kitô. Chỉ tuyên xưng giáo lý về sự Nhập Thể của Thiên Chúa một cách chung chung thì chưa đủ. Để thực sự bước vào mầu nhiệm cao cả này, chúng ta cần hiểu rõ rằng Chúa đã mặc lấy một xác thịt đói khát, đau yếu và tù đày. “Một Giáo Hội nghèo vì người nghèo bắt đầu bằng việc vươn tới xác thịt của Chúa Kitô. Nếu chúng ta vươn tới xác thịt của Chúa Kitô, chúng ta bắt đầu hiểu được điều gì đó, hiểu được sự nghèo khó này, sự nghèo khó của Chúa, thực sự là gì; và điều này không hề dễ dàng.” [122]
111. Tự bản chất, Giáo Hội liên đới với người nghèo, người bị loại trừ, người bị gạt ra ngoài lề xã hội và tất cả những ai bị xã hội ruồng bỏ. Người nghèo là trung tâm của Giáo Hội bởi vì “niềm tin của chúng ta vào Chúa Kitô, Đấng đã trở nên nghèo khó, và luôn gần gũi với người nghèo và người bị ruồng bỏ, là nền tảng cho mối quan tâm của chúng ta đối với sự phát triển toàn diện của những thành viên bị lãng quên nhất trong xã hội.” [123] Trong tâm hồn chúng ta, chúng ta gặp thấy “nhu cầu phải lắng nghe lời kêu gọi này, phát sinh từ hành động giải phóng của ân sủng trong mỗi người chúng ta, và do đó, đây không phải là vấn đề của một sứ mệnh chỉ dành riêng cho một số ít.” [124]
112. Đôi khi, các phong trào hoặc nhóm Kitô giáo xuất hiện nhưng lại ít hoặc không quan tâm đến lợi ích chung của xã hội, đặc biệt là việc bảo vệ và thăng tiến những thành viên dễ bị tổn thương và thiệt thòi nhất. Tuy nhiên, chúng ta không bao giờ được quên rằng tôn giáo, đặc biệt là Kitô giáo, không thể bị giới hạn trong phạm vi riêng tư, như thể các tín hữu không có quyền lên tiếng về các vấn đề ảnh hưởng đến xã hội dân sự và các vấn đề liên quan đến các thành viên của mình. [125]
113. Thật vậy, “bất cứ cộng đồng Giáo hội nào, nếu nghĩ rằng mình có thể thoải mái đi theo con đường riêng mà không có sự quan tâm sáng tạo và hợp tác hữu hiệu trong việc giúp đỡ người nghèo sống trong phẩm giá và tiếp cận với mọi người, thì cũng sẽ có nguy cơ tan vỡ, bất kể họ có nói về các vấn đề xã hội hay chỉ trích chính phủ bao nhiêu đi nữa. Họ sẽ dễ dàng trôi dạt vào một tính thế tục tâm linh được ngụy trang bằng các hoạt động tôn giáo, các cuộc họp không hữu hiệu và những lời nói suông.” [126]
114. Vấn đề không chỉ đơn thuần là cung cấp hỗ trợ phúc lợi và nỗ lực đảm bảo công bằng xã hội. Người Kitô hữu cũng nên nhận thức được một hình thức mâu thuẫn khác trong cách họ đối xử với người nghèo. Trên thực tế, “sự phân biệt đối xử tồi tệ nhất mà người nghèo phải chịu đựng là thiếu sự chăm sóc về mặt tinh thần… Lựa chọn ưu tiên của chúng ta dành cho người nghèo chủ yếu phải được chuyển thành một sự chăm sóc tôn giáo đặc quyền và ưu tiên.” [127] Tuy nhiên, sự quan tâm về mặt tinh thần này đối với người nghèo đang bị đặt dấu hỏi, ngay cả trong giới Kitô hữu, bởi một số định kiến phát sinh từ việc chúng ta thấy dễ dàng hơn trong việc làm ngơ trước người nghèo. Có những người nói: “Nhiệm vụ của chúng ta là cầu nguyện và giảng dạy giáo lý lành mạnh.” Tách biệt khía cạnh tôn giáo này với phát triển toàn diện, họ thậm chí còn nói rằng chính phủ có trách nhiệm chăm sóc họ, hoặc tốt hơn là không nên giúp họ thoát khỏi cảnh nghèo đói mà chỉ cần dạy họ cách làm việc. Đôi khi, những dữ liệu giả khoa học được viện dẫn để củng cố cho tuyên bố rằng một nền kinh tế thị trường tự do sẽ tự động giải quyết vấn đề nghèo đói. Hoặc thậm chí chúng ta nên chọn công tác mục vụ với cái gọi là giới tinh hoa, bởi vì, thay vì lãng phí thời gian cho người nghèo, tốt hơn nên chăm sóc người giàu, người có ảnh hưởng và chuyên gia, để với sự giúp đỡ của họ, những giải pháp thực sự có thể được tìm ra và Giáo hội có thể cảm thấy được bảo vệ. Thật dễ dàng để nhận thấy tính thế tục đằng sau những lập trường này, điều này sẽ dẫn chúng ta đến việc nhìn nhận thực tế qua lăng kính hời hợt, thiếu ánh sáng từ trên cao, và vun đắp những mối quan hệ mang lại cho chúng ta sự an toàn và vị thế đặc quyền.
Bố thí ngày nay
115. Tôi muốn kết thúc bằng cách nói đôi điều về việc bố thí, một việc làm ngày nay không được nhìn nhận một cách tích cực ngay cả trong số các tín hữu. Nó không chỉ hiếm khi được thực hành mà thậm chí đôi khi còn bị coi thường. Tôi xin nhắc lại một lần nữa rằng cách quan trọng nhất giúp đỡ người yếu thế là hỗ trợ họ tìm được một công việc tốt, để họ có thể sống một cuộc sống xứng đáng hơn bằng cách phát triển khả năng và đóng góp công bằng. Theo nghĩa này, “thiếu việc làm không chỉ đơn thuần là không có nguồn thu nhập ổn định. Công việc cũng vậy, nhưng còn hơn thế nữa. Nhờ lao động, chúng ta trở nên trọn vẹn hơn, nhân tính của chúng ta phát triển, người trẻ chỉ trưởng thành nhờ lao động. Học thuyết xã hội của Giáo hội luôn coi lao động của con người là sự tham gia vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, công trình này vẫn tiếp tục mỗi ngày, cũng nhờ đôi tay, khối óc và trái tim của người lao động.” [128] Mặt khác, khi điều này không thể thực hiện được, chúng ta không thể liều lĩnh bỏ mặc người khác với số phận thiếu thốn những nhu cầu thiết yếu cho một cuộc sống xứng đáng. Do đó, việc bố thí, trong lúc này, vẫn là một phương tiện cần thiết để tiếp xúc, gặp gỡ và tương cảm với những người kém may mắn.
116. Những ai được thúc đẩy bởi lòng bác ái đích thực đều hiểu rõ rằng việc bố thí không miễn trừ trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền, không xóa bỏ nghĩa vụ của các cơ quan chính phủ trong việc chăm sóc người nghèo, hay làm giảm đi những nỗ lực chính đáng nhằm đảm bảo công lý. Việc bố thí ít nhất cũng cho chúng ta cơ hội dừng lại trước người nghèo, nhìn vào mắt họ, chạm vào họ và chia sẻ một phần nào đó của chính mình với họ. Trong mọi trường hợp, việc bố thí, dù khiêm tốn đến đâu, cũng mang đến một chút lòng thương xót (pietas) trong một xã hội vốn bị đánh dấu bởi sự theo đuổi lợi ích cá nhân điên cuồng. Theo lời của Sách Châm Ngôn: “Phước cho người bố thí, vì họ chia sẻ cơm bánh với người nghèo” (22:9).
117. Cả Cựu Ước và Tân Ước đều có những bài thánh ca ca ngợi việc bố thí: “Hãy kiên nhẫn với những người đang trong hoàn cảnh khó khăn, và đừng để họ chờ đợi sự bố thí của con… Hãy tích trữ của bố thí trong kho tàng của con, và nó sẽ cứu con khỏi mọi tai ương” (Hc 29:8,12). Chính Chúa Giêsu cũng nói thêm: “Hãy bán tài sản của con mà bố thí. Hãy sắm cho mình những túi tiền không bao giờ cũ, một kho tàng không bao giờ cạn ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng và mối mọt không làm hư nát” (Lc 12:33).
118. Thánh Gioan Kim Khẩu nổi tiếng với câu nói: “Bố thí là đôi cánh của lời cầu nguyện. Nếu bạn không cung cấp cho lời cầu nguyện của mình đôi cánh, nó sẽ khó mà bay được.” [129] Tương tự như vậy, Thánh Gregorio Ory thành Nazianzus đã kết thúc một trong những bài diễn văn nổi tiếng của mình bằng những lời này: “Hỡi các tôi tớ của Chúa Kitô, anh em và đồng thừa kế của Người, nếu anh em nghĩ rằng tôi có điều gì muốn nói, chúng ta hãy đến thăm Chúa Kitô bất cứ khi nào có thể; hãy chăm sóc Người, cho Người ăn, mặc, chào đón Người, tôn kính Người, không chỉ trong bữa ăn, như một số người đã làm, hay bằng cách xức dầu cho Người, như Maria đã làm, hay chỉ bằng cách cho Người mượn mộ, như Giuse thành Arimathia, hay bằng cách sắp xếp việc chôn cất Người, như Ni-cô-đê-mô, người đã yêu Chúa Kitô một cách hời hợt, hay bằng cách dâng cho Người vàng, nhũ hương và mộc dược, như các nhà thông thái trước tất cả những người này. Chúa của muôn loài xin lòng thương xót, chứ không phải hy lễ... Vậy chúng ta hãy tỏ lòng thương xót Người nơi những người nghèo và những người hôm nay đang nằm trên mặt đất, để khi chúng ta rời khỏi thế gian này, họ có thể đón nhận chúng ta vào nơi ở vĩnh cửu.” [130]
119. Tình yêu thương và niềm tin sâu sắc nhất của chúng ta cần được vun đắp liên tục, và chúng ta làm điều đó thông qua những hành động cụ thể của mình. Việc cứ mãi quẩn quanh trong những ý tưởng và lý thuyết, trong khi không phát biểu chúng qua những hành động bác ái thường xuyên và thiết thực, cuối cùng sẽ khiến ngay cả những hy vọng và khát vọng ấp ủ nhất của chúng ta cũng trở nên yếu đuối và tan biến. Chính vì lý do này, chúng ta, những người Kitô hữu, không được từ bỏ việc bố thí. Việc này có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau, và chắc chắn sẽ hữu hiệu hơn, nhưng nó phải được tiếp tục. Ít nhất thì làm một điều gì đó vẫn tốt hơn là không làm gì cả. Dù dưới bất cứ hình thức nào, việc bố thí sẽ chạm đến và làm mềm mại trái tim chai đá của chúng ta. Nó sẽ không giải quyết được vấn đề nghèo đói trên thế giới, nhưng nó vẫn phải được thực hiện, với sự thông minh, siêng năng và trách nhiệm xã hội. Về phần mình, chúng ta cần bố thí như một cách để vươn tới và chạm đến những mảnh đời khốn khổ của người nghèo.
120. Tình yêu Kitô giáo phá vỡ mọi rào cản, mang những người xa cách lại gần nhau, kết nối những người xa lạ và hòa giải kẻ thù. Nó vượt qua những vực thẳm mà con người không thể vượt qua, và nó thâm nhập vào những khe hở sâu thẳm nhất của xã hội. Bản chất của tình yêu Kitô giáo là tiên tri: nó làm nên những điều kỳ diệu và không có giới hạn. Nó biến những điều tưởng chừng như không thể thành có thể. Tình yêu, trên hết, là một cách nhìn nhận cuộc sống và một cách sống. Một Giáo hội không đặt ra giới hạn cho tình yêu, không biết đến kẻ thù nào để chiến đấu nhưng chỉ biết yêu thương con người, chính là Giáo hội mà thế giới ngày nay cần đến.
121. Qua công việc của anh chị em, những nỗ lực thay đổi các cấu trúc xã hội bất công, hay qua cử chỉ gần gũi và hỗ trợ chân thành, giản dị của anh chị em, người nghèo sẽ nhận ra rằng lời Chúa Giêsu được ngỏ với từng người trong số họ: “Ta đã yêu thương các con” (Kh 3:9).
Ban hành tại Rôma, tại Đền thờ Thánh Phêrô, ngày 4 tháng 10, Lễ kính Thánh Phanxicô Assisi, năm 2025, năm đầu tiên trong triều đại Giáo hoàng của tôi.
LEO PP. XIV
______________________________
[1] Đức Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 170: AAS 116 (2024), 1422.
[2] Cùng nguồn, 171: AAS 116 (2024), 1422-1423.
[3] Đức Phanxicô, Tông huấn Gaudete et Exsultate (19 tháng 3 năm 2018), 96: AAS 110 (2018), 1137.
[4] Đức Phanxicô, Tiếp kiến các Đại diện Truyền thông (16/03/2013): AAS 105 (2013), 381.
[5] J. Bergoglio - A. Skorka, Sobre el cielo y la Tierra, Buenos Aires 2013, 214.
[6] Đức Phaolô VI, Bài giảng trong Thánh lễ Phiên họp công khai cuối cùng của Công đồng Vatican II (7/12/1965): AAS 58 (1966), 55-56.
[7] Xem Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 187: AAS 105 (2013), 1098.
[8] Cùng nguồn, 212: AAS 105 (2013), 1108.
[9] Đức Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (3 tháng 10 năm 2020), 23: AAS 112 (2020), 977.
[10] Cùng nguồn, 21: AAS 112 (2020), 976.
[11] Hội đồng Cộng đồng Châu Âu, Quyết định (85/8/EEC) về Hành động cụ thể của Cộng đồng nhằm chống lại nghèo đói (19 tháng 12 năm 1984), Bài 1(2): Tạp chí chính thức của Cộng đồng Châu Âu, số L 24/2.
[12] X. Đức Gioan Phaolô II, Bài Giáo Lý (27 tháng 10 năm 1999): L’Osservatore Romano, 28 tháng 10 năm 1999, 4.
[13] Đức Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), 197: AAS 105 (2013), 1102.
[14] Xem Đức Phanxicô, Sứ điệp Ngày Thế giới Người nghèo lần thứ 5 (13 tháng 6 năm 2021), 3: AAS 113 (2021), 691: “Chúa Giêsu không chỉ đứng về phía người nghèo; Người còn chia sẻ số phận của họ. Đây là một bài học sâu sắc cho các môn đệ của Người trong mọi thời đại.”
[15] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 186: AAS 105 (2013), 1098.
[16] Đức Phanxicô, Tông huấn Gaudete et Exsultate (19 tháng 3 năm 2018), 95: AAS 110 (2018), 1137.
[17] Như trên, 97: AAS 110 (2018), 1137.
[18] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 194: AAS 105 (2013), 1101.
[19] Đức Phanxicô, Tiếp kiến các Đại diện Truyền thông (16 tháng 3, 2013): AAS 105 (2013), 381.
[20] Công đồng Vatican II, Hiến chế Tín lý Lumen Gentium, 8.
[21] Đức Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), 48: AAS 105 (2013), 1040.
[22] Trong chương này, một số chứng từ này được đưa ra. Điều này không được thực hiện một cách đầy đủ. không phải chỉ để chứng minh rằng sự quan tâm đến người nghèo luôn là đặc điểm của sự hiện diện của Giáo hội trên thế giới. Một suy tư sâu sắc hơn về sự quan tâm dành cho những người túng thiếu nhất có thể được tìm thấy trong cuốn sách sau: V. Paglia, Storia della povertà, Milan 2014.
[23] Xem Ambrose, De officiis ministrorum I, chương 41, 205-206: CCSL 15, Turnhout 2000, 76-77; II, chương 28, 140-143: CCSL 15, 148-149.
[24] Ibid., II, chương 28, 140: CCSL 15, 148.
[25] Ibid.
[26] Ibid., II, chương 10. 28, 142: CCSL 15, 148.
[27] Ignatius Antioch, Epistula ad Smyrnaeos, 6, 2: SC 10bis, Paris 2007, 136-138.
[28] Polycarp, Epistula ad Philippenses, 6, 1: SC 10bis, 186.
[29] Justin, Apologia prima, 67, 6-7: SC 507, Paris 2006, 310.
[30] John Chrysostom, Homiliae in Matthaeum, 50, 3: PG 58, Paris 1862, 508.
[31] Như trên. 50, 4: PG 58, 509.
[32] John Chrysostom, Homilia in Epistula ad Hebraeos, 11, 3 : PG 63, Paris 1862, 94.
[33] John Chrysostom, Homilia II De Lazaro, 6: PG 48, Paris 1862, 992.
[34] Ambrose, De Nabuthae, 12, 53: CSEL 32/2, Praha-Vienna-Leipzig 1897, 498.
[35] Augustine, Enarrationes in Psalmos, 125, 12: CSEL 95/3, Vienna 2001, 181.
[36] Augustine, Sermo LXXXVI, 5: CCSL 41Ab, Turnhout 2019, 411-412.
[37] Pseudo-Augustine, Sermo CCCLXXXVIII, 2: PL 39, Paris 1862, 1700.
[38] Cyprian, De Mortalitate, 16: CCSL 3A, Turnhout 1976, 25.
[39] Đức Phanxicô, Sứ điệp Ngày Thế giới Bệnh nhân lần thứ 30 (10 tháng 12 năm 2021), 3: AAS 114 (2022), 51.
[40] Camillus de Lellis, Nội quy của Dòng Thừa tác viên Bệnh nhân, 27: M. Vanti (ed.), Scritti di San Camillo de Lellis, Milan 1965, 67.
[41] Louise de Marillac, Thư gửi các chị Claudia Carré và Maria Gaudoin (28 tháng 11 năm 1657): E. Charpy (ed.), Sainte Louise de Marillac. Écrits, Paris 1983, 576.
[42] Basil Cả, Regulae fusius traatae, 37, 1: PG 31, Paris 1857, 1009 C-D.
[43] Regula Benedicti, 53, 15: SC 182, Paris 1972, 614.
[44] John Cassian, Collationes, XIV, 10: CSEL 13, Vienna 2004, 410.
[45] Bênêđíctô XVI, Giáo lý (21 tháng 10 năm 2009): L'Osservatore Romano, 22 tháng 10 năm 2009, 1.
[46] X. Innocent III, Sắc lệnh Operante divinae dispositionis – Nguyên tắc Nguyên thủy của Ba Ngôi (17 tháng 12 năm 1198), 2: J.L. Aurrecoechea – A. Moldón (biên tập), Fuentes históricas de la Orden Trinitaria (s. XII-XV), Córdoba 2003, 6: “Mọi thứ, bất kể nguồn gốc hợp pháp nào, anh em phải chia thành ba phần bằng nhau. Trong chừng mực hai phần là đủ, anh em phải thực hiện các công việc bác ái từ chúng, cũng như cung cấp một mức sống vừa phải cho bản thân và các thành viên gia đình cần thiết. Phần thứ ba được dành để chuộc những người bị giam cầm vì đức tin vào Chúa Kitô.”
[47] Xem Hiến pháp Dòng Thương Xót, số 10. 14: Orden de la Bienaventurada Virgen María de la Merced, Regla y Constituciones, Rome 2014, 53: “Để hoàn thành sứ mệnh này, được thúc đẩy bởi lòng bác ái, chúng ta hiến dâng mình cho Thiên Chúa với một lời khấn đặc biệt, được gọi là Cứu Chuộc, nhờ đó chúng ta hứa sẽ hiến dâng mạng sống mình, nếu cần, như Chúa Kitô đã hiến dâng mạng sống của Người cho chúng ta, để cứu những Kitô hữu đang ở trong nguy cơ cực độ đánh mất đức tin vào những hình thức nô lệ mới.”
[48] X. Thánh Gioan Baotixita Conception, La regla de la Orden de la Santísima Trinidad, XX, 1: BAC Maior 60, Madrid, 1999, 90: “Về điểm này, người nghèo và tù nhân giống như Chúa Kitô, Đấng gánh chịu mọi đau khổ của thế gian... Dòng Ba Ngôi Chí Thánh này triệu tập họ và mời gọi họ đến uống nước của Đấng Cứu Thế, điều đó có nghĩa là, nếu Chúa Kitô treo trên thập giá là sự cứu chuộc và cứu rỗi cho con người, thì Dòng đã nhận lấy sự cứu chuộc này và muốn phân phát cho người nghèo, cứu rỗi và giải thoát các tù nhân.”
[49] X. Thánh Gioan Baotixita Conception, El recogimiento interior, XL, 4: BAC Maior 48, Madrid 1995, 689: “Ý chí tự do làm cho con người được tự do và làm chủ mọi loài thụ tạo, nhưng, lạy Chúa, biết bao nhiêu người, bằng cách này, trở thành nô lệ và tù nhân của ma quỷ, bị giam cầm và xiềng xích bởi những đam mê và dục vọng của họ.”
[50] Đức Phanxicô, Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới lần thứ 48 (8 tháng 12 năm 2014), 3: AAS 107 (2015), 69.
[51] Đức Phanxicô, Gặp gỡ các Cảnh sát viên Cảnh sát, Người bị giam giữ và Tình nguyện viên (Verona, ngày 18 tháng 5 năm 2024): AAS 116 (2024), 766.
[52] Honorius III, Bull Solet annuere – Regula bullata (29 tháng 11 năm 1223), chap. VI: SC 285, Paris 1981, 192.
[53] X. Gregory IX, Bull Sicut Manifestum est (17 tháng 9 năm 1228), 7: SC 325, Paris 1985, 200: “Sicut igitur supplicastis, altissimae paupertatis propositum vestrum favore apostolico roboramus, auctoritate vobis praesentium indulgentes, ut recipere possessiones a nullo compelli possitis.”
[54] X. S.C. Tugwell, (ed.), Các Tu Sĩ Đa Minh sơ khai. Những bài viết chọn lọc, Mahwah 1982, 16-19.
[55] Thomas thành Celano, Vita Seconda, pars prima, cap. IV, 8: AnalFranc, 10, Florence 1941, 135.
[56] Đức Phanxicô, Diễn văn sau chuyến viếng thăm mộ Don Lorenzo Milani, (Barbiana, 20 tháng 6 năm 2017), 2: AAS 109 (2017), 745.
[57] Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn gửi người tham dự Tổng Hội Dòng Giáo Sĩ Nghèo Thường Trực của Dòng Đức Mẹ Thiên Chúa của các Trường Đạo Đức (Piarists) (5 tháng 7 năm 1997), 2: L’Osservatore Romano, 6 tháng 7 năm 1997, 5.
[58] Ibid.
[59] Đức Gioan Phaolô II, Bài giảng trong Thánh lễ Phong thánh (18 tháng 4 năm 1999): AAS 91 (1999), 930.
[60] X. Đức Gioan Phaolô II, Thư Iuvenum Patris (31 tháng 1 năm 1988), 9: AAS 80 (1988), 976.
[61] X. Đức Phanxicô, Diễn văn với những người tham gia Tổng Tu nghị của Viện Bác ái (Rosminians) (1 tháng 10 năm 2018): L’Osservatore Romano, 1-2 tháng 10 năm 2018, 7.
[62] Đức Phanxicô, Bài giảng trong Thánh lễ phong thánh (9 tháng 10 năm 2022): AAS 114 (2022), 1338.
[63] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp gửi Hội Nữ tu Truyền giáo Thánh Tâm (31 tháng 5, 2000), 3: L’Osservatore Romano, 16 tháng 7, 2000, 5.
[64] X. Đức Piô XII, Đoản sắc Bề Superior Iam Aetate (8 tháng 9 năm 1950): AAS 43 (1951), 455-456.
[65] Đức Phanxicô, Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 105 (27 tháng 5 năm 2019): AAS 111 (2019), 911.
[66] Đức Phanxicô, Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn lần thứ 100 (5 tháng 8 năm 2013): AAS 105 (2013), 930.
[67] Thánh Teresa Calcutta, Diễn văn nhân dịp trao Giải Nobel Hòa bình (Oslo, 10 tháng 12 năm 1979): Aimer jusqu’à en avoir mal, Lyon 2017, 19-20.
[68] Đức Gioan Phaolô II, Diễn văn với những người hành hương đến Rôma để phong chân phước cho Mẹ Teresa (20 tháng 10, 2003), 3: L’Osservatore Romano, 20-21 tháng 10, 2003, 10.
[69] Đức Phanxicô, Bài giảng Thánh lễ và phong thánh (13 tháng 10 năm 2019): AAS 111 (2019), 1712.
[70] Đức Gioan Phaolô II, Tông thư Novo Millennio Ineunte (6-01-2001), 49: AAS 93 (2001), 302.
[71] Đức Phanxicô, Tông huấn Christus Vivit (25 tháng 3 năm 2019), 231: AAS 111 (2019), 458.
[72] Đức Phanxicô, Diễn văn với những người tham gia Cuộc gặp gỡ Thế giới về các Phong trào Bình dân (28 tháng 10 năm 2014): AAS 106 (2014), 851-852.
[73] Ibid.: AAS 106 (2014), 859.
[74] Đức Phanxicô, Diễn văn gửi các tham dự viên Hội nghị Thế giới của các Phong trào Bình dân (ngày 5 tháng 11 năm 2016): L’Osservatore Romano, ngày 7-8 tháng 11 năm 2016, 5.
[75] Ibid.
[76] Đức Gioan XXIII, Sứ điệp Phát thanh gửi toàn thể tín hữu Kitô giáo một tháng trước khi khai mạc Công đồng Chung Vatican II (ngày 11 tháng 9 năm 1962): AAS 54 (1962), 682.
[77] G. LERCARO, Can thiệp tại Đại hội đồng XXXV của Công đồng Chung Vatican II (ngày 6 tháng 12 năm 1962), 2: AS I/IV, 327-328.
[78] Cùng nguồn, 4: AS I/IV, 329.
[79] Viện Khoa học Tôn giáo (ed.), Per la forza dello Spirito. Thảo luận về thẻ. Giacomo Lercaro, Bologna 1984, 115.
[80] Phaolô VI, Diễn văn khai mạc long trọng Khóa thứ hai của Công đồng Vatican II (29 tháng 9 năm 1963): AAS 55 (1963) 857.
[81] Phaolô VI, Giáo Lý (11/11/1964): Insegnamenti di Paolo VI, II (1964), 984.
[82] Công đồng Vatican II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 69, 71.
[83] Phaolô VI, Thông điệp Populorum Progressio (26/03/1967), 23: AAS 59 (1967), 269.
[84] X. ibid., 4: AAS 59 (1967), 259.
[85] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis (30/12/1987), 42: AAS 80 (1988), 572.
[86] Cùng nguồn, AAS 80 (1988), 573.
[87] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem Exercens (14/09/1981), 3: AAS 73 (1981), 584.
[88] Đức Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate (29/6/2009), 7: AAS 101 (2009), 645.
[89] Cùng nguồn, 27: AAS 101 (2009), 661.
[90] Đại hội đồng lần thứ hai của Các Giám Mục Châu Mỹ Latinh, Tài liệu Medellín (24 tháng 10 năm 1968), 14, n. 7: Celam, Medellin. Kết luận, Lima 2005, 131-132.
[91] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 202: AAS 105 (2013), 1105.
[92] Cùng nguồn, 205: AAS 105 (2013), 1106.
[93] Cùng nguồn, 190: AAS 105 (2013), 1099.
[94] Cùng nguồn, 56: AAS 105 (2013), 1043.
[95] Đức Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos (24 tháng 10 năm 2024), 183: AAS 116 (2024), 1427.
[96] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus (01/05/1991), 41: AAS 83 (1991), 844-845.
[97] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 202: AAS 105 (2013), 1105.
[98] Đã dẫn.
[99] Đức Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (3 tháng 10 năm 2020), 22: AAS 112 (2020), 976.
[100] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 209: AAS 105 (2013), 1107.
[101] Đức Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5 năm 2015), 50: AAS 107 (2015), 866.
[102] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 210: AAS 105 (2013), 1107.
[103] Đức Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5 năm 2015), 43: AAS 107 (2015), 863.
[104] Ibid., 48: AAS 107 (2015), 865.
[105] Đức Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11 năm 2013), 180: AAS 105 (2013), 1095.
[106] Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị về Một số Khía cạnh của “Thần học Giải phóng” (6 tháng 8 năm 1984) XI, 18: AAS 76 (1984), 907-908.
[107] Đại hội đồng lần thứ năm của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribe, Văn kiện Aparecida, (29 tháng 6 năm 2007), số 392, Bogotá 2007, tr. 179-180. So sánh Đức Bênêđictô XVI, Diễn văn khai mạc Phiên họp của Đại hội đồng lần thứ năm của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribe (13 tháng 5 năm 2007), 3: AAS 99 (2007), 450.
[108] Xem Đại hội đồng lần thứ năm của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribe, Văn kiện Aparecida (29 tháng 6 năm 2007), số 43-87, trang 31-47.
[109] Đại hội đồng lần thứ năm của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribe, Thông điệp cuối cùng (29 tháng 5 năm 2007), số 4, Bogotá 2007, trang 275.
[110] Đại hội đồng lần thứ năm của các Giám mục Mỹ Latinh và Caribe, Văn kiện Aparecida (29 tháng 6 năm 2007), số 398, trang 31-47. 182.
[111] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 199: AAS 105 (2013), 1103-1104.
[112] Cùng nguồn, 198: AAS 105 (2013), 1103.
[113] Như trên.
[114] Đại hội lần thứ năm của các Giám mục Châu Mỹ Latinh và vùng Caribe, Tài liệu Aparecida (29 tháng 6 năm 2007), n. 397, tr. 182.
[115] Đức Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (3 tháng 10 năm 2020), 64: AAS 112 (2020), 992.
[116] Đức Phanxicô, Tông huấn Gaudete et Exsultate (19 tháng 3 năm 2018), 98: AAS 110 (2018), 1137.
[117] Đức Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (3 tháng 10 năm 2020), 65-66: AAS 112 (2020), 992.
[118] Gregory Cả, Homilia 40, 10: SC 522, Paris 2008, 552-554.
[119] Như trên, 6: SC 522, 546.
[120] Như trên, 3: SC 522, 536.
[121] Đức Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus Annus (01/05/1991), 57: AAS 83 (1991), 862-863.
[122] Đức Phanxicô, Đêm canh thức Lễ Hiện Xuống với các Phong trào Giáo hội (18 tháng 5 năm 2013): L'Osservatore Romano 20-21 tháng 5 năm 2013, 5.
[123] Đức Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (24/11/2013), 186: AAS 105 (2013), 1098.
[124] Cùng nguồn, 188: AAS 105 (2013), 1099.
[125] X. ibid., 182-183: AAS 105 (2013), 1096-1097.
[126] Cùng nguồn, 207: AAS 105 (2013), 1107.
[127] Cùng nguồn, 200: AAS 105 (2013), 1104.
[128] Đức Phanxicô, Diễn văn tại cuộc gặp gỡ với các đại diện của Thế giới Lao động tại Nhà máy Ilva ở Genoa (27 tháng 5 năm 2017): AAS 109 (2017), 613.
[129] Pseudo-Chrysostom, Homilia de Jejunio et Eleemosyna: PG 48, 1060.
[130] Gregory Nazianzus, Oratio XIV, 40: PG 35, Paris 1886, 910.
Các Giám mục phản ứng với ‘Dilexi te’: ‘Biểu lộ bộ mặt thật của Giáo hội’
Vũ Văn An
14:55 10/10/2025

Edgar Beltrán của The Pillar, ngày 10 tháng 10, 2025, cho đăng phản ứng của một số vị giám mục đối với văn kiện quan trọng đầu tiên của triều giáo hoàng Leo XIV:
Tông huấn dài khoảng 20,000 từ này được soạn thảo sau thông điệp Dilexit nos (“Người đã yêu thương chúng ta”) của Đức Giáo Hoàng Phanxicô ban hành vào tháng 10 năm 2024.
Trong bản văn, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV thừa nhận rằng ngài đã dựa trên một bản thảo đã được Đức Phanxicô chuẩn bị. Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông đưa tin rằng Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã viết lại một số phần của bản thảo gốc, được cho là do Đức Tổng Giám Mục Vincenzo Paglia, cựu Chủ tịch Hàn lâm viện Giáo hoàng về Sự sống và Viện Gioan Phaolô II, viết.
Vậy các giám mục và Hồng Y đang đón nhận văn kiện quan trọng đầu tiên trong triều giáo hoàng Lêô XIV như thế nào?
The Pillar đã trò chuyện với các giám mục và Hồng Y trên khắp thế giới để tìm hiểu phản ứng công khai đầu tiên của các ngài đối với Dilexi te.
Một số bình luận đã được dịch từ tiếng Tây Ban Nha và tiếng Bồ Đào Nha và đã được chỉnh sửa để rõ ràng và súc tích hơn.
Đức Hồng Y Michael Czerny, SJ – Tổng Trưởng Bộ Phát Triển Con Người Toàn Diện
Dilexi te là một bài suy niệm cảm động về truyền thống của chúng ta – bắt nguồn từ Chúa Giêsu – và phù hợp với giáo huấn gần đây hơn về vị trí của người nghèo trong sứ mệnh của Giáo hội. Đây là một lời nhắc nhở tốt đẹp rằng lựa chọn ưu tiên cho người nghèo không phải do Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Đức Giáo Hoàng Lêô XIV phát minh ra! Chúng ta hãy cùng Đức Giáo Hoàng Lêô cầu nguyện để Dilexi te giúp Giáo hội phục vụ người nghèo và đưa họ đến với Chúa Kitô!
Đức Hồng Y Víctor Manuel Fernández – Tổng Trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin
Tôi tin rằng điều rất quan trọng là phải nỗ lực chứng minh rằng việc chăm sóc người nghèo là một lựa chọn tạo nên một phần của Truyền Thống vĩ đại của Giáo Hội, từ Kinh Thánh, các Giáo Phụ, và trong suốt lịch sử của Giáo Hội. Mặt khác, điều quan trọng là phải làm nổi bật mối liên hệ rõ ràng với Dilexit nos theo cách mà ý nghĩa siêu nhiên của lựa chọn này được làm rõ.
Đức Hồng Y Jaime Spengler – Tổng Giám mục Porto Alegre, Brazil, và Chủ tịch CELAM, Hội đồng Giám mục Mỹ Latinh
Sự tồn tại của con người ngày nay, được đánh dấu bằng năng suất và tiêu dùng, bị cuốn vào hoạt động. Ngay cả thời gian rảnh rỗi cũng trở thành một thứ gì đó mang tính chức năng trong sản xuất. Nếu không có sự công nhận và các điều kiện cần thiết cho sự nghỉ ngơi, một ý thức hệ được áp đặt, hạ thấp con người xuống thành một chức năng. Sự tăng tốc của cuộc sống khiến chúng ta quen với việc nhìn nhận và phán đoán những gì thực sự đang bị đe dọa một cách phiến diện, nếu không muốn nói là sai lầm. [Chúng ta được kêu gọi nhìn thấy] sự nghèo đói của những người không có quyền, không có chỗ đứng, không có tự do; của những người không có điều kiện để lên tiếng về phẩm giá và khả năng của mình; của những người đang trải qua sự nghèo đói về vật chất, đạo đức, tinh thần, văn hóa và nhân bản trong cuộc sống hàng ngày!
Việc nhìn nhận và sẵn sàng chào đón với sự tôn trọng tất cả những người bị tổn thương và bị tước đoạt phẩm giá, tự do và bản sắc là một mệnh lệnh đạo đức, một lời kêu gọi lương tâm, đặc biệt là đối với các Kitô hữu.
Để thực hiện sứ mệnh này, [Đức Giáo Hoàng] kêu gọi chúng ta chuyển từ thế giới của những ý tưởng và thảo luận sang những hành động và cử chỉ cụ thể, đoàn kết những lực lượng tốt nhất của xã hội vì mục đích này. Cam kết vì lợi ích chung của xã hội và việc thăng tiến những người yếu thế và thiệt thòi nhất là cam kết của mọi người nam nữ có thiện chí.
Đức Hồng Y Anders Arbolerius, OCD – Giám mục Stockholm, Thụy Điển
Đức Giáo Hoàng Leo XVI tiếp bước Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Ngài cho chúng ta thấy diện mạo đích thực của Giáo hội là Mẹ của Người Nghèo và Người Túng thiếu. Ngài nhắc nhở chúng ta về ơn gọi yêu thương và tôn kính Người Nghèo như Chúa Giêsu đã làm.
Đức Hồng Y Stephen Brislin – Tổng Giám mục Johannesburg, Nam Phi
Mặc dù tôi chưa có cơ hội nghiên cứu đầy đủ về Dilexi te, nhưng rõ ràng là tông huấn này phù hợp với giáo huấn của Giáo hội qua nhiều thế kỷ. Nó trung thành với các tác phẩm của các Giáo phụ và, thực sự, với Tin Mừng.
Một phần mục đích của tông huấn là lay động những người đang sống trong bong bóng xa hoa, sống theo lối sống thượng lưu, xa lánh và thờ ơ với sự yếu đuối và đau khổ của người khác, hoặc thậm chí coi người khác như một món hàng “dùng một lần rồi bỏ”. Lời kêu gọi là hãy sống theo giáo huấn của Tin Mừng bằng sự tôn trọng phẩm giá con người, bình đẳng và liên đới.
Đây là một văn kiện không chỉ thách thức lối sống cá nhân mà, như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã làm, còn lên án chế độ độc tài của một nền kinh tế thiên vị người giàu. Đây là một văn kiện khiến chúng ta phải đặt câu hỏi về hiện trạng mà chúng ta dễ dàng coi là hiển nhiên và trở thành người lân cận với những người yếu đuối và dễ bị tổn thương theo gương của người Samaritanô nhân hậu.
Đức Tổng Giám Mục Jesús González de Zárate – Tổng Giám mục Valencia, Venezuela, và Chủ tịch Hội đồng Giám mục Venezuela
Đức Giáo Hoàng Leo đã cho chúng ta một suy tư tuyệt đẹp và sâu sắc về một chủ đề cốt lõi của Tin Mừng: tình yêu thương dành cho người nghèo. Tông huấn này nhấn mạnh rằng, xuyên suốt lịch sử và trong nhiều thời đại, trong bối cảnh xã hội và văn hóa của chúng ta, Giáo hội, thông qua nhiều hình thức phục vụ những người nghèo khổ và dễ bị tổn thương nhất, đã và đang tiếp tục biểu lộ sự hiệp nhất sâu sắc giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân.
Tông huấn này tiếp nối một số chủ đề trong giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô về bộ mặt của nghèo đói ngày nay và nguyên nhân của nó trong các cấu trúc tội lỗi tạo ra nó. Tông huấn mang theo lời kêu gọi góp phần biến đổi những thực tại này.
Tông huấn này khẳng định chúng ta là một Giáo hội lữ hành tại Mỹ Latinh trong “lựa chọn ưu tiên cho người nghèo” và trong mong muốn trở thành một “Giáo hội nghèo giữa những người nghèo”.
Đây là một chương trình mục vụ cho Giáo hội và là một dấu chỉ tiên tri cho thế giới ngày nay.
Những gì được diễn đạt trong số 120 của Tông huấn đã ngay lập tức thu hút sự chú ý của tôi: “Tự bản chất, tình yêu Kitô giáo mang tính tiên tri: nó làm nên những điều kỳ diệu và không có giới hạn. Nó biến những điều dường như không thể thành có thể. Tình yêu trên hết là một cách nhìn nhận cuộc sống và một cách sống. Một Giáo hội không đặt ra giới hạn cho tình yêu, không biết đến kẻ thù để chiến đấu mà chỉ biết yêu thương con người, chính là Giáo hội mà thế giới ngày nay cần đến.”
Đức Cha Raimo Goyarrola – Giám mục Helsinki, Phần Lan
Tôi nghĩ rằng nội dung của Tông huấn này cần được đọc một cách bình tĩnh và cầu nguyện. Không có gì mới mẻ [trong văn kiện] theo nghĩa là ngay từ đầu, Giáo hội đã sống với người nghèo, vì người nghèo và giữa người nghèo.
Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng Đức Giáo Hoàng cũng nói trong văn kiện này rằng Chúa Giêsu đã sống nghèo, chết, sinh ra, sống và chết trong cảnh nghèo.
Vì vậy, điều quan trọng là phải nhấn mạnh đến sự nghèo khó tâm linh, nội tâm này. Nó rất quan trọng như một nhân đức đối với tất cả các Kitô hữu. Bạn không thể là một vị thánh, bạn không thể là một Kitô hữu đích thực nếu bạn không sống nhân đức nghèo khó. Đó là về lòng quảng đại, về việc thoát khỏi những thứ của thế gian để có một trái tim rộng mở yêu thương và đôi mắt trong sáng để nhìn anh chị em mình.
Giáo hội của tôi ở Helsinki là một ví dụ về một giáo hội nghèo, vì vậy tôi hiểu Đức Giáo Hoàng đang nói về điều gì và tôi hiểu nghèo đói là gì. Có rất nhiều loại nghèo đói. Ở đây, chúng ta có thể không chết đói, nhưng có rất nhiều người nhập cư và tị nạn nghèo đói, nghèo đói trong một giáo phận không có tiền, nơi chúng ta không thể trang trải cuộc sống ở nhiều giáo xứ và không thể xây dựng nhà thờ hay tìm nơi thờ phượng vì chúng ta không có tiền. Tôi hoàn toàn đồng cảm với văn bản này trong tông huấn này.
Cũng có sự cô đơn, nghèo đói về mặt tinh thần ở các quốc gia của chúng ta, và sự nghèo đói đó cũng cần được đồng hành, giúp đỡ và phải tìm ra giải pháp. Sự nghèo đói về mặt tinh thần đôi khi mang theo nỗi buồn và sự tuyệt vọng khác với nỗi buồn của những người đang chịu đựng sự nghèo đói về vật chất.
Nhưng dù sao đi nữa, đây là một văn bản cần được đọc một cách bình tĩnh, cầu nguyện và có thể giúp chúng ta tìm kiếm giải pháp. Các giải pháp không dễ dàng vì nó ảnh hưởng đến các cấu trúc xã hội, quốc gia, công ty; đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng nhưng là điều mà Giáo hội thúc đẩy.
Đây là một văn bản tuyệt vời và là một khởi đầu giáo lý tốt đẹp cho vị giáo hoàng này, người sẽ mang đến cho chúng ta nhiều niềm vui.
Đức Cha Erik Varden, OCSO – Giám mục Trondheim, Na Uy
Một điều gây ấn tượng với tôi khi đọc lần đầu văn bản phong phú này là phần nói về đời sống tu trì. Trong một bài đọc đầy cảm hứng về Luật Thánh Biển Đức, Đức Thánh Cha nói rằng các tu sĩ thời cổ đại đã tạo điều kiện cho việc hình thành một “phương pháp sư phạm hòa nhập” bằng cách “hình thành lương tâm và truyền đạt trí tuệ” thông qua việc chia sẻ văn hóa.
Từ “hòa nhập” được sử dụng rất nhiều ngày nay, thường không có một ý niệm rõ ràng về việc ai đó đề xuất bao gồm những người khác vào điều gì. Quan niệm cho rằng hòa nhập là một hình thức hiếu khách xuất phát từ một giao ước cộng đồng với mục đích tạo ra một xã hội được chuyển đổi là rất có giá trị và mang tính xây dựng.
Đức Cha Jan Hendriks – Giám mục Haarlem-Amsterdam, Hòa Lan
Dilexi te là một văn kiện tuyệt vời. Có lẽ đây đó chúng ta thấy ảnh hưởng của một vị Giáo hoàng người Mỹ, người không chủ yếu nhấn mạnh vai trò của chính phủ trong vấn đề này, mà nhấn mạnh đến bổn phận của mọi người là không được quên bác ái.
Tôi đặc biệt ấn tượng trước cái nhìn tổng quan toàn diện về cam kết của Giáo hội đối với người nghèo trong suốt hai nghìn năm qua. Điều này rất quan trọng, không phải để tự khen ngợi bản thân, mà trên hết là để thấy rằng việc chăm sóc người nghèo là một khía cạnh thiết yếu, cốt lõi trong sứ mệnh của Giáo hội trên thế giới này.
Văn kiện chắc chắn nhấn mạnh đến bổn phận của chính phủ trong việc đảm bảo một xã hội công bằng và tạo điều kiện cho người nghèo trở thành tác nhân cho sự phát triển của chính họ, và một xã hội biết quan tâm đến người nghèo, nhưng nó tập trung chủ yếu vào sứ mệnh của chúng ta, với tư cách là Kitô hữu, là sát cánh cùng người nghèo, bao gồm cả việc bố thí.
Đức Cha Toshihiro Sakai – Giám Mục Phụ Tá Osaka-Takamatsu, Nhật Bản
Trong số nhiều chủ đề đáng suy ngẫm, tôi tập trung vào hai điểm.
Một là vấn đề nhập cư. Tại Nhật Bản, các cuộc thảo luận về vấn đề nhập cư cũng diễn ra thường xuyên hơn trong những năm gần đây, và động lực đang gia tăng để hình thành một “chính sách nhập cư” mà vẫn chưa rõ ràng. Theo quan điểm của Giáo Hội Công Giáo, trong cộng đồng Công Giáo thiểu số cực lớn của Nhật Bản (chiếm 0,3% tổng dân số), tỷ lệ công nhân Công Giáo từ các quốc gia như Philippines, Mỹ Latinh và Việt Nam đang tăng đều đặn.
Ở một số khu vực, các gia đình trẻ nước ngoài có con cái hiện nay đông hơn các tín đồ Nhật Bản, vốn đang giảm dần do tỷ lệ sinh thấp và dân số trở nên già. Làm thế nào để chăm sóc mục vụ cho những tín hữu này là một trong những thách thức mà Hội đồng Giám mục Công Giáo Nhật Bản đang phải đối diện, nơi đã thành lập một ban chuyên trách cho mục đích này trong năm nay. Nhìn vào các giám mục, số lượng giám mục sinh ra ở nước ngoài đã tăng lên trong thập niên qua; hiện tại, 5 trong số 17 giám mục là công dân nước ngoài (từ Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Argentina và Ý).
Tôi muốn tìm hiểu thêm về hai vị thánh được đề cập trong Dilexit te: Thánh Gioan Baotixita Scalabrini và Thánh Phanxicô Xaviê Cabrini.
Một điểm khác liên quan đến công việc. Là một thành viên của Opus Dei, tôi nhận thấy rằng công việc thánh hóa rất quan trọng đối với tất cả mọi người. Lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô được trích dẫn ở cuối Tông huấn Dilexi te (số 115), “Nhờ lao động, chúng ta trở nên trọn vẹn hơn, nhân tính của chúng ta phát triển, người trẻ chỉ trưởng thành nhờ lao động”, áp dụng cho tất cả mọi người, kể cả người nghèo.
Một linh mục người Mexico đã làm việc tại Nhật Bản hàng thập niên từng nói với tôi: “Cha có biết sự khác biệt giữa Mexico và Nhật Bản không? Ở Mexico, cha phải nói với mọi người: ‘Làm việc cho đúng cách.’ Còn ở Nhật Bản, cha phải nói với họ: ‘Nghỉ ngơi cho đúng cách.’” Nhật Bản có văn hóa làm việc quá sức. Do đó, những người nghèo không làm việc (hoặc không thể làm việc) thường bị đối xử khắc nghiệt, và văn hóa cho đi khó mà bén rễ. Tất nhiên, cũng có một khía cạnh tích cực: tinh thần tình nguyện, làm việc không công cho những người thiếu thốn, rất mạnh mẽ.
Tôi muốn đọc kỹ Tông huấn này và sử dụng nó vì lợi ích của Giáo hội tại Nhật Bản và toàn xã hội.
Đức Cha Philipe Jourdan – Giám mục Tallin, Estonia
Tôi rất vui mừng về Dilexi te vì chúng tôi là một Giáo hội nhỏ trong một đất nước nhỏ bé. Chúng tôi đang ở bên lề Giáo hội, trong một đất nước đang sống trong nỗi sợ mất hòa bình, độc lập và tự do.
Việc thiếu an ninh cá nhân hay tập thể là một sự nghèo đói lan rộng ngày nay. Đó là một phần của sự nghèo đói về đạo đức mà Dilexi te nói đến. Sự nghèo đói về đạo đức và tinh thần là một sự nghèo đói lớn ở châu Âu và Estonia. Không có hòa bình và an ninh, thật khó để khám phá Chúa Kitô.
Chúng ta sẽ có cơ hội khám phá Dilexi te sâu hơn trong những ngày tới. Đây là điều thực sự nổi bật đối với tôi ngay lúc này: Nỗi sợ hãi là một sự nghèo đói lớn. Chỉ có Chúa Kitô mới có thể chữa lành sự nghèo đói đó.
Đức Cha Mathieu Rouge – Giám mục Nanterre, Pháp
Dilexi te dường như là một văn bản đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô lên kế hoạch: điều tích cực là Đức Lêô XIV cho thấy ngài đang tiếp nối công trình của vị tiền nhiệm. Tôi đặc biệt xúc động trước những lời ngài nhắc đến Thánh Augustinô và các Giáo phụ, cũng như những tổ chức tôn giáo lớn như Dòng Nữ tử Bác ái Thánh Louise de Marillac và Thánh Vincent de Paul, người từng là cha xứ trong giáo phận của tôi.
Sự suy ngẫm này, vừa mang tính xã hội vừa mang tính tâm linh, sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Giáo hội.
VietCatholic TV
Hồi hộp Giải Nobel Hòa bình. Đàn drone nhấn chìm dầu mỏ Nga trong biển lửa. Âm mưu khủng bố TT Bỉ
VietCatholic Media
02:49 10/10/2025
1. Quân đội Ukraine cho biết họ đã tấn công các cơ sở khí đốt và dầu mỏ của Nga ở tỉnh Volgograd.
Bộ Tổng tham mưu Ukraine đưa tin, quân đội Ukraine đã tấn công một nhà máy khí đốt của Nga và một trạm đường ống dẫn dầu ở tỉnh Volgograd của Nga vào đêm 9 tháng 10.
Quân đội cho biết đã xảy ra các vụ nổ và hỏa hoạn tại Nhà máy giải quyết khí Korobkovsky ở Kotovo và Trạm điều phối sản xuất tuyến tính Yefimovka.
Tin tức này xuất hiện khi Ukraine leo thang các cuộc tấn công vào các cơ sở năng lượng của Nga, nhằm mục đích làm suy yếu nguồn thu của nhà nước Mạc Tư Khoa để thúc đẩy cuộc xâm lược toàn diện của nước này.
Các cuộc tấn công mới nhất được tường trình do Lực lượng tác chiến đặc biệt của Ukraine thực hiện.
Kênh Telegram Astra trước đó đã đưa tin về một vụ hỏa hoạn tại nhà máy khí đốt Lukoil ở Kotovo sau một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa. Thống đốc Volgograd, Andrei Bocharov, cho biết “các vụ hỏa hoạn tại các cơ sở nhiên liệu và năng lượng” đang được giải quyết sau các cuộc tấn công trong khu vực.
Quân đội Ukraine cho biết trong một tuyên bố rằng mức độ thiệt hại đang được xác định.
Nhà máy khí Kotovo là một trong những cơ sở lớn nhất cùng loại ở miền Nam nước Nga. Nhà máy có công suất 450 triệu mét khối khí tự nhiên và khí đồng hành mỗi năm, cũng như 186.000 tấn hydrocarbon nhẹ mỗi năm.
Nhà máy này bắt đầu hoạt động vào tháng 9 năm 1966 và đóng vai trò quan trọng trong cơ sở hạ tầng năng lượng của khu vực.
Andrii Kovalenko, nhà lãnh đạo Trung tâm Chống thông tin sai lệch của Ukraine cho biết: “Cơ sở này rất quan trọng đối với cơ sở hạ tầng dầu khí của Nga: nó cung cấp dịch vụ giải quyết và vận chuyển khí ngưng tụ, cũng như sản xuất nguyên liệu thô cho ngành công nghiệp hóa chất”.
Hình ảnh vệ tinh từ Hệ thống quản lý thông tin cháy nổ, gọi tắt là FIRMS của NASA đã xác nhận có một vụ cháy tại nhà máy giải quyết khí.
[Kyiv Independent: Ukraine strikes Russian gas and oil facilities in Volgograd Oblast, military says]
2. Cháy lớn bùng phát tại nhà máy khí đốt của Nga sau vụ tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa
Một vụ hỏa hoạn được tường trình đã bùng phát tại nhà máy giải quyết khí Lukoil ở Kotovo, Nga, sau một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa được báo cáo vào đêm 9 tháng 10.
Kênh Telegram Astra trích dẫn lời người dân địa phương ở vùng Volgograd của Nga đã đưa tin về vụ cháy tại nhà máy giải quyết khí đốt Korobkovsky.
Chưa có xác nhận chính thức nào về các báo cáo này. Tuy nhiên, Thống đốc Volgograd Andrei Bocharov trước đó cho biết “các vụ cháy tại các cơ sở nhiên liệu và năng lượng” đang được giải quyết sau các vụ tấn công trong khu vực.
Chính quyền địa phương chưa công bố thông tin chi tiết về mức độ thiệt hại.
Vụ tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa đã được Andrii Kovalenko, nhà lãnh đạo Trung tâm Chống Thông tin Sai lệch của Ukraine, xác nhận. Vị quan chức này không nêu rõ nguồn gốc của những chiếc máy bay điều khiển từ xa.
Kovalenko cho biết: “Cơ sở này rất quan trọng đối với cơ sở hạ tầng dầu khí của Nga: nó cung cấp dịch vụ giải quyết và vận chuyển khí ngưng tụ, cũng như sản xuất nguyên liệu thô cho ngành công nghiệp hóa chất”.
Hình ảnh vệ tinh từ Hệ thống quản lý thông tin cháy nổ, gọi tắt là FIRMS của NASA đã xác nhận có một vụ cháy tại nhà máy giải quyết khí.
Nhà máy giải quyết khí Korobkovsky là nhà máy giải quyết khí đốt tự nhiên lớn nhất ở Vùng Liên bang phía Nam của Nga. Cơ sở này, bắt đầu hoạt động vào tháng 9 năm 1966, đóng vai trò quan trọng trong cơ sở hạ tầng năng lượng của khu vực.
3. Trong khi Tổng thống Trump chờ đợi phán quyết về Giải Nobel Hòa bình, Netanyahu ủng hộ ông
Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu hôm thứ năm đã tái ủng hộ Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump giành giải Nobel Hòa bình khi cuộc chiến giữa Israel và Hamas ở Gaza sắp kết thúc.
“Hãy trao giải Nobel Hòa bình cho Tổng thống Donald Trump — ông ấy xứng đáng!”, tài khoản của Netanyahu đăng trên X, kèm theo biểu tượng cảm xúc huy chương vàng và hình ảnh minh họa vị tổng thống Hoa Kỳ chiến thắng đang nhận giải thưởng và tiếng vỗ tay từ đám đông.
Ủy ban Na Uy sẽ công bố người chiến thắng giải thưởng danh giá mà Tổng thống Trump mong muốn từ lâu vào ngày hôm nay Thứ Sáu, 10 Tháng Mười.
Vào thứ Tư, Tổng thống Trump tuyên bố rằng Israel và Hamas đã đồng ý với giai đoạn đầu tiên của thỏa thuận hòa bình do Hoa Kỳ đề xuất nhằm chấm dứt cuộc xung đột kéo dài ở Gaza, bao gồm việc trả tự do cho tất cả các con tin Israel bị nhóm chiến binh Palestine bắt giữ và một phần quân đội Israel rút khỏi Gaza.
Cuộc chiến bùng nổ sau vụ tấn công của Hamas vào ngày 7 tháng 10 năm 2023 khiến khoảng 1.200 người thiệt mạng trên đất Israel, khiến hơn 67.000 người Palestine thiệt mạng, trở thành cuộc xung đột đẫm máu nhất giữa hai bên kể từ khi Israel được thành lập.
Netanyahu ban đầu đã đề cử Tổng thống Trump cho giải thưởng này vào tháng 7, trích dẫn vai trò của Mỹ trong việc tấn công chương trình hạt nhân của Iran và làm trung gian cho lệnh ngừng bắn chấm dứt giao tranh giữa các đối thủ Trung Đông. “Giải thưởng này hoàn toàn xứng đáng, và ngài nên nhận được nó”, Netanyahu nói với Tổng thống Trump trong một cuộc họp tại Tòa Bạch Ốc vào ngày 7 tháng 7.
Tổng thống Trump đã nhiều lần nhận công lao chấm dứt bảy cuộc chiến tranh trong nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của mình. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã cung cấp danh sách các cuộc xung đột mà Tổng thống Trump đề cập, bao gồm: Israel và Iran, Rwanda và Cộng hòa Dân chủ Congo, Armenia và Azerbaijan, Thái Lan và Campuchia, Ấn Độ và Pakistan, Ai Cập và Ethiopia, và Serbia và Kosovo.
Những tuyên bố của Tổng thống Trump vấp phải sự hoài nghi từ các chuyên gia chính sách đối ngoại và sự kiểm tra thực tế của nhiều cơ quan truyền thông. Tuy nhiên, vai trò của ông trong việc đạt được lệnh ngừng bắn ở Gaza đã nhận được lời khen ngợi từ các nhà lãnh đạo quốc tế cũng như người dân Israel và Gaza.
Giải Nobel Hòa bình, do nhà hóa học và nhà phát minh Alfred Nobel sáng lập vào thế kỷ 19, được trao hàng năm cho cá nhân đã “làm nhiều nhất hoặc tốt nhất công việc vì tình anh em giữa các quốc gia, vì việc bãi bỏ hoặc giảm quân đội thường trực, và vì việc tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình”.
Cựu Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama - kẻ thù lâu năm của Tổng thống Trump - đã nhận giải thưởng này vào năm 2009, trở thành tổng thống Hoa Kỳ thứ tư được vinh danh.
Giải thưởng này vẫn là một trong những giải thưởng gây tranh cãi nhiều nhất trong lịch sử giải thưởng, vì nhiệm kỳ tổng thống của Obama tiếp tục các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ trên nhiều khu vực, khiến những người chỉ trích đặt câu hỏi về mức độ phù hợp giữa thành tích của ông với các lý tưởng do chính Nobel đề ra.
[Politico: As Trump awaits Nobel Peace Prize verdict, Netanyahu backs him]
4. Đòn bẩy của Tổng thống Trump: Các nhà phân tích hàng đầu cho rằng mối đe dọa Tomahawk là vũ khí chính trị, không phải là giải pháp quân sự tối ưu
Một nhóm chuyên gia cao cấp đã thúc giục các đồng minh phương Tây phải cung cấp “bước đột phá thực sự” về viện trợ quân sự cho Ukraine và ngừng hỗ trợ chậm chạp, phương Tây cần gia tăng để bảo đảm chiến thắng.
Các cựu quan chức cao cấp của Hoa Kỳ, Ukraine và NATO đã tranh luận về giá trị chiến lược của các loại vũ khí tầm xa như hỏa tiễn Tomahawk, nhấn mạnh rằng việc tài trợ đầy đủ cho ngành công nghiệp quốc phòng nội địa của Kyiv là con đường chắc chắn nhất dẫn đến chiến thắng.
Cựu Thủ tướng Arseny Yatsenyuk, phát biểu tại sự kiện này, khẳng định rằng sự do dự và viện trợ chậm chạp của phương Tây đã khiến Ukraine mất đi động lực quan trọng.
Ông cảnh báo rằng kết quả duy nhất có thể chấp nhận được của Putin là “sự đầu hàng hoàn toàn và vô điều kiện của Ukraine và thế giới phương Tây”. Putin bác bỏ mọi cuộc đàm phán về nhượng bộ hoặc đổi đất là không thực tế.
Cuộc thảo luận nhanh chóng tập trung vào các báo cáo cho biết Hoa Kỳ đang cân nhắc việc gửi hỏa tiễn hành trình tầm xa Tomahawk tới Ukraine, một ý tưởng nhận được cả sự ủng hộ nhiệt tình và sự hoài nghi sâu sắc về mặt chiến lược từ các cựu quan chức Hoa Kỳ có mặt.
Paula Dobriansky, cựu Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ và quan chức Hội đồng An ninh Quốc gia, ca ngợi sự thay đổi trong chính sách của Washington là một “bước ngoặt tiềm năng”.
Bà lưu ý rằng động thái này, cùng với những bình luận gần đây của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump về việc Ukraine mua lại “toàn bộ lãnh thổ của mình”, thể hiện sự thay đổi đáng kể trong tư duy của người Mỹ.
Khi cuộc chiến ở Ukraine kéo dài, sự can thiệp chính trị và luật lệ “bắt chước” của Mạc Tư Khoa đang phá hoại con đường hội nhập Âu Châu-Đại Tây Dương của các nước láng giềng. Chuyên gia Jonathan Katz của Brookings nói với Kyiv Post rằng phương Tây đang bị thử thách.
Tuy nhiên, Trung tướng đã nghỉ hưu của Quân đội Hoa Kỳ và cựu Đại sứ NATO Douglas Lute đã bác bỏ quan điểm cho rằng Tomahawk sẽ là giải pháp quân sự tối ưu.
Tướng Lute cho biết: “Hãy xem, câu chuyện ngắn gọn về viện trợ quân sự trong ba năm qua chỉ là những sự gia tăng, và không có sự gia tăng nào trong số đó làm thay đổi đáng kể tình hình chiến trường”.
Ông lập luận rằng giá trị của Tomahawk chủ yếu là “chính trị” chứ không phải là lợi thế đáng kể trên chiến trường, lưu ý rằng Ukraine đã sản xuất được một loại hỏa tiễn hành trình trong nước, theo một số cách, có khả năng hơn và rẻ hơn đáng kể.
Bất chấp sự bất đồng về các hệ thống vũ khí cụ thể của Hoa Kỳ, các chuyên gia an ninh Hoa Kỳ đã đạt được sự đồng thuận về chiến lược dài hạn hiệu quả nhất đối với Washington: đó là đầu tư trực tiếp vào năng lực sản xuất của Ukraine.
Tướng Lute tuyên bố rõ ràng rằng “điều tốt nhất” mà Hoa Kỳ có thể làm là “tài trợ đầy đủ cho ngành công nghiệp quốc phòng của Ukraine đang phát triển mạnh mẽ “, mà ông ước tính hiện đang hoạt động ở mức dưới 50% công suất.
Kim Kagan, người sáng lập Viện Nghiên cứu Chiến tranh, gọi tắt là ISW, đồng tình với quan điểm này và gọi việc đầu tư vào ngành công nghiệp quốc phòng là “khoản đầu tư tuyệt vời” cho cả Ukraine và an ninh của Âu Châu.
Dobriansky ủng hộ quan điểm này và nói thêm rằng khoản đầu tư như vậy “tương đương với chiến thắng ở Ukraine” và là sự bảo đảm an ninh đáng tin cậy nhất cho đất nước trong tương lai.
Yatsenyuk đặt câu hỏi tại sao các đối tác phương Tây lại giữ lại “công nghệ tiên tiến” cho phép Kyiv sản xuất hỏa tiễn tầm xa của riêng mình, qua đó làm suy yếu tuyên bố của Nga về sự leo thang liên quan đến vũ khí của Hoa Kỳ hoặc Âu Châu.
Về tình hình quân sự, Kim Kagan đã thách thức quan điểm phổ biến của Hoa Kỳ về tình trạng “bế tắc” kéo dài trên chiến trường.
“Cuộc chiến này không phải là bế tắc. Đây là cuộc chiến về vị trí,” Kagan giải thích.
Bà lưu ý rằng Nga đang đạt được những bước tiến nhỏ, gia tăng bằng cách sử dụng các cuộc xâm nhập được hỗ trợ bởi máy bay điều khiển từ xa dọc theo tuyến đầu dài 1.200 km.
Kagan cảnh báo rằng “học thuyết chiến thắng” của Putin dựa trên ý tưởng rằng ông sẽ tồn tại lâu hơn sự ủng hộ của phương Tây.
Bà kết luận đánh giá của mình bằng cách nhấn mạnh bản chất sống còn của cuộc xung đột vì lợi ích của Hoa Kỳ: “Tôi nghĩ rằng điều quan trọng đối với an ninh quốc gia Hoa Kỳ là người Ukraine phải chiến thắng.”
[Newsweek: Trump’s Leverage: Top Analysts Say Tomahawk Threat is Political Weapon, Not Military Silver Bullet]
5. Tổng thống Zelenskiy nói rằng Âu Châu phải đối mặt với ‘nguy cơ đáng kể’ về một cuộc chiến tranh lớn nếu Nga bắt đầu huy động quân đội
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy phát biểu vào ngày 10 tháng 10 rằng nếu Putin phát động một cuộc huy động mới ở Nga, điều này có thể gây ra mối đe dọa nghiêm trọng cho Âu Châu và châm ngòi cho một cuộc chiến tranh thế giới.
Lời cảnh báo của tổng thống được đưa ra khi Nga tăng cường các hành động khiêu khích chống lại các nước NATO, bao gồm cả việc tung ra nhiều máy bay điều khiển từ xa bí ẩn trên khắp Âu Châu làm dấy lên lo ngại về chiến tranh hỗn hợp.
“Bất cứ nơi nào có thành công nhanh chóng, đó chính là nơi Putin sẽ đến nếu có thêm nhân sự”, Tổng thống Zelenskiy phát biểu trong một cuộc họp báo. “Có nguy cơ đáng kể là Putin thực sự sẽ lao vào một cuộc chiến tranh thế giới.”
Theo tổng thống Ukraine, mối nguy hiểm xuất phát từ nhu cầu chính trị của Putin muốn chứng minh “thành công” sau gần bốn năm Nga tiến hành cuộc chiến toàn diện chống lại Ukraine.
“Việc huy động quân đồng nghĩa với việc nhà lãnh đạo Nga chắc chắn sẽ mất đi sự ủng hộ. Đó là lý do duy nhất khiến ông ấy không làm điều đó”, ông nói. “Nếu có sự huy động quân, đó sẽ là một thách thức đối với Âu Châu. Ông ấy sẽ khơi mào một cuộc chiến tranh lớn.”
Cuộc tổng động viên của Nga vào năm 2022 — lần đầu tiên kể từ Thế chiến thứ II — diễn ra sau những thất bại quân sự ở tiền tuyến và gây ra các cuộc biểu tình và di cư hàng loạt, với hơn 261.000 người Nga phải chạy trốn.
Mặc dù Điện Cẩm Linh sau đó tuyên bố việc huy động đã “hoàn tất”, nhưng không có sắc lệnh tổng thống nào chính thức chấm dứt việc này.
Thay vì phát động một chiến dịch tuyển quân khác, Mạc Tư Khoa đã dựa vào các ưu đãi tài chính và chiến dịch tuyển dụng, cung cấp các hợp đồng béo bở cho những người tình nguyện sẵn sàng phục vụ trong quân đội.
“Tin tôi đi, họ chắc chắn không muốn trả số tiền lớn cho các hợp đồng. Số tiền lớn như vậy mà họ đã chi trả suốt bao năm qua. Hãy tưởng tượng cái giá phải trả để bảo vệ xếp hạng tín nhiệm cá nhân của ông ấy”, Tổng thống Zelenskiy nói.
[Kyiv Independent: Europe faces 'significant risk' of major war if Russia starts mobilization, Zelensky says]
6. Khi Mạc Tư Khoa và Kyiv trao đổi các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa, Điện Cẩm Linh lo ngại về cuộc tấn công mới nhất vào Kherson bị tạm chiếm
Vài giờ sau khi Nga tiến hành một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa vào Ukraine, đánh vào các cơ sở năng lượng và cơ sở hạ tầng hỏa xa ở các vùng Poltava và Sumy, và một ngày sau khi lực lượng xâm lược tiến hành một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa lớn khác vào ban đêm vào các mục tiêu dân sự, khiến năm người thiệt mạng, bao gồm một thiếu niên, Mạc Tư Khoa đã chỉ trích lực lượng Ukraine về một cuộc tấn công vào vùng Kherson bị Nga tạm chiếm vào thứ Ba, được tường trình đã giết chết bốn người.
Hôm Thứ Tư, 08 Tháng Mười, Thống đốc khu vực Kherson do Điện Cẩm Linh bổ nhiệm, Vladimir Saldo, cho biết các cuộc tấn công trả đũa của Kyiv vào lãnh thổ bị tạm chiếm tại đây bao gồm 209 máy bay điều khiển từ xa bị chặn và giết chết thường dân trên một chiếc xe.
Trong khi đó, chính quyền địa phương Ukraine được bầu trong khu vực đã cáo buộc Nga giết một người đàn ông ở thành phố Kherson, do Kyiv kiểm soát.
“Một cư dân 65 tuổi của Kherson đã bị trúng đạn của địch. Ông ấy đã tử vong”, Thống đốc vùng Kherson, Oleksandr Prokudin, cho biết trên Telegram.
Các cuộc tấn công gần đây của Nga vào cơ sở hạ tầng năng lượng và dầu mỏ của Ukraine, xảy ra vào mỗi mùa thu kể từ khi Mạc Tư Khoa bắt đầu cuộc xâm lược vô cớ vào tháng 2 năm 2022, đã thành công trong mục tiêu khiến hàng triệu cư dân không có hệ thống sưởi ấm và điện trong nhiều tháng trời trong thời tiết giá lạnh.
Trong đó có cuộc tấn công của Nga vào lưới điện vào ngày Giáng Sinh năm 2024.
AFP đưa tin Ukraine cho biết Nga đã phóng 154 máy bay điều khiển từ xa và hỏa tiễn vào đêm thứ Hai và kéo dài đến thứ Ba, trong đó khoảng một nửa đã bị đánh chặn.
Tình trạng năng lượng cũng vẫn còn khó khăn ở Chernihiv, nơi các chuyên gia đang chuyển hướng nguồn điện để ưu tiên cơ sở hạ tầng quan trọng và các tòa nhà dân cư, nhằm ngăn chặn tình trạng mất điện hoàn toàn.
Kyiv cho biết một máy bay điều khiển từ xa đã tấn công cơ sở hạ tầng hỏa xa và năng lượng ở khu vực Poltava và Sumy vào sáng sớm thứ Ba, khiến hơn 1.000 người không có điện.
Theo nguồn tin của Nga, một ngày trước đó, Ukraine đã phóng 251 máy bay điều khiển từ xa về phía Nga và hai người đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn vào thành phố Belgorod, cách biên giới quốc tế khoảng 30 km (19 dặm).
“ Một ngàn người ở bốn thị trấn vẫn chưa có điện”, thống đốc Belgorod Vyacheslav Gladkov tuyên bố.
[Kyiv Post: As Moscow and Kyiv Trade Drone Attacks, Kremlin Alarmed at Latest Strike on Occupied Kherson]
7. 3 người bị bắt vì nghi ngờ âm mưu khủng bố nhắm vào Thủ tướng Bỉ Bart De Wever
Chính quyền liên bang Bỉ đã bắt giữ ba nghi phạm trẻ tuổi có liên quan đến vụ việc mà các công tố viên cho là âm mưu tấn công khủng bố nhằm vào các chính trị gia nước này, bao gồm cả Thủ tướng Bart De Wever.
Công tố viên liên bang Ann Fransen cho biết các nghi phạm - sinh năm 2001, 2002 và 2007 - đã bị bắt giữ tại Antwerp vào sáng thứ Năm vì nghi ngờ âm mưu giết người khủng bố và tham gia vào các hoạt động của một nhóm khủng bố. Hai người vẫn đang bị giam giữ và sẽ ra hầu tòa, trong khi người thứ ba đã được thả.
“Có dấu hiệu cho thấy ý định thực hiện một vụ tấn công khủng bố lấy cảm hứng từ thánh chiến nhắm vào các chính trị gia”, Fransen phát biểu trong một cuộc họp báo. Nhà chức trách đã tiến hành bốn cuộc khám xét nhà với sự hỗ trợ của các đội rà phá bom và các đơn vị cảnh sát liên bang.
Theo tờ báo Gazet van Antwerpen và các nguồn tin được đài truyền hình VRT trích dẫn, trong số các mục tiêu bị nhắm đến có De Wever, lãnh đạo đảng dân tộc chủ nghĩa Flemish Liên minh Flemish Mới (N-VA). Khi được POLITICO liên hệ, phát ngôn nhân của De Wever, Philippe Kerckaert, đã từ chối bình luận.
Sau đó vào thứ năm, Ngoại trưởng Maxime Prévot đã xác nhận trên X rằng cuộc tấn công được lên kế hoạch đã nhắm vào De Wever, gọi đó là “cực kỳ gây sốc”.
Ông cho biết: “Bỉ đang tích cực tăng cường năng lực đối phó với các hình thức khủng bố mới, đặc biệt là thông qua cuộc chiến chống lại việc sử dụng máy bay điều khiển từ xa một cách ác ý”.
Các nhà điều tra đang xem xét bằng chứng về kế hoạch sử dụng máy bay điều khiển từ xa để điều động một thiết bị được tìm thấy trong các cuộc đột kích tại quận Deurne, Antwerp, một cơ chế mà văn phòng công tố cho biết trông giống như một thiết bị nổ tự chế. Các nhà điều tra cũng tìm thấy một túi bi thép và thu giữ một máy in 3D từ một nghi phạm thứ hai, được tường trình dùng để sản xuất các bộ phận của bom.
Bà Fransen cảnh báo rằng vụ việc này làm nổi bật nguy cơ khủng bố đang diễn ra ở Bỉ. “Hồ sơ này cho thấy tất cả các cơ quan an ninh phải luôn cảnh giác trước nguy cơ tấn công khủng bố”, bà nói.
Các công tố viên Bỉ đã mở khoảng 80 vụ án khủng bố mới trong năm nay - nhiều hơn tổng số vụ án trong năm 2024. Vụ bắt giữ hôm thứ Năm diễn ra gần một thập niên sau vụ tấn công khủng bố Brussels vào tháng 3 năm 2016 khiến 32 người thiệt mạng.
“Chủ nghĩa khủng bố chưa bao giờ biến mất. Nó vẫn là kẻ thù của nền dân chủ mà chúng ta phải tiếp tục chiến đấu”, Bộ trưởng Năng lượng Mathieu Bihet phát biểu trên X. Ông Bihet thuộc đảng Phong trào Cải cách trung hữu, một thành viên nói tiếng Pháp trong chính phủ liên minh của De Wever.
Đây không phải là lần đầu tiên De Wever bị nhắm đến. Vào tháng 4, Tòa Phúc thẩm Antwerp đã tuyên án tù năm người đàn ông, bao gồm cả thủ lĩnh của nhóm, vì âm mưu ám sát De Wever, cựu thị trưởng Antwerp, bất thành vào năm 2023.
[Politico: 3 arrested in suspected terror plot targeting Belgian PM Bart De Wever]
8. Khả năng thiếu nước và điện ở Kyiv được báo cáo trong bối cảnh các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa quy mô lớn
Nga đã tiến hành một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa quy mô lớn vào Kyiv vào đêm 9 tháng 10, có khả năng làm gián đoạn nguồn cung cấp nước và điện của thành phố.
Thị trưởng Kyiv Vitali Klitschko cho biết: “Do một cuộc tấn công quy mô lớn bằng UAV của kẻ thù vào thủ đô, có thể sẽ xảy ra tình trạng mất điện và nước. Tất cả các đội cấp cứu đang theo dõi tình hình và sẵn sàng ứng phó”.
Trước đó vào đêm, khoảng 11:44 tối giờ địa phương, Klitschko đã đưa tin trên Telegram rằng lực lượng phòng không Ukraine đang tích cực chống lại các máy bay điều khiển từ xa đang bay tới.
Số thương vong và mức độ thiệt hại của vụ tấn công vẫn chưa được báo cáo, và khả năng mất nước và mất điện vẫn chưa được xác nhận.
Trong những tuần gần đây, Nga đã tăng cường các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng dân sự và năng lượng của Ukraine trước mùa đông.
Các cuộc không kích của Nga được tường trình đã phá hủy hơn một nửa sản lượng khí đốt của Ukraine trước mùa đông
Quân đội Ukraine cho biết họ đã tấn công các cơ sở khí đốt và dầu mỏ của Nga ở tỉnh Volgograd.
Tổng thống Zelenskiy nói rằng Âu Châu phải đối mặt với ‘nguy cơ đáng kể’ về một cuộc chiến tranh lớn nếu Nga bắt đầu huy động quân đội
Nghị viện Liên Hiệp Âu Châu kêu gọi sẵn sàng bắn hạ máy bay và máy bay điều khiển từ xa của Nga trên lãnh thổ các quốc gia thành viên
Serbia gửi viện trợ nhân đạo tới Kursk của Nga trị giá khoảng 6 triệu đô la, Mạc Tư Khoa tuyên bố.
[Kyiv Independent: Potential water, power shortages reported in Kyiv amid massive drone strikes]
9. Thủ tướng Đan Mạch cảnh báo Tổng thống Trump vẫn chưa từ bỏ mong muốn sở hữu Greenland mãi mãi
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump có thể đã quên Greenland vào lúc này, nhưng ông ấy sẽ quay trở lại, Thủ tướng Đan Mạch Mette Frederiksen cảnh báo hôm Thứ Tư, 08 Tháng Mười.
Trước đây, Tổng thống Trump đã ám ảnh hòn đảo Bắc Cực, một vùng lãnh thổ tự trị của Đan Mạch có rất nhiều đất hiếm chưa được khai thác, và từ chối loại trừ khả năng gửi quân hoặc sử dụng áp lực kinh tế để chinh phục hòn đảo này.
Ông ấy đã đưa ra rất ít tuyên bố công khai về Greenland trong những tháng gần đây, dường như đang chuyển sự chú ý sang các chủ đề khác. Nhưng sự nhẹ nhõm này chỉ là tạm thời, Frederiksen cho biết.
“Hiện tại, điều đó dường như còn rất xa vời. Có lẽ chúng ta có thể thở phào nhẹ nhõm”, Frederiksen phát biểu tại lễ khai mạc quốc hội Đan Mạch. “Nhưng tôi tin rằng chúng ta không thể.”
Bà nói thêm rằng dân số 60.000 người của Greenland vẫn sống trong nỗi sợ hãi bị Mỹ tiếp quản.
Bà nói: “Hãy tưởng tượng cuộc sống ở một trong những thị trấn nhỏ dọc bờ biển sẽ như thế nào… khi siêu cường quốc mạnh nhất thế giới nói về bạn như một thứ có thể mua được, một thứ có thể sở hữu, một thứ phải có được”.
“ Dù có chuyện gì xảy ra, chúng tôi vẫn ủng hộ Greenland tự quyết định tương lai của mình. Và chúng tôi sẽ không để bị đe dọa hay ép buộc làm điều gì đó rõ ràng là sai trái”, Frederiksen nói thêm.
Kể từ những lời đề nghị mạnh mẽ của Tổng thống Trump, Greenland đã tìm cách tăng cường quan hệ với Liên minh Âu Châu và các đối tác khác như một lá chắn chống lại Washington, và đang chuẩn bị ký kết quan hệ đối tác về khoáng sản quan trọng với Vương quốc Anh.
Ngoại trưởng của hòn đảo, Vivian Motzfeldt, đã nói với tờ POLITICO vào tháng 5 rằng Greenland quan tâm đến việc tìm hiểu quan hệ đối tác thương mại với “các quốc gia có cùng chí hướng” và chỉ trích Tổng thống Trump vì hành động đe dọa này.
Thủ tướng Greenland Jens-Frederik Nielsen dự kiến sẽ có bài phát biểu tại Nghị viện Âu Châu ở Strasbourg vào thứ Tư.
[Politico: Trump hasn’t moved on from wanting Greenland forever, Danish PM warns]
10. Các cuộc không kích của Nga đã phá hủy hơn một nửa công suất sản xuất khí đốt tự nhiên của Ukraine trước mùa đông.
Các nguồn tin của Bloomberg cho biết các cuộc tấn công đã phá hủy khoảng 60% sản lượng khí đốt của Ukraine. Naftogaz gọi đây là cuộc tấn công “lớn nhất” vào cơ sở hạ tầng khí đốt kể từ khi chiến tranh bắt đầu.
Công ty năng lượng tư nhân lớn nhất Ukraine, DTEK, cho biết họ buộc phải ngừng hoạt động tại các cơ sở ở Poltava sau các cuộc không kích. Hai ngày sau, Nga lại phát động một cuộc tấn công khác nhắm vào cơ sở hạ tầng thiết yếu cho hệ thống sưởi ấm dân dụng, gây ra thêm thiệt hại, Naftogaz cho biết.
Các cuộc không kích cho thấy chiến lược của Mạc Tư Khoa nhằm vào cơ sở hạ tầng năng lượng để làm suy yếu tinh thần dân sự. Kể từ năm 2022, Nga đã nhiều lần tấn công phá hoại hệ thống sưởi ấm và điện của Ukraine bằng các cuộc tấn công.
Theo Bloomberg, Kyiv đã kêu gọi các đối tác G7 cung cấp thiết bị khẩn cấp để sửa chữa các cơ sở bị hư hại và nhắc lại yêu cầu về các hệ thống phòng không bổ sung để bảo vệ cơ sở hạ tầng năng lượng.
[Kyiv Independent: Russian strikes have destroyed more than half of Ukraine's natural gas production capacity ahead of winter, Bloomberg reported on Oct. 9, citing its undisclosed sources.]
11. Những điều cần biết về tình hình chính trị hỗn loạn của Pháp
Cuộc khủng hoảng bắt đầu tuần này - việc Thủ tướng Sébastien Lecornu /sê-bát-siêng lơ-co-nu/ và các bộ trưởng mới được bổ nhiệm của ông từ chức chỉ sau 14 giờ - vẫn đang tiếp diễn, với việc Macron dự kiến sẽ chỉ định người thay thế Lecornu /lơ-co-nu/ vào thứ Sáu, theo văn phòng của ông.
Nhưng vẫn còn những câu hỏi lớn hơn về những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Nếu người kế nhiệm Lecornu cũng thất bại, điều đó sẽ buộc Macron phải cân nhắc một số lựa chọn rất khó chấp nhận. Ông vẫn có thể từ chức, hai năm trước khi nhiệm kỳ kết thúc - một động thái mà ông đã nhiều lần bác bỏ. Hoặc, ông có thể giải tán quốc hội và kêu gọi một vòng bầu cử sớm, điều này có thể đưa phe cực hữu tiến gần hơn đến quyền lực hơn bao giờ hết.
Nguyên nhân nào gây ra cuộc khủng hoảng chính trị mới nhất này?
Vào tối Chúa Nhật, các bộ trưởng chủ chốt trong nội các của Lecornu đã được công bố, và hầu hết trong số họ là những người còn sót lại từ chính phủ của người tiền nhiệm - đã bị lật đổ vào tháng trước - và hai gương mặt mới nổi bật nhất trước đây đã từng giữ các chức vụ bộ trưởng trong nhiệm kỳ của Macron.
Các đảng đối lập, những người từng bày tỏ sự cởi mở trong việc hợp tác với Lecornu về ngân sách cho năm tới, và các đối tác liên minh thiểu số tiềm năng, đã tỏ ra rất tức giận. Họ đã nói rõ rằng họ đang tìm kiếm những tín hiệu cho thấy Lecornu sẽ hành động khác đi sau khi ông hứa sẽ “chia tay” với các chính phủ trước đây của Macron.
Bruno Retailleau /bru-nô ri-tây-lô/, người lãnh đạo đảng bảo thủ vốn là đối tác liên minh quan trọng của các chính phủ thiểu số gần đây, đã bày tỏ sự không hài lòng trong một bài đăng trên X và cho biết đảng của ông sẽ vạch ra một con đường tiếp theo vào sáng hôm sau.
Sáng hôm sau, văn phòng của Macron thông báo rằng ông đã chấp nhận đơn từ chức của Lecornu và chính phủ của ông sau tổng cộng 14 giờ làm việc.
Điều này có ý nghĩa gì đối với phe cực hữu theo chủ nghĩa dân tộc?
Hãy bắt đầu với Marine Le Pen và đảng cực hữu của bà, Đảng Tập hợp Quốc gia, bởi vì hiện tại họ đang có vị thế khá tốt. Le Pen từ lâu đã ủng hộ luận điệu của Tổng thống Trump rằng các đảng phái chính trị chính thống là kém cỏi và lạc hậu, vì vậy một tình huống như thế này càng chứng minh quan điểm của bà. Đảng Tập hợp Quốc gia tiếp tục tăng điểm trong các cuộc thăm dò và nên được coi là ứng cử viên hàng đầu cho bất kỳ cuộc bầu cử bất ngờ nào hoặc cuộc bầu cử tổng thống tiếp theo vào năm 2027, mà theo hiến pháp, Macron bị cấm tham gia.
Để hiểu được động lực đang diễn ra, bạn phải quay lại ngày 9 tháng 6 năm 2024, khi phe trung dung của Macron bị phe cực hữu đánh bại trong cuộc bầu cử Âu Châu.
Phiếu bầu ở Âu Châu cũng giống như bầu cử giữa kỳ ở Mỹ. Chúng không thu hút nhiều cử tri đi bỏ phiếu và thường được coi là phiếu bầu phản đối. Hơn nữa, các cuộc thăm dò đã dự đoán chiến thắng của Đảng Tập hợp Quốc gia.
Chiến thắng không phải là điều bất ngờ. Phản ứng của Macron mới là điều bất ngờ. Tối hôm đó, ông tuyên bố sẽ giải tán quốc hội và tổ chức bầu cử sớm càng sớm càng tốt, đánh cược rằng một cuộc bỏ phiếu trong nước mang tính quyết định sẽ ngăn chặn sự trỗi dậy dường như không thể ngăn cản của phe cực hữu.
Kết quả cuối cùng là một quốc hội treo, bị chia thành ba khối bằng nhau. Phần lớn trong số họ tỏ ra không sẵn lòng tham gia vào các hoạt động xây dựng liên minh thường thấy ở các nước Âu Châu khác như Ý và Đức, bất chấp những lời kêu gọi liên tục từ Macron.
Thủ tướng đầu tiên cố gắng xoay xở trong bối cảnh cơ quan lập pháp đang chia rẽ, Michel Barnier /mi-sen bạc-nhê/, chỉ tại vị được khoảng ba tháng trước khi bị sa thải vì kế hoạch cắt giảm hàng tỷ đô la ngân sách nhằm kiềm chế chi tiêu công vượt mức. Người tiền nhiệm của ông, François Bayrou/phăng-xoa bây-ru/, chỉ tại vị được chín tháng nhưng đã bị sa thải vì chính ngân sách không được lòng dân của mình, bao gồm cả kế hoạch cắt giảm hai ngày lễ.
Lecornu tiếp quản Bayrou vào đầu tháng 9 và giờ chúng ta đã có mặt ở đây.
[Politico: What to know about France’s political mess]
12. Tại thị trấn biên giới Estonia, phần lớn người nói tiếng Nga được hưởng lá chắn của NATO, vẫn im lặng trước mối đe dọa từ Nga
Ở cả hai bên bờ sông Narva, những người đánh cá đứng ngập đến đầu gối dưới nước giữa hai tòa lâu đài thời trung cổ chỉ cách nhau 101 mét. Phía trên họ, những lá cờ đánh dấu nơi NATO kết thúc và Nga bắt đầu.
Trong nhiều năm, các chuyên gia đã cảnh báo về “kịch bản Narva” - một kế hoạch trong đó Nga có thể cố gắng chiếm một thành phố biên giới của Estonia bằng cách sử dụng câu nói cũ của mình là “bảo vệ cộng đồng nói tiếng Nga”.
Sau khi Âu Châu không thể giải quyết được các cuộc xâm nhập bằng máy bay điều khiển từ xa liên tục của Nga, thành phố Narva, nơi phần lớn dân cư nói tiếng Nga, một lần nữa trở thành điểm nóng trong phòng thủ sườn phía đông của NATO.
Khi được hỏi về nước Nga, nằm ngay bên kia con sông cạn, và thái độ hiếu chiến của nước này, người dân Narva vẫn giữ thái độ dè dặt trong câu trả lời.
“Mọi chuyện đều có thể xảy ra ngày nay, nhưng tôi không sợ”, một người đàn ông trên bờ kè trả lời câu hỏi về khả năng xảy ra một cuộc xâm lược.
Một tài xế taxi, chỉ vài phút sau, đã tỏ ra hoài nghi hơn nhiều về chiến tranh. “Trước đây, bạn phải giảm một nửa mức độ của những gì họ nói trên phương tiện truyền thông, ngay cả trước chiến tranh. Giờ đây, bạn chỉ có thể tin 1% những gì họ nói.”
Narva là thành phố lớn thứ ba ở Estonia. Nằm gần St. Petersburg của Nga hơn thủ đô Tallinn của Estonia, Narva là nơi sinh sống của khoảng 54.000 cư dân, trong đó 95% là người nói tiếng Nga, theo điều tra dân số năm 2021.
Vị trí gần biên giới và sự thống trị áp đảo của cộng đồng nói tiếng Nga khiến thành phố Narva trở thành mục tiêu ngày càng được chú ý khi mối quan hệ NATO-Nga ngày càng xấu đi.
Bất chấp những tranh chấp trong liên minh, những người ở Narva trao đổi với tờ Kyiv Independent đều khẳng định rằng họ không mong đợi một cuộc tấn công của Nga.
Gần một phần tư dân số Estonia tin rằng việc trở thành thành viên của NATO sẽ ngăn chặn mọi hành vi xâm lược và gần một nửa tin rằng sẽ có hỗ trợ quân sự trực tiếp nếu chiến tranh xảy ra.
“Narva sẽ không phải là mục tiêu tiếp theo, vì chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng”, Thiếu tá Neeme Brus, phát ngôn nhân của Liên đoàn Phòng thủ Estonia hay Kaitseliit, tổ chức phòng thủ lãnh thổ tự nguyện của đất nước, cho biết.
[Kyiv Independent: In Estonia’s border town, Russian-speaking majority enjoys NATO’s shield, remains mute on Russia’s threat]
Bất ngờ lớn: Cô María Corina Machado can đảm chống tên độc tài Maduro đoạt giải Nobel Hòa bình 2025
VietCatholic Media
06:51 10/10/2025
1. Giải Nobel Hòa bình được trao cho lãnh đạo phe đối lập Venezuela bất chấp những nỗ lực vận động hành lang của Tổng thống Trump
Tổng thống Trump hôm thứ Sáu đã không giành được giải Nobel Hòa bình mà ông hằng mong đợi, giải thưởng này đã thuộc về nhà lãnh đạo phe đối lập Venezuela María Corina Machado.
Năm nay, Tổng thống Trump đã vận động mạnh mẽ cho giải thưởng, tuyên bố đã giải quyết bảy đến tám cuộc chiến trong nhiệm kỳ này — mặc dù thực tế phức tạp hơn. Theo Tòa Bạch Ốc, bảy nhà lãnh đạo thế giới đã ủng hộ ông cho giải thưởng này.
Tổng thống Trump đã nhấn mạnh công việc đó trong tuần này bằng cách hoàn tất giai đoạn đầu tiên của thỏa thuận hòa bình ở Gaza, mặc dù nhiều người cho rằng người chiến thắng đã được chọn từ nhiều tuần trước.
Chủ tịch Ủy ban Nobel Jørgen Watne Frydnes cho biết Machado “đã lên tiếng ủng hộ độc lập tư pháp, nhân quyền và đại diện cho người dân” trong thời kỳ nền dân chủ đang suy yếu. “Bà đã dành nhiều năm đấu tranh cho tự do của người dân Venezuela.”
Ông nói thêm: “Chúng ta đang sống trong một thế giới mà nền dân chủ đang thoái trào, nơi ngày càng nhiều chế độ độc tài thách thức các chuẩn mực và dùng đến bạo lực”, đồng thời cho biết Venezuela “không phải là trường hợp duy nhất” có “sự lạm dụng pháp luật của những người nắm quyền”.
Machado là người chỉ trích gay gắt chế độ độc tài Venezuela Nicolás Maduro và đã sống ẩn náu tại Venezuela trong năm qua.
Giải thưởng này luôn hiện hữu trong tâm trí Tổng thống Trump; ông thường xuyên nhắc đến nó kể từ khi trở lại Phòng Bầu dục. “Họ sẽ không bao giờ trao cho tôi giải Nobel Hòa bình”, tổng thống nói với các phóng viên hồi tháng Hai. “Thật đáng tiếc. Tôi xứng đáng, nhưng họ sẽ không bao giờ trao nó cho tôi.”
Ông nhắc lại những lo ngại đó vào thứ Năm, nói với các phóng viên: “Tôi không biết họ sẽ làm gì, nhưng tôi biết chưa ai trong lịch sử giải quyết được tám cuộc chiến trong vòng chín tháng… Họ sẽ phải làm những gì họ đang làm. Dù họ làm gì thì cũng ổn. Tôi biết điều này: Tôi không làm những điều đó vì mục đích giành giải thưởng.”
Đám đông du khách đã bất chấp cơn gió lạnh thổi từ vịnh Oslofjord để theo dõi lễ công bố người chiến thắng năm nay được truyền hình trực tiếp trên màn hình lắp đặt trước Trung tâm Hòa bình Nobel ở bờ sông thành phố.
Sau những khoảnh khắc căng thẳng rõ rệt trước khi công bố, đã c;ó dấu hiệu nhẹ nhõm và tiếng reo hò vui mừng khi Machado của Venezuela được công bố là người chiến thắng năm nay.
“Tôi rất mừng vì anh chàng mặc áo cam đã không thắng”, Ulf Smilowsky, một du khách người Đức đang xem trực tiếp thông báo trên màn hình lắp đặt bên ngoài Trung tâm Hòa bình Nobel ở Oslo, chia sẻ. “Tôi nghĩ anh ta là người duy nhất nghĩ mình sẽ thắng, và tôi mừng là anh ta đã không thắng.”
Elliot Roberts, một sinh viên trao đổi đến từ Montana, đồng tình và cho biết quyết định trao giải thưởng năm nay cho một nhà hoạt động dân chủ đã gửi một thông điệp mạnh mẽ “về quê nhà”.
“Tôi rất vui vì Ủy ban Nobel Na Uy đã chống lại áp lực và trao giải cho một người thực sự xứng đáng vào thời điểm nền dân chủ đang bị tấn công trên toàn thế giới.”
Cựu Tổng thư ký NATO Anders Fogh Rasmussen, cùng nhiều người khác, đã suy đoán rằng Tổng thống Trump thực sự sẽ không đủ điều kiện nhận giải thưởng năm nay. Bất chấp những động thái gần đây hướng tới một thỏa thuận hòa bình ở Gaza, việc đề cử cho giải thưởng năm nay đã đến hạn 11 ngày sau lễ nhậm chức nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Trump.
“ Nếu tiến trình hòa bình Trung Đông thành công, nếu kế hoạch 20 điểm thực sự được thực hiện, và chúng ta sẽ thấy một nền hòa bình lâu dài và bền vững trong khu vực, thì đó là một bước tiến quan trọng. Và nếu, thông qua việc gia tăng áp lực lên Putin, ông ấy có thể tạo ra hòa bình ở Ukraine, tôi nghĩ ông ấy sẽ, và nên, là một ứng cử viên mạnh mẽ”, ông nói với POLITICO.
Giải thưởng này, có giá trị khoảng 1 triệu đô la, được trao hàng năm cho một cá nhân, nhóm hoặc tổ chức “đã làm nhiều nhất hoặc tốt nhất công việc vì tình anh em giữa các quốc gia, vì việc bãi bỏ hoặc giảm quân đội thường trực và vì việc tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình”, theo tổ chức Nobel.
Bốn tổng thống và một phó tổng thống Hoa Kỳ đã giành được giải thưởng này, bao gồm các cựu tổng thống Barack Obama, Jimmy Carter, Woodrow Wilson và Theodore Roosevelt; và cựu phó tổng thống Al Gore. Roosevelt là tổng thống Đảng Cộng hòa cuối cùng giành được giải thưởng này, vào năm 1906.
[Politico: Nobel Peace Prize goes to Venezuelan opposition leader despite Trump lobbying]
2. Quân đội Ukraine cho biết họ đã tấn công các cơ sở khí đốt và dầu mỏ của Nga ở tỉnh Volgograd.
Bộ Tổng tham mưu Ukraine đưa tin, quân đội Ukraine đã tấn công một nhà máy khí đốt của Nga và một trạm đường ống dẫn dầu ở tỉnh Volgograd của Nga vào đêm 9 tháng 10.
Quân đội cho biết đã xảy ra các vụ nổ và hỏa hoạn tại Nhà máy giải quyết khí Korobkovsky ở Kotovo và Trạm điều phối sản xuất tuyến tính Yefimovka.
Tin tức này xuất hiện khi Ukraine leo thang các cuộc tấn công vào các cơ sở năng lượng của Nga, nhằm mục đích làm suy yếu nguồn thu của nhà nước Mạc Tư Khoa để thúc đẩy cuộc xâm lược toàn diện của nước này.
Các cuộc tấn công mới nhất được tường trình do Lực lượng tác chiến đặc biệt của Ukraine thực hiện.
Kênh Telegram Astra trước đó đã đưa tin về một vụ hỏa hoạn tại nhà máy khí đốt Lukoil ở Kotovo sau một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa. Thống đốc Volgograd, Andrei Bocharov, cho biết “các vụ hỏa hoạn tại các cơ sở nhiên liệu và năng lượng” đang được giải quyết sau các cuộc tấn công trong khu vực.
Quân đội Ukraine cho biết trong một tuyên bố rằng mức độ thiệt hại đang được xác định.
Nhà máy khí Kotovo là một trong những cơ sở lớn nhất cùng loại ở miền Nam nước Nga. Nhà máy có công suất 450 triệu mét khối khí tự nhiên và khí đồng hành mỗi năm, cũng như 186.000 tấn hydrocarbon nhẹ mỗi năm.
Nhà máy này bắt đầu hoạt động vào tháng 9 năm 1966 và đóng vai trò quan trọng trong cơ sở hạ tầng năng lượng của khu vực.
Andrii Kovalenko, nhà lãnh đạo Trung tâm Chống thông tin sai lệch của Ukraine cho biết: “Cơ sở này rất quan trọng đối với cơ sở hạ tầng dầu khí của Nga: nó cung cấp dịch vụ giải quyết và vận chuyển khí ngưng tụ, cũng như sản xuất nguyên liệu thô cho ngành công nghiệp hóa chất”.
Hình ảnh vệ tinh từ Hệ thống quản lý thông tin cháy nổ, gọi tắt là FIRMS của NASA đã xác nhận có một vụ cháy tại nhà máy giải quyết khí.
[Kyiv Independent: Ukraine strikes Russian gas and oil facilities in Volgograd Oblast, military says]
3. Cháy lớn bùng phát tại nhà máy khí đốt của Nga sau vụ tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa
Một vụ hỏa hoạn được tường trình đã bùng phát tại nhà máy giải quyết khí Lukoil ở Kotovo, Nga, sau một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa được báo cáo vào đêm 9 tháng 10.
Kênh Telegram Astra trích dẫn lời người dân địa phương ở vùng Volgograd của Nga đã đưa tin về vụ cháy tại nhà máy giải quyết khí đốt Korobkovsky.
Chưa có xác nhận chính thức nào về các báo cáo này. Tuy nhiên, Thống đốc Volgograd Andrei Bocharov trước đó cho biết “các vụ cháy tại các cơ sở nhiên liệu và năng lượng” đang được giải quyết sau các vụ tấn công trong khu vực.
Chính quyền địa phương chưa công bố thông tin chi tiết về mức độ thiệt hại.
Vụ tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa đã được Andrii Kovalenko, nhà lãnh đạo Trung tâm Chống Thông tin Sai lệch của Ukraine, xác nhận. Vị quan chức này không nêu rõ nguồn gốc của những chiếc máy bay điều khiển từ xa.
Kovalenko cho biết: “Cơ sở này rất quan trọng đối với cơ sở hạ tầng dầu khí của Nga: nó cung cấp dịch vụ giải quyết và vận chuyển khí ngưng tụ, cũng như sản xuất nguyên liệu thô cho ngành công nghiệp hóa chất”.
Hình ảnh vệ tinh từ Hệ thống quản lý thông tin cháy nổ, gọi tắt là FIRMS của NASA đã xác nhận có một vụ cháy tại nhà máy giải quyết khí.
Nhà máy giải quyết khí Korobkovsky là nhà máy giải quyết khí đốt tự nhiên lớn nhất ở Vùng Liên bang phía Nam của Nga. Cơ sở này, bắt đầu hoạt động vào tháng 9 năm 1966, đóng vai trò quan trọng trong cơ sở hạ tầng năng lượng của khu vực.
4. Trong khi Tổng thống Trump chờ đợi phán quyết về Giải Nobel Hòa bình, Netanyahu ủng hộ ông
Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu hôm thứ năm đã tái ủng hộ Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump giành giải Nobel Hòa bình khi cuộc chiến giữa Israel và Hamas ở Gaza sắp kết thúc.
“Hãy trao giải Nobel Hòa bình cho Tổng thống Donald Trump — ông ấy xứng đáng!”, tài khoản của Netanyahu đăng trên X, kèm theo biểu tượng cảm xúc huy chương vàng và hình ảnh minh họa vị tổng thống Hoa Kỳ chiến thắng đang nhận giải thưởng và tiếng vỗ tay từ đám đông.
Ủy ban Na Uy sẽ công bố người chiến thắng giải thưởng danh giá mà Tổng thống Trump mong muốn từ lâu vào ngày hôm nay Thứ Sáu, 10 Tháng Mười.
Vào thứ Tư, Tổng thống Trump tuyên bố rằng Israel và Hamas đã đồng ý với giai đoạn đầu tiên của thỏa thuận hòa bình do Hoa Kỳ đề xuất nhằm chấm dứt cuộc xung đột kéo dài ở Gaza, bao gồm việc trả tự do cho tất cả các con tin Israel bị nhóm chiến binh Palestine bắt giữ và một phần quân đội Israel rút khỏi Gaza.
Cuộc chiến bùng nổ sau vụ tấn công của Hamas vào ngày 7 tháng 10 năm 2023 khiến khoảng 1.200 người thiệt mạng trên đất Israel, khiến hơn 67.000 người Palestine thiệt mạng, trở thành cuộc xung đột đẫm máu nhất giữa hai bên kể từ khi Israel được thành lập.
Netanyahu ban đầu đã đề cử Tổng thống Trump cho giải thưởng này vào tháng 7, trích dẫn vai trò của Mỹ trong việc tấn công chương trình hạt nhân của Iran và làm trung gian cho lệnh ngừng bắn chấm dứt giao tranh giữa các đối thủ Trung Đông. “Giải thưởng này hoàn toàn xứng đáng, và ngài nên nhận được nó”, Netanyahu nói với Tổng thống Trump trong một cuộc họp tại Tòa Bạch Ốc vào ngày 7 tháng 7.
Tổng thống Trump đã nhiều lần nhận công lao chấm dứt bảy cuộc chiến tranh trong nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của mình. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã cung cấp danh sách các cuộc xung đột mà Tổng thống Trump đề cập, bao gồm: Israel và Iran, Rwanda và Cộng hòa Dân chủ Congo, Armenia và Azerbaijan, Thái Lan và Campuchia, Ấn Độ và Pakistan, Ai Cập và Ethiopia, và Serbia và Kosovo.
Những tuyên bố của Tổng thống Trump vấp phải sự hoài nghi từ các chuyên gia chính sách đối ngoại và sự kiểm tra thực tế của nhiều cơ quan truyền thông. Tuy nhiên, vai trò của ông trong việc đạt được lệnh ngừng bắn ở Gaza đã nhận được lời khen ngợi từ các nhà lãnh đạo quốc tế cũng như người dân Israel và Gaza.
Giải Nobel Hòa bình, do nhà hóa học và nhà phát minh Alfred Nobel sáng lập vào thế kỷ 19, được trao hàng năm cho cá nhân đã “làm nhiều nhất hoặc tốt nhất công việc vì tình anh em giữa các quốc gia, vì việc bãi bỏ hoặc giảm quân đội thường trực, và vì việc tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình”.
Cựu Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama - kẻ thù lâu năm của Tổng thống Trump - đã nhận giải thưởng này vào năm 2009, trở thành tổng thống Hoa Kỳ thứ tư được vinh danh.
Giải thưởng này vẫn là một trong những giải thưởng gây tranh cãi nhiều nhất trong lịch sử giải thưởng, vì nhiệm kỳ tổng thống của Obama tiếp tục các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ trên nhiều khu vực, khiến những người chỉ trích đặt câu hỏi về mức độ phù hợp giữa thành tích của ông với các lý tưởng do chính Nobel đề ra.
[Politico: As Trump awaits Nobel Peace Prize verdict, Netanyahu backs him]
5. Đòn bẩy của Tổng thống Trump: Các nhà phân tích hàng đầu cho rằng mối đe dọa Tomahawk là vũ khí chính trị, không phải là giải pháp quân sự tối ưu
Một nhóm chuyên gia cao cấp đã thúc giục các đồng minh phương Tây phải cung cấp “bước đột phá thực sự” về viện trợ quân sự cho Ukraine và ngừng hỗ trợ chậm chạp, phương Tây cần gia tăng để bảo đảm chiến thắng.
Các cựu quan chức cao cấp của Hoa Kỳ, Ukraine và NATO đã tranh luận về giá trị chiến lược của các loại vũ khí tầm xa như hỏa tiễn Tomahawk, nhấn mạnh rằng việc tài trợ đầy đủ cho ngành công nghiệp quốc phòng nội địa của Kyiv là con đường chắc chắn nhất dẫn đến chiến thắng.
Cựu Thủ tướng Arseny Yatsenyuk, phát biểu tại sự kiện này, khẳng định rằng sự do dự và viện trợ chậm chạp của phương Tây đã khiến Ukraine mất đi động lực quan trọng.
Ông cảnh báo rằng kết quả duy nhất có thể chấp nhận được của Putin là “sự đầu hàng hoàn toàn và vô điều kiện của Ukraine và thế giới phương Tây”. Putin bác bỏ mọi cuộc đàm phán về nhượng bộ hoặc đổi đất là không thực tế.
Cuộc thảo luận nhanh chóng tập trung vào các báo cáo cho biết Hoa Kỳ đang cân nhắc việc gửi hỏa tiễn hành trình tầm xa Tomahawk tới Ukraine, một ý tưởng nhận được cả sự ủng hộ nhiệt tình và sự hoài nghi sâu sắc về mặt chiến lược từ các cựu quan chức Hoa Kỳ có mặt.
Paula Dobriansky, cựu Thứ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ và quan chức Hội đồng An ninh Quốc gia, ca ngợi sự thay đổi trong chính sách của Washington là một “bước ngoặt tiềm năng”.
Bà lưu ý rằng động thái này, cùng với những bình luận gần đây của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump về việc Ukraine mua lại “toàn bộ lãnh thổ của mình”, thể hiện sự thay đổi đáng kể trong tư duy của người Mỹ.
Khi cuộc chiến ở Ukraine kéo dài, sự can thiệp chính trị và luật lệ “bắt chước” của Mạc Tư Khoa đang phá hoại con đường hội nhập Âu Châu-Đại Tây Dương của các nước láng giềng. Chuyên gia Jonathan Katz của Brookings nói với Kyiv Post rằng phương Tây đang bị thử thách.
Tuy nhiên, Trung tướng đã nghỉ hưu của Quân đội Hoa Kỳ và cựu Đại sứ NATO Douglas Lute đã bác bỏ quan điểm cho rằng Tomahawk sẽ là giải pháp quân sự tối ưu.
Tướng Lute cho biết: “Hãy xem, câu chuyện ngắn gọn về viện trợ quân sự trong ba năm qua chỉ là những sự gia tăng, và không có sự gia tăng nào trong số đó làm thay đổi đáng kể tình hình chiến trường”.
Ông lập luận rằng giá trị của Tomahawk chủ yếu là “chính trị” chứ không phải là lợi thế đáng kể trên chiến trường, lưu ý rằng Ukraine đã sản xuất được một loại hỏa tiễn hành trình trong nước, theo một số cách, có khả năng hơn và rẻ hơn đáng kể.
Bất chấp sự bất đồng về các hệ thống vũ khí cụ thể của Hoa Kỳ, các chuyên gia an ninh Hoa Kỳ đã đạt được sự đồng thuận về chiến lược dài hạn hiệu quả nhất đối với Washington: đó là đầu tư trực tiếp vào năng lực sản xuất của Ukraine.
Tướng Lute tuyên bố rõ ràng rằng “điều tốt nhất” mà Hoa Kỳ có thể làm là “tài trợ đầy đủ cho ngành công nghiệp quốc phòng của Ukraine đang phát triển mạnh mẽ “, mà ông ước tính hiện đang hoạt động ở mức dưới 50% công suất.
Kim Kagan, người sáng lập Viện Nghiên cứu Chiến tranh, gọi tắt là ISW, đồng tình với quan điểm này và gọi việc đầu tư vào ngành công nghiệp quốc phòng là “khoản đầu tư tuyệt vời” cho cả Ukraine và an ninh của Âu Châu.
Dobriansky ủng hộ quan điểm này và nói thêm rằng khoản đầu tư như vậy “tương đương với chiến thắng ở Ukraine” và là sự bảo đảm an ninh đáng tin cậy nhất cho đất nước trong tương lai.
Yatsenyuk đặt câu hỏi tại sao các đối tác phương Tây lại giữ lại “công nghệ tiên tiến” cho phép Kyiv sản xuất hỏa tiễn tầm xa của riêng mình, qua đó làm suy yếu tuyên bố của Nga về sự leo thang liên quan đến vũ khí của Hoa Kỳ hoặc Âu Châu.
Về tình hình quân sự, Kim Kagan đã thách thức quan điểm phổ biến của Hoa Kỳ về tình trạng “bế tắc” kéo dài trên chiến trường.
“Cuộc chiến này không phải là bế tắc. Đây là cuộc chiến về vị trí,” Kagan giải thích.
Bà lưu ý rằng Nga đang đạt được những bước tiến nhỏ, gia tăng bằng cách sử dụng các cuộc xâm nhập được hỗ trợ bởi máy bay điều khiển từ xa dọc theo tuyến đầu dài 1.200 km.
Kagan cảnh báo rằng “học thuyết chiến thắng” của Putin dựa trên ý tưởng rằng ông sẽ tồn tại lâu hơn sự ủng hộ của phương Tây.
Bà kết luận đánh giá của mình bằng cách nhấn mạnh bản chất sống còn của cuộc xung đột vì lợi ích của Hoa Kỳ: “Tôi nghĩ rằng điều quan trọng đối với an ninh quốc gia Hoa Kỳ là người Ukraine phải chiến thắng.”
[Newsweek: Trump’s Leverage: Top Analysts Say Tomahawk Threat is Political Weapon, Not Military Silver Bullet]
6. Tổng thống Zelenskiy nói rằng Âu Châu phải đối mặt với ‘nguy cơ đáng kể’ về một cuộc chiến tranh lớn nếu Nga bắt đầu huy động quân đội
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy phát biểu vào ngày 10 tháng 10 rằng nếu Putin phát động một cuộc huy động mới ở Nga, điều này có thể gây ra mối đe dọa nghiêm trọng cho Âu Châu và châm ngòi cho một cuộc chiến tranh thế giới.
Lời cảnh báo của tổng thống được đưa ra khi Nga tăng cường các hành động khiêu khích chống lại các nước NATO, bao gồm cả việc tung ra nhiều máy bay điều khiển từ xa bí ẩn trên khắp Âu Châu làm dấy lên lo ngại về chiến tranh hỗn hợp.
“Bất cứ nơi nào có thành công nhanh chóng, đó chính là nơi Putin sẽ đến nếu có thêm nhân sự”, Tổng thống Zelenskiy phát biểu trong một cuộc họp báo. “Có nguy cơ đáng kể là Putin thực sự sẽ lao vào một cuộc chiến tranh thế giới.”
Theo tổng thống Ukraine, mối nguy hiểm xuất phát từ nhu cầu chính trị của Putin muốn chứng minh “thành công” sau gần bốn năm Nga tiến hành cuộc chiến toàn diện chống lại Ukraine.
“Việc huy động quân đồng nghĩa với việc nhà lãnh đạo Nga chắc chắn sẽ mất đi sự ủng hộ. Đó là lý do duy nhất khiến ông ấy không làm điều đó”, ông nói. “Nếu có sự huy động quân, đó sẽ là một thách thức đối với Âu Châu. Ông ấy sẽ khơi mào một cuộc chiến tranh lớn.”
Cuộc tổng động viên của Nga vào năm 2022 — lần đầu tiên kể từ Thế chiến thứ II — diễn ra sau những thất bại quân sự ở tiền tuyến và gây ra các cuộc biểu tình và di cư hàng loạt, với hơn 261.000 người Nga phải chạy trốn.
Mặc dù Điện Cẩm Linh sau đó tuyên bố việc huy động đã “hoàn tất”, nhưng không có sắc lệnh tổng thống nào chính thức chấm dứt việc này.
Thay vì phát động một chiến dịch tuyển quân khác, Mạc Tư Khoa đã dựa vào các ưu đãi tài chính và chiến dịch tuyển dụng, cung cấp các hợp đồng béo bở cho những người tình nguyện sẵn sàng phục vụ trong quân đội.
“Tin tôi đi, họ chắc chắn không muốn trả số tiền lớn cho các hợp đồng. Số tiền lớn như vậy mà họ đã chi trả suốt bao năm qua. Hãy tưởng tượng cái giá phải trả để bảo vệ xếp hạng tín nhiệm cá nhân của ông ấy”, Tổng thống Zelenskiy nói.
[Kyiv Independent: Europe faces 'significant risk' of major war if Russia starts mobilization, Zelensky says]
7. Khi Mạc Tư Khoa và Kyiv trao đổi các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa, Điện Cẩm Linh lo ngại về cuộc tấn công mới nhất vào Kherson bị tạm chiếm
Vài giờ sau khi Nga tiến hành một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa vào Ukraine, đánh vào các cơ sở năng lượng và cơ sở hạ tầng hỏa xa ở các vùng Poltava và Sumy, và một ngày sau khi lực lượng xâm lược tiến hành một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa lớn khác vào ban đêm vào các mục tiêu dân sự, khiến năm người thiệt mạng, bao gồm một thiếu niên, Mạc Tư Khoa đã chỉ trích lực lượng Ukraine về một cuộc tấn công vào vùng Kherson bị Nga tạm chiếm vào thứ Ba, được tường trình đã giết chết bốn người.
Hôm Thứ Tư, 08 Tháng Mười, Thống đốc khu vực Kherson do Điện Cẩm Linh bổ nhiệm, Vladimir Saldo, cho biết các cuộc tấn công trả đũa của Kyiv vào lãnh thổ bị tạm chiếm tại đây bao gồm 209 máy bay điều khiển từ xa bị chặn và giết chết thường dân trên một chiếc xe.
Trong khi đó, chính quyền địa phương Ukraine được bầu trong khu vực đã cáo buộc Nga giết một người đàn ông ở thành phố Kherson, do Kyiv kiểm soát.
“Một cư dân 65 tuổi của Kherson đã bị trúng đạn của địch. Ông ấy đã tử vong”, Thống đốc vùng Kherson, Oleksandr Prokudin, cho biết trên Telegram.
Các cuộc tấn công gần đây của Nga vào cơ sở hạ tầng năng lượng và dầu mỏ của Ukraine, xảy ra vào mỗi mùa thu kể từ khi Mạc Tư Khoa bắt đầu cuộc xâm lược vô cớ vào tháng 2 năm 2022, đã thành công trong mục tiêu khiến hàng triệu cư dân không có hệ thống sưởi ấm và điện trong nhiều tháng trời trong thời tiết giá lạnh.
Trong đó có cuộc tấn công của Nga vào lưới điện vào ngày Giáng Sinh năm 2024.
AFP đưa tin Ukraine cho biết Nga đã phóng 154 máy bay điều khiển từ xa và hỏa tiễn vào đêm thứ Hai và kéo dài đến thứ Ba, trong đó khoảng một nửa đã bị đánh chặn.
Tình trạng năng lượng cũng vẫn còn khó khăn ở Chernihiv, nơi các chuyên gia đang chuyển hướng nguồn điện để ưu tiên cơ sở hạ tầng quan trọng và các tòa nhà dân cư, nhằm ngăn chặn tình trạng mất điện hoàn toàn.
Kyiv cho biết một máy bay điều khiển từ xa đã tấn công cơ sở hạ tầng hỏa xa và năng lượng ở khu vực Poltava và Sumy vào sáng sớm thứ Ba, khiến hơn 1.000 người không có điện.
Theo nguồn tin của Nga, một ngày trước đó, Ukraine đã phóng 251 máy bay điều khiển từ xa về phía Nga và hai người đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công bằng hỏa tiễn vào thành phố Belgorod, cách biên giới quốc tế khoảng 30 km (19 dặm).
“ Một ngàn người ở bốn thị trấn vẫn chưa có điện”, thống đốc Belgorod Vyacheslav Gladkov tuyên bố.
[Kyiv Post: As Moscow and Kyiv Trade Drone Attacks, Kremlin Alarmed at Latest Strike on Occupied Kherson]
8. 3 người bị bắt vì nghi ngờ âm mưu khủng bố nhắm vào Thủ tướng Bỉ Bart De Wever
Chính quyền liên bang Bỉ đã bắt giữ ba nghi phạm trẻ tuổi có liên quan đến vụ việc mà các công tố viên cho là âm mưu tấn công khủng bố nhằm vào các chính trị gia nước này, bao gồm cả Thủ tướng Bart De Wever.
Công tố viên liên bang Ann Fransen cho biết các nghi phạm - sinh năm 2001, 2002 và 2007 - đã bị bắt giữ tại Antwerp vào sáng thứ Năm vì nghi ngờ âm mưu giết người khủng bố và tham gia vào các hoạt động của một nhóm khủng bố. Hai người vẫn đang bị giam giữ và sẽ ra hầu tòa, trong khi người thứ ba đã được thả.
“Có dấu hiệu cho thấy ý định thực hiện một vụ tấn công khủng bố lấy cảm hứng từ thánh chiến nhắm vào các chính trị gia”, Fransen phát biểu trong một cuộc họp báo. Nhà chức trách đã tiến hành bốn cuộc khám xét nhà với sự hỗ trợ của các đội rà phá bom và các đơn vị cảnh sát liên bang.
Theo tờ báo Gazet van Antwerpen và các nguồn tin được đài truyền hình VRT trích dẫn, trong số các mục tiêu bị nhắm đến có De Wever, lãnh đạo đảng dân tộc chủ nghĩa Flemish Liên minh Flemish Mới (N-VA). Khi được POLITICO liên hệ, phát ngôn nhân của De Wever, Philippe Kerckaert, đã từ chối bình luận.
Sau đó vào thứ năm, Ngoại trưởng Maxime Prévot đã xác nhận trên X rằng cuộc tấn công được lên kế hoạch đã nhắm vào De Wever, gọi đó là “cực kỳ gây sốc”.
Ông cho biết: “Bỉ đang tích cực tăng cường năng lực đối phó với các hình thức khủng bố mới, đặc biệt là thông qua cuộc chiến chống lại việc sử dụng máy bay điều khiển từ xa một cách ác ý”.
Các nhà điều tra đang xem xét bằng chứng về kế hoạch sử dụng máy bay điều khiển từ xa để điều động một thiết bị được tìm thấy trong các cuộc đột kích tại quận Deurne, Antwerp, một cơ chế mà văn phòng công tố cho biết trông giống như một thiết bị nổ tự chế. Các nhà điều tra cũng tìm thấy một túi bi thép và thu giữ một máy in 3D từ một nghi phạm thứ hai, được tường trình dùng để sản xuất các bộ phận của bom.
Bà Fransen cảnh báo rằng vụ việc này làm nổi bật nguy cơ khủng bố đang diễn ra ở Bỉ. “Hồ sơ này cho thấy tất cả các cơ quan an ninh phải luôn cảnh giác trước nguy cơ tấn công khủng bố”, bà nói.
Các công tố viên Bỉ đã mở khoảng 80 vụ án khủng bố mới trong năm nay - nhiều hơn tổng số vụ án trong năm 2024. Vụ bắt giữ hôm thứ Năm diễn ra gần một thập niên sau vụ tấn công khủng bố Brussels vào tháng 3 năm 2016 khiến 32 người thiệt mạng.
“Chủ nghĩa khủng bố chưa bao giờ biến mất. Nó vẫn là kẻ thù của nền dân chủ mà chúng ta phải tiếp tục chiến đấu”, Bộ trưởng Năng lượng Mathieu Bihet phát biểu trên X. Ông Bihet thuộc đảng Phong trào Cải cách trung hữu, một thành viên nói tiếng Pháp trong chính phủ liên minh của De Wever.
Đây không phải là lần đầu tiên De Wever bị nhắm đến. Vào tháng 4, Tòa Phúc thẩm Antwerp đã tuyên án tù năm người đàn ông, bao gồm cả thủ lĩnh của nhóm, vì âm mưu ám sát De Wever, cựu thị trưởng Antwerp, bất thành vào năm 2023.
[Politico: 3 arrested in suspected terror plot targeting Belgian PM Bart De Wever]
9. Khả năng thiếu nước và điện ở Kyiv được báo cáo trong bối cảnh các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa quy mô lớn
Nga đã tiến hành một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa quy mô lớn vào Kyiv vào đêm 9 tháng 10, có khả năng làm gián đoạn nguồn cung cấp nước và điện của thành phố.
Thị trưởng Kyiv Vitali Klitschko cho biết: “Do một cuộc tấn công quy mô lớn bằng UAV của kẻ thù vào thủ đô, có thể sẽ xảy ra tình trạng mất điện và nước. Tất cả các đội cấp cứu đang theo dõi tình hình và sẵn sàng ứng phó”.
Trước đó vào đêm, khoảng 11:44 tối giờ địa phương, Klitschko đã đưa tin trên Telegram rằng lực lượng phòng không Ukraine đang tích cực chống lại các máy bay điều khiển từ xa đang bay tới.
Số thương vong và mức độ thiệt hại của vụ tấn công vẫn chưa được báo cáo, và khả năng mất nước và mất điện vẫn chưa được xác nhận.
Trong những tuần gần đây, Nga đã tăng cường các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng dân sự và năng lượng của Ukraine trước mùa đông.
Các cuộc không kích của Nga được tường trình đã phá hủy hơn một nửa sản lượng khí đốt của Ukraine trước mùa đông
Quân đội Ukraine cho biết họ đã tấn công các cơ sở khí đốt và dầu mỏ của Nga ở tỉnh Volgograd.
Tổng thống Zelenskiy nói rằng Âu Châu phải đối mặt với ‘nguy cơ đáng kể’ về một cuộc chiến tranh lớn nếu Nga bắt đầu huy động quân đội
Nghị viện Liên Hiệp Âu Châu kêu gọi sẵn sàng bắn hạ máy bay và máy bay điều khiển từ xa của Nga trên lãnh thổ các quốc gia thành viên
Serbia gửi viện trợ nhân đạo tới Kursk của Nga trị giá khoảng 6 triệu đô la, Mạc Tư Khoa tuyên bố.
[Kyiv Independent: Potential water, power shortages reported in Kyiv amid massive drone strikes]
10. Thủ tướng Đan Mạch cảnh báo Tổng thống Trump vẫn chưa từ bỏ mong muốn sở hữu Greenland mãi mãi
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump có thể đã quên Greenland vào lúc này, nhưng ông ấy sẽ quay trở lại, Thủ tướng Đan Mạch Mette Frederiksen cảnh báo hôm Thứ Tư, 08 Tháng Mười.
Trước đây, Tổng thống Trump đã ám ảnh hòn đảo Bắc Cực, một vùng lãnh thổ tự trị của Đan Mạch có rất nhiều đất hiếm chưa được khai thác, và từ chối loại trừ khả năng gửi quân hoặc sử dụng áp lực kinh tế để chinh phục hòn đảo này.
Ông ấy đã đưa ra rất ít tuyên bố công khai về Greenland trong những tháng gần đây, dường như đang chuyển sự chú ý sang các chủ đề khác. Nhưng sự nhẹ nhõm này chỉ là tạm thời, Frederiksen cho biết.
“Hiện tại, điều đó dường như còn rất xa vời. Có lẽ chúng ta có thể thở phào nhẹ nhõm”, Frederiksen phát biểu tại lễ khai mạc quốc hội Đan Mạch. “Nhưng tôi tin rằng chúng ta không thể.”
Bà nói thêm rằng dân số 60.000 người của Greenland vẫn sống trong nỗi sợ hãi bị Mỹ tiếp quản.
Bà nói: “Hãy tưởng tượng cuộc sống ở một trong những thị trấn nhỏ dọc bờ biển sẽ như thế nào… khi siêu cường quốc mạnh nhất thế giới nói về bạn như một thứ có thể mua được, một thứ có thể sở hữu, một thứ phải có được”.
“ Dù có chuyện gì xảy ra, chúng tôi vẫn ủng hộ Greenland tự quyết định tương lai của mình. Và chúng tôi sẽ không để bị đe dọa hay ép buộc làm điều gì đó rõ ràng là sai trái”, Frederiksen nói thêm.
Kể từ những lời đề nghị mạnh mẽ của Tổng thống Trump, Greenland đã tìm cách tăng cường quan hệ với Liên minh Âu Châu và các đối tác khác như một lá chắn chống lại Washington, và đang chuẩn bị ký kết quan hệ đối tác về khoáng sản quan trọng với Vương quốc Anh.
Ngoại trưởng của hòn đảo, Vivian Motzfeldt, đã nói với tờ POLITICO vào tháng 5 rằng Greenland quan tâm đến việc tìm hiểu quan hệ đối tác thương mại với “các quốc gia có cùng chí hướng” và chỉ trích Tổng thống Trump vì hành động đe dọa này.
Thủ tướng Greenland Jens-Frederik Nielsen dự kiến sẽ có bài phát biểu tại Nghị viện Âu Châu ở Strasbourg vào thứ Tư.
[Politico: Trump hasn’t moved on from wanting Greenland forever, Danish PM warns]
11. Các cuộc không kích của Nga đã phá hủy hơn một nửa công suất sản xuất khí đốt tự nhiên của Ukraine trước mùa đông.
Các nguồn tin của Bloomberg cho biết các cuộc tấn công đã phá hủy khoảng 60% sản lượng khí đốt của Ukraine. Naftogaz gọi đây là cuộc tấn công “lớn nhất” vào cơ sở hạ tầng khí đốt kể từ khi chiến tranh bắt đầu.
Công ty năng lượng tư nhân lớn nhất Ukraine, DTEK, cho biết họ buộc phải ngừng hoạt động tại các cơ sở ở Poltava sau các cuộc không kích. Hai ngày sau, Nga lại phát động một cuộc tấn công khác nhắm vào cơ sở hạ tầng thiết yếu cho hệ thống sưởi ấm dân dụng, gây ra thêm thiệt hại, Naftogaz cho biết.
Các cuộc không kích cho thấy chiến lược của Mạc Tư Khoa nhằm vào cơ sở hạ tầng năng lượng để làm suy yếu tinh thần dân sự. Kể từ năm 2022, Nga đã nhiều lần tấn công phá hoại hệ thống sưởi ấm và điện của Ukraine bằng các cuộc tấn công.
Theo Bloomberg, Kyiv đã kêu gọi các đối tác G7 cung cấp thiết bị khẩn cấp để sửa chữa các cơ sở bị hư hại và nhắc lại yêu cầu về các hệ thống phòng không bổ sung để bảo vệ cơ sở hạ tầng năng lượng.
[Kyiv Independent: Russian strikes have destroyed more than half of Ukraine's natural gas production capacity ahead of winter, Bloomberg reported on Oct. 9, citing its undisclosed sources.]
12. Những điều cần biết về tình hình chính trị hỗn loạn của Pháp
Cuộc khủng hoảng bắt đầu tuần này - việc Thủ tướng Sébastien Lecornu /sê-bát-siêng lơ-co-nu/ và các bộ trưởng mới được bổ nhiệm của ông từ chức chỉ sau 14 giờ - vẫn đang tiếp diễn, với việc Macron dự kiến sẽ chỉ định người thay thế Lecornu /lơ-co-nu/ vào thứ Sáu, theo văn phòng của ông.
Nhưng vẫn còn những câu hỏi lớn hơn về những gì sẽ xảy ra tiếp theo. Nếu người kế nhiệm Lecornu cũng thất bại, điều đó sẽ buộc Macron phải cân nhắc một số lựa chọn rất khó chấp nhận. Ông vẫn có thể từ chức, hai năm trước khi nhiệm kỳ kết thúc - một động thái mà ông đã nhiều lần bác bỏ. Hoặc, ông có thể giải tán quốc hội và kêu gọi một vòng bầu cử sớm, điều này có thể đưa phe cực hữu tiến gần hơn đến quyền lực hơn bao giờ hết.
Nguyên nhân nào gây ra cuộc khủng hoảng chính trị mới nhất này?
Vào tối Chúa Nhật, các bộ trưởng chủ chốt trong nội các của Lecornu đã được công bố, và hầu hết trong số họ là những người còn sót lại từ chính phủ của người tiền nhiệm - đã bị lật đổ vào tháng trước - và hai gương mặt mới nổi bật nhất trước đây đã từng giữ các chức vụ bộ trưởng trong nhiệm kỳ của Macron.
Các đảng đối lập, những người từng bày tỏ sự cởi mở trong việc hợp tác với Lecornu về ngân sách cho năm tới, và các đối tác liên minh thiểu số tiềm năng, đã tỏ ra rất tức giận. Họ đã nói rõ rằng họ đang tìm kiếm những tín hiệu cho thấy Lecornu sẽ hành động khác đi sau khi ông hứa sẽ “chia tay” với các chính phủ trước đây của Macron.
Bruno Retailleau /bru-nô ri-tây-lô/, người lãnh đạo đảng bảo thủ vốn là đối tác liên minh quan trọng của các chính phủ thiểu số gần đây, đã bày tỏ sự không hài lòng trong một bài đăng trên X và cho biết đảng của ông sẽ vạch ra một con đường tiếp theo vào sáng hôm sau.
Sáng hôm sau, văn phòng của Macron thông báo rằng ông đã chấp nhận đơn từ chức của Lecornu và chính phủ của ông sau tổng cộng 14 giờ làm việc.
Điều này có ý nghĩa gì đối với phe cực hữu theo chủ nghĩa dân tộc?
Hãy bắt đầu với Marine Le Pen và đảng cực hữu của bà, Đảng Tập hợp Quốc gia, bởi vì hiện tại họ đang có vị thế khá tốt. Le Pen từ lâu đã ủng hộ luận điệu của Tổng thống Trump rằng các đảng phái chính trị chính thống là kém cỏi và lạc hậu, vì vậy một tình huống như thế này càng chứng minh quan điểm của bà. Đảng Tập hợp Quốc gia tiếp tục tăng điểm trong các cuộc thăm dò và nên được coi là ứng cử viên hàng đầu cho bất kỳ cuộc bầu cử bất ngờ nào hoặc cuộc bầu cử tổng thống tiếp theo vào năm 2027, mà theo hiến pháp, Macron bị cấm tham gia.
Để hiểu được động lực đang diễn ra, bạn phải quay lại ngày 9 tháng 6 năm 2024, khi phe trung dung của Macron bị phe cực hữu đánh bại trong cuộc bầu cử Âu Châu.
Phiếu bầu ở Âu Châu cũng giống như bầu cử giữa kỳ ở Mỹ. Chúng không thu hút nhiều cử tri đi bỏ phiếu và thường được coi là phiếu bầu phản đối. Hơn nữa, các cuộc thăm dò đã dự đoán chiến thắng của Đảng Tập hợp Quốc gia.
Chiến thắng không phải là điều bất ngờ. Phản ứng của Macron mới là điều bất ngờ. Tối hôm đó, ông tuyên bố sẽ giải tán quốc hội và tổ chức bầu cử sớm càng sớm càng tốt, đánh cược rằng một cuộc bỏ phiếu trong nước mang tính quyết định sẽ ngăn chặn sự trỗi dậy dường như không thể ngăn cản của phe cực hữu.
Kết quả cuối cùng là một quốc hội treo, bị chia thành ba khối bằng nhau. Phần lớn trong số họ tỏ ra không sẵn lòng tham gia vào các hoạt động xây dựng liên minh thường thấy ở các nước Âu Châu khác như Ý và Đức, bất chấp những lời kêu gọi liên tục từ Macron.
Thủ tướng đầu tiên cố gắng xoay xở trong bối cảnh cơ quan lập pháp đang chia rẽ, Michel Barnier /mi-sen bạc-nhê/, chỉ tại vị được khoảng ba tháng trước khi bị sa thải vì kế hoạch cắt giảm hàng tỷ đô la ngân sách nhằm kiềm chế chi tiêu công vượt mức. Người tiền nhiệm của ông, François Bayrou/phăng-xoa bây-ru/, chỉ tại vị được chín tháng nhưng đã bị sa thải vì chính ngân sách không được lòng dân của mình, bao gồm cả kế hoạch cắt giảm hai ngày lễ.
Lecornu tiếp quản Bayrou vào đầu tháng 9 và giờ chúng ta đã có mặt ở đây.
[Politico: What to know about France’s political mess]
13. Tại thị trấn biên giới Estonia, phần lớn người nói tiếng Nga được hưởng lá chắn của NATO, vẫn im lặng trước mối đe dọa từ Nga
Ở cả hai bên bờ sông Narva, những người đánh cá đứng ngập đến đầu gối dưới nước giữa hai tòa lâu đài thời trung cổ chỉ cách nhau 101 mét. Phía trên họ, những lá cờ đánh dấu nơi NATO kết thúc và Nga bắt đầu.
Trong nhiều năm, các chuyên gia đã cảnh báo về “kịch bản Narva” - một kế hoạch trong đó Nga có thể cố gắng chiếm một thành phố biên giới của Estonia bằng cách sử dụng câu nói cũ của mình là “bảo vệ cộng đồng nói tiếng Nga”.
Sau khi Âu Châu không thể giải quyết được các cuộc xâm nhập bằng máy bay điều khiển từ xa liên tục của Nga, thành phố Narva, nơi phần lớn dân cư nói tiếng Nga, một lần nữa trở thành điểm nóng trong phòng thủ sườn phía đông của NATO.
Khi được hỏi về nước Nga, nằm ngay bên kia con sông cạn, và thái độ hiếu chiến của nước này, người dân Narva vẫn giữ thái độ dè dặt trong câu trả lời.
“Mọi chuyện đều có thể xảy ra ngày nay, nhưng tôi không sợ”, một người đàn ông trên bờ kè trả lời câu hỏi về khả năng xảy ra một cuộc xâm lược.
Một tài xế taxi, chỉ vài phút sau, đã tỏ ra hoài nghi hơn nhiều về chiến tranh. “Trước đây, bạn phải giảm một nửa mức độ của những gì họ nói trên phương tiện truyền thông, ngay cả trước chiến tranh. Giờ đây, bạn chỉ có thể tin 1% những gì họ nói.”
Narva là thành phố lớn thứ ba ở Estonia. Nằm gần St. Petersburg của Nga hơn thủ đô Tallinn của Estonia, Narva là nơi sinh sống của khoảng 54.000 cư dân, trong đó 95% là người nói tiếng Nga, theo điều tra dân số năm 2021.
Vị trí gần biên giới và sự thống trị áp đảo của cộng đồng nói tiếng Nga khiến thành phố Narva trở thành mục tiêu ngày càng được chú ý khi mối quan hệ NATO-Nga ngày càng xấu đi.
Bất chấp những tranh chấp trong liên minh, những người ở Narva trao đổi với tờ Kyiv Independent đều khẳng định rằng họ không mong đợi một cuộc tấn công của Nga.
Gần một phần tư dân số Estonia tin rằng việc trở thành thành viên của NATO sẽ ngăn chặn mọi hành vi xâm lược và gần một nửa tin rằng sẽ có hỗ trợ quân sự trực tiếp nếu chiến tranh xảy ra.
“Narva sẽ không phải là mục tiêu tiếp theo, vì chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng”, Thiếu tá Neeme Brus, phát ngôn nhân của Liên đoàn Phòng thủ Estonia hay Kaitseliit, tổ chức phòng thủ lãnh thổ tự nguyện của đất nước, cho biết.
[Kyiv Independent: In Estonia’s border town, Russian-speaking majority enjoys NATO’s shield, remains mute on Russia’s threat]