Phụng Vụ - Mục Vụ
Tẩy sạch tâm hồn để đón Chúa
Tuyết Mai
18:16 13/12/2009
Thoạt nghe qua lời tẩy sạch tâm hồn làm cho chúng ta có cảm tưởng ghê gớm lắm anh chị em nhỉ!? Nhưng không ghê gớm cho bằng là chúng ta lâu lâu có bác sĩ cũng nhắc chừng chúng ta là cần phải tẩy sạch cái bao tử và bộ ruột dơ bẩn của chúng ta nữa đó, thưa có phải không!? Mà có mấy ai theo được lời chỉ dẫn này!? Vì suốt thời gian từ 2 tuần lễ cho đến 30 ngày, chúng ta chỉ ăn trái cây rau cải và uống thật nhiều nước. Đây là cách mà tôi phải chịu thua vì tôi là người sống cần phải có thịt. May quá tôi không phải bị bắt buộc???
Còn tẩy sạch tâm hồn của mình để khao khát trông đợi để được chào đón Chúa mà không đòi hỏi phải ăn chay là tôi mừng rồi! Có phải chúng ta luôn yếu đuối? Có phải chúng ta khó mà giữ chay lắm! Tâm lý khi chúng ta nghĩ đến phải ăn chay thì hình như sức mạnh của ma quỷ đã cám dỗ chúng ta rồi! Cho nên sự chay tịnh rất khó cho chúng ta giữ và theo nổi trong suốt thời gian 40 ngày chay. Nhưng thưa anh chị em, sự tẩy sạch tâm hồn tôi muốn nói và góp ý ở đây cũng rất dễ dàng để theo được thôi! Ấy là với sự cầu nguyện của chúng ta ngày đêm dâng lên Chúa và Mẹ Maria, các Ngài sẽ ban ơn cho chúng ta Chúa Thánh Linh, chính Ngài sẽ giúp cho chúng ta hiểu một cách đơn giản thôi, không cần cầu kỳ, không cần làm điều gì to tát mà chúng ta không có thể làm nổi! Ngài sẽ giúp cho chúng ta biết làm những điều gì đẹp lòng Chúa trong khả năng của chúng ta. Anh chị em nên nhớ rằng Thiên Chúa Ngài có tất cả, từ quyền năng của Ngài, cho đến tình yêu thương vô bờ bến mà Ngài từ muôn thuở muôn đời đã vì yêu nhân loại mà dành ban cho chúng ta chính Con Một duy nhất của Ngài, xuống trần gian để yêu thương và cứu độ chúng ta.
Vâng, trong hang đá chúng ta nhìn thấy những gì, và thấy những ai??? Và Hài Nhi trong máng cỏ là ai đó thưa anh chị em?? Có phải Ngài là Con Trẻ Hài Nhi Giêsu đó không? Ngài nằm trong máng cỏ, trong một chiếc nôi thật êm thắm và ấm êm? Máy sưởi của Ngài là súc vật?? Ngôi nhà êm thắm đẹp đẽ là một hang đá hoang sơ, Nơi mà Ngài được sinh ra bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria và người bạn đời trinh khiết của Ngài là dưỡng phụ Giuse, không là gì trong một xã hội thời xa xưa đó nơi thành Bêlem? Quả phúc hạnh thay cho những ai được nhìn thấy Ngài trong đêm đông giá lạnh Chúa Sinh Ra Đời!? Đó là 3 Vua và một số mục đồng, được Thiên Thần đánh thức và báo mộng, để theo ánh sao đến mà phủ phục tôn thờ Ngài. Ngài là một phàm nhân. ... nhưng Ngài là Con Thiên Chúa. Quả tuyệt diệu thay! Quả huyền nhiệm thay! Đêm đông giá buốt Chúa Sinh Ra Đời.
Nhìn Chúa Giêsu nằm trong máng cỏ, tấm thân ngọc ngà của Ngài được bao bọc trong miếng khăn sơ sài, nằm trên lớp rơm mà Mẹ Maria có thể tìm thấy trong hang bò lừa, để đặt Ngài nằm lên. Đấy là Thiên Chúa của chúng ta đấy! Hèn chi trên thế gian còn có những con người coi và khinh dể Ngài hết sức. Vì Thiên Chúa của họ không có thể thế được!? Vì họ không thể nào bái lậy và quỳ gối xuống cho một em bé ư!?? Họ đâu có thể lột bỏ những gì sang trọng đang khoác trên người mà quỳ thờ lậy một em bé nghèo khổ, dưới mức của nghèo khổ nữa!??
Tuy năm nay kinh tế có xuống dốc cho rất nhiều người trên khắp mọi nơi trên toàn thế giới, nhưng ai giầu thì vẫn còn giầu và còn có thể giầu hơn nữa! Vì kinh tế thì anh chị em phải hiểu rằng tiền bạc thì vẫn còn nguyên đó, chỉ là sự chuyển ngân từ tay người này mà sang người kia mà thôi! Âu cũng là những sự mánh mung của dân nhà giầu thường là thế! Họ còn hay mất là tùy theo thời như ván cờ thời vận của họ đang gặp phải trong lúc này mà thôi! Người thua thì nay mai cũng sẽ lên trở lại. Cho nên người giầu thì vẫn sắm sửa, vẫn ăn uống, vẫn chè chén say sưa được mà! Còn chúng ta là thành phần nào trong xã hội của ngày hôm nay?? Nhìn Chúa Giêsu Hài Đồng, một em bé nghèo hèn như thế! Làm cho chúng ta có xót xa hay không? Có làm cho chúng ta phải động lòng hay không? Chúng ta phải làm gì để đẹp lòng Chúa? Bằng cách nào mà thực tế nhất? Thưa có phải không gì làm đẹp lòng Chúa cho bằng là chúng ta biết sẻ chia tình thương của mình qua anh chị em có nhu cầu đang cần sự giúp đỡ của chúng ta?? Anh chị em có thể tưởng tượng được các em nghèo trong mùa Giáng Sinh giá lạnh này nếu được một món quà mà các em thích do anh chị em biếu tặng, nhìn ánh mắt và nụ cười tươi vui rạng rỡ trên một khuôn mặt của các em, thì đó là món quà mà chúng ta tặng cho Chúa Hài Đồng Giêsu đó!
Chúng ta cũng có thể tìm đến những viện dưỡng lão nơi mà các ông bà bị con cái và người thân thương từ bỏ, không thăm nom, không chăm sóc, và bỏ hẳn trong viện dưỡng lão cho đến ngày họ nhắm mắt xuôi tay?? Chúng ta cũng có thể đến thăm các anh chị em của chúng ta trong tù, vừa an ủi, vừa chia sớt tình thương của mình, và vừa đem cho họ một món quà nho nhỏ để nói với họ rằng mình còn nhớ đến họ??
Chúng ta cũng có thể bỏ thời giờ của chúng ta cho gia đình, nhất là cho con cái của chúng ta. Các em nhỏ sở dĩ chúng ngang tàng bướng bỉnh tỏ vẻ mất dậy, có thể vì chúng thiếu tình thương của bố mẹ đấy!? Vật chất không có thể nào thay thế được tình thương của bố mẹ được đâu!? Dành nhiều thời giờ cho gia đình để gia đình còn cảm thấy rằng mình có tình thương yêu của gia đình, vì tiền bạc không mua được hạnh phúc, tôi đã chứng kiến được cái cảnh giầu có của một gia đình, mà vì tiền bạc đã làm cho gia đình của họ trở thành một hỏa ngục của trần gian. Giầu có mà chi khi con bệnh hoạn không cho đi chữa trị để chết một cách tức tưởi. Giầu có mà chi để ngày đêm vợ chồng tranh cãi nhau về tiền bạc. Giầu có mà chi để mấy cậu con trai bây giờ trở thành băng đảng và chỉ biết về vòi tiền của cha mẹ. Giầu có mà chi khi mà sự hưởng thụ của họ chỉ là được nhìn ngắm những tòa nhà cứ mỗi năm tậu một cái. Chết trong nay mai chẳng đem theo được một thứ gì mà hiện tại thì đang mang bệnh nan y không biết ra đi ngày nào!?
Nên thưa anh chị em! Mùa Vọng là Mùa của sự chia sẻ của yêu thương của thông cảm! Xin hãy vì sự Đón Chờ Ơn Cứu Độ của Chúa đến mà dọn lòng, dọn đường, cho thật sạch sẽ, như Hang Đá bẩn thỉu được chúng ta quét dọn cho sạch sẽ, để xứng đáng đón chào Con Thiên Chúa có thể sinh hạ trong tấm lòng thô sơ nhưng rất chân thật của chúng ta. Hãy hạ mình xuống mà đón Chúa là Đấng Tối Cao vì Ngài từ Trời mà ĐẾN.
Vinh Danh Thiên Chúa Trên Khắp Tầng Trời!
Bình An Dưới Thế Cho Người Chúa Thương! Amen.
Còn tẩy sạch tâm hồn của mình để khao khát trông đợi để được chào đón Chúa mà không đòi hỏi phải ăn chay là tôi mừng rồi! Có phải chúng ta luôn yếu đuối? Có phải chúng ta khó mà giữ chay lắm! Tâm lý khi chúng ta nghĩ đến phải ăn chay thì hình như sức mạnh của ma quỷ đã cám dỗ chúng ta rồi! Cho nên sự chay tịnh rất khó cho chúng ta giữ và theo nổi trong suốt thời gian 40 ngày chay. Nhưng thưa anh chị em, sự tẩy sạch tâm hồn tôi muốn nói và góp ý ở đây cũng rất dễ dàng để theo được thôi! Ấy là với sự cầu nguyện của chúng ta ngày đêm dâng lên Chúa và Mẹ Maria, các Ngài sẽ ban ơn cho chúng ta Chúa Thánh Linh, chính Ngài sẽ giúp cho chúng ta hiểu một cách đơn giản thôi, không cần cầu kỳ, không cần làm điều gì to tát mà chúng ta không có thể làm nổi! Ngài sẽ giúp cho chúng ta biết làm những điều gì đẹp lòng Chúa trong khả năng của chúng ta. Anh chị em nên nhớ rằng Thiên Chúa Ngài có tất cả, từ quyền năng của Ngài, cho đến tình yêu thương vô bờ bến mà Ngài từ muôn thuở muôn đời đã vì yêu nhân loại mà dành ban cho chúng ta chính Con Một duy nhất của Ngài, xuống trần gian để yêu thương và cứu độ chúng ta.
Vâng, trong hang đá chúng ta nhìn thấy những gì, và thấy những ai??? Và Hài Nhi trong máng cỏ là ai đó thưa anh chị em?? Có phải Ngài là Con Trẻ Hài Nhi Giêsu đó không? Ngài nằm trong máng cỏ, trong một chiếc nôi thật êm thắm và ấm êm? Máy sưởi của Ngài là súc vật?? Ngôi nhà êm thắm đẹp đẽ là một hang đá hoang sơ, Nơi mà Ngài được sinh ra bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria và người bạn đời trinh khiết của Ngài là dưỡng phụ Giuse, không là gì trong một xã hội thời xa xưa đó nơi thành Bêlem? Quả phúc hạnh thay cho những ai được nhìn thấy Ngài trong đêm đông giá lạnh Chúa Sinh Ra Đời!? Đó là 3 Vua và một số mục đồng, được Thiên Thần đánh thức và báo mộng, để theo ánh sao đến mà phủ phục tôn thờ Ngài. Ngài là một phàm nhân. ... nhưng Ngài là Con Thiên Chúa. Quả tuyệt diệu thay! Quả huyền nhiệm thay! Đêm đông giá buốt Chúa Sinh Ra Đời.
Nhìn Chúa Giêsu nằm trong máng cỏ, tấm thân ngọc ngà của Ngài được bao bọc trong miếng khăn sơ sài, nằm trên lớp rơm mà Mẹ Maria có thể tìm thấy trong hang bò lừa, để đặt Ngài nằm lên. Đấy là Thiên Chúa của chúng ta đấy! Hèn chi trên thế gian còn có những con người coi và khinh dể Ngài hết sức. Vì Thiên Chúa của họ không có thể thế được!? Vì họ không thể nào bái lậy và quỳ gối xuống cho một em bé ư!?? Họ đâu có thể lột bỏ những gì sang trọng đang khoác trên người mà quỳ thờ lậy một em bé nghèo khổ, dưới mức của nghèo khổ nữa!??
Tuy năm nay kinh tế có xuống dốc cho rất nhiều người trên khắp mọi nơi trên toàn thế giới, nhưng ai giầu thì vẫn còn giầu và còn có thể giầu hơn nữa! Vì kinh tế thì anh chị em phải hiểu rằng tiền bạc thì vẫn còn nguyên đó, chỉ là sự chuyển ngân từ tay người này mà sang người kia mà thôi! Âu cũng là những sự mánh mung của dân nhà giầu thường là thế! Họ còn hay mất là tùy theo thời như ván cờ thời vận của họ đang gặp phải trong lúc này mà thôi! Người thua thì nay mai cũng sẽ lên trở lại. Cho nên người giầu thì vẫn sắm sửa, vẫn ăn uống, vẫn chè chén say sưa được mà! Còn chúng ta là thành phần nào trong xã hội của ngày hôm nay?? Nhìn Chúa Giêsu Hài Đồng, một em bé nghèo hèn như thế! Làm cho chúng ta có xót xa hay không? Có làm cho chúng ta phải động lòng hay không? Chúng ta phải làm gì để đẹp lòng Chúa? Bằng cách nào mà thực tế nhất? Thưa có phải không gì làm đẹp lòng Chúa cho bằng là chúng ta biết sẻ chia tình thương của mình qua anh chị em có nhu cầu đang cần sự giúp đỡ của chúng ta?? Anh chị em có thể tưởng tượng được các em nghèo trong mùa Giáng Sinh giá lạnh này nếu được một món quà mà các em thích do anh chị em biếu tặng, nhìn ánh mắt và nụ cười tươi vui rạng rỡ trên một khuôn mặt của các em, thì đó là món quà mà chúng ta tặng cho Chúa Hài Đồng Giêsu đó!
Chúng ta cũng có thể tìm đến những viện dưỡng lão nơi mà các ông bà bị con cái và người thân thương từ bỏ, không thăm nom, không chăm sóc, và bỏ hẳn trong viện dưỡng lão cho đến ngày họ nhắm mắt xuôi tay?? Chúng ta cũng có thể đến thăm các anh chị em của chúng ta trong tù, vừa an ủi, vừa chia sớt tình thương của mình, và vừa đem cho họ một món quà nho nhỏ để nói với họ rằng mình còn nhớ đến họ??
Chúng ta cũng có thể bỏ thời giờ của chúng ta cho gia đình, nhất là cho con cái của chúng ta. Các em nhỏ sở dĩ chúng ngang tàng bướng bỉnh tỏ vẻ mất dậy, có thể vì chúng thiếu tình thương của bố mẹ đấy!? Vật chất không có thể nào thay thế được tình thương của bố mẹ được đâu!? Dành nhiều thời giờ cho gia đình để gia đình còn cảm thấy rằng mình có tình thương yêu của gia đình, vì tiền bạc không mua được hạnh phúc, tôi đã chứng kiến được cái cảnh giầu có của một gia đình, mà vì tiền bạc đã làm cho gia đình của họ trở thành một hỏa ngục của trần gian. Giầu có mà chi khi con bệnh hoạn không cho đi chữa trị để chết một cách tức tưởi. Giầu có mà chi để ngày đêm vợ chồng tranh cãi nhau về tiền bạc. Giầu có mà chi để mấy cậu con trai bây giờ trở thành băng đảng và chỉ biết về vòi tiền của cha mẹ. Giầu có mà chi khi mà sự hưởng thụ của họ chỉ là được nhìn ngắm những tòa nhà cứ mỗi năm tậu một cái. Chết trong nay mai chẳng đem theo được một thứ gì mà hiện tại thì đang mang bệnh nan y không biết ra đi ngày nào!?
Nên thưa anh chị em! Mùa Vọng là Mùa của sự chia sẻ của yêu thương của thông cảm! Xin hãy vì sự Đón Chờ Ơn Cứu Độ của Chúa đến mà dọn lòng, dọn đường, cho thật sạch sẽ, như Hang Đá bẩn thỉu được chúng ta quét dọn cho sạch sẽ, để xứng đáng đón chào Con Thiên Chúa có thể sinh hạ trong tấm lòng thô sơ nhưng rất chân thật của chúng ta. Hãy hạ mình xuống mà đón Chúa là Đấng Tối Cao vì Ngài từ Trời mà ĐẾN.
Vinh Danh Thiên Chúa Trên Khắp Tầng Trời!
Bình An Dưới Thế Cho Người Chúa Thương! Amen.
Niềm vui Mùa Vọng
Phó tế JB Nguyễn Định
18:26 13/12/2009
Mùa Vọng là Mùa Vui Mừng, Hy Vọng, Đợi Chờ Chúa: “Reo vui lên hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem hãy nức lòng phấn khởi. (Xô-phô-ni-a 3, 14)
Vì thế, tôi cảm thấy Chúa đang hiện diện: “Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi. Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ.” (Xp 3, 17)
Trong thư gởi Phi-lip-phê, thánh Phaolô còn vui mừng phấn khởi kêu lên: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: “Vui lên anh em ! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã đến gần. “ (Pl 4, 4-5)
* Chuyện kể: Trong cuốn Pollyanna viết về một cô gái lạc quan, luôn thấy cô có chuyện để vui mừng, ngay cả lúc điều không tốt xảy như sau: Gần đây tôi nhớ một nhân vật văn chương này, khi cô bạn thật của tôi ngoài đời bị té gẫy tay trong lúc chạy xe đạp. Marianna kể với tôi rằng cô rất vui mừng cảm tạ Chúa, vì vẫn có thể chạy xe về nhà và thật biết ơn Chúa là cô không cần phải phẫu thuật. Cô nói: tay trái bị gẫy(cô thuận tay phải) nên vẫn có thể làm việc được. Và chẳng tuyệt sao, cô lấy làm lạ xương mình thật tốt, nên tay gẫy chóng lành! Và chẳng may mắn sao, vết thương không có gì tồi tệ.!
* Suy tư: Marianna đúng là mẫu người biết vui mừng trong hoạn nạn. Chị tin rằng Chúa sẽ chăm sóc mình—dù có chuyện gì xảy ra.
Cuối cùng thì ai cũng được chịu khổ, và khi gặp khó khăn phản ứng đầu tiên của chúng ta là không vui mừng cảm tạ. Nhưng tôi nghĩ rằng Chúa sẽ vui khi thấy khi thấy bạn tìm ra lý do để biết ơn Ngài: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh…(x. 1Thê-sa-lo-ni-ca 5,16-18).
Hãy vui lên vì bạn đã bỏ lối sống cũ! Hãy mừng lên vì Chúa đang đến với bạn! Hãy reo vui vì mọi người thấy bạn hiền hoà, rộng rãi!
* Chính khi bạn tin cậy vào sự tốt đẹp của Chúa mà bạn tìm được niềm vui và bình an, vì lòng tin sẽ nhìn thấy Chúa trong mọi hoàn cảnh: “Bình an của Thiên Chúa là bình an vượt trên mọi hiểu biết sẽ giữ lòng trí anh em được hết hợp với Đức Kitô Giêsu. (Pl 4, 7)
* Lời hay ý đẹp: Niềm vui mừng là nhìn thấy Chúa đến trong mọi lúc.
Vì thế, tôi cảm thấy Chúa đang hiện diện: “Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi. Người là vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ.” (Xp 3, 17)
Trong thư gởi Phi-lip-phê, thánh Phaolô còn vui mừng phấn khởi kêu lên: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: “Vui lên anh em ! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã đến gần. “ (Pl 4, 4-5)
* Chuyện kể: Trong cuốn Pollyanna viết về một cô gái lạc quan, luôn thấy cô có chuyện để vui mừng, ngay cả lúc điều không tốt xảy như sau: Gần đây tôi nhớ một nhân vật văn chương này, khi cô bạn thật của tôi ngoài đời bị té gẫy tay trong lúc chạy xe đạp. Marianna kể với tôi rằng cô rất vui mừng cảm tạ Chúa, vì vẫn có thể chạy xe về nhà và thật biết ơn Chúa là cô không cần phải phẫu thuật. Cô nói: tay trái bị gẫy(cô thuận tay phải) nên vẫn có thể làm việc được. Và chẳng tuyệt sao, cô lấy làm lạ xương mình thật tốt, nên tay gẫy chóng lành! Và chẳng may mắn sao, vết thương không có gì tồi tệ.!
* Suy tư: Marianna đúng là mẫu người biết vui mừng trong hoạn nạn. Chị tin rằng Chúa sẽ chăm sóc mình—dù có chuyện gì xảy ra.
Cuối cùng thì ai cũng được chịu khổ, và khi gặp khó khăn phản ứng đầu tiên của chúng ta là không vui mừng cảm tạ. Nhưng tôi nghĩ rằng Chúa sẽ vui khi thấy khi thấy bạn tìm ra lý do để biết ơn Ngài: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh…(x. 1Thê-sa-lo-ni-ca 5,16-18).
Hãy vui lên vì bạn đã bỏ lối sống cũ! Hãy mừng lên vì Chúa đang đến với bạn! Hãy reo vui vì mọi người thấy bạn hiền hoà, rộng rãi!
* Chính khi bạn tin cậy vào sự tốt đẹp của Chúa mà bạn tìm được niềm vui và bình an, vì lòng tin sẽ nhìn thấy Chúa trong mọi hoàn cảnh: “Bình an của Thiên Chúa là bình an vượt trên mọi hiểu biết sẽ giữ lòng trí anh em được hết hợp với Đức Kitô Giêsu. (Pl 4, 7)
* Lời hay ý đẹp: Niềm vui mừng là nhìn thấy Chúa đến trong mọi lúc.
Nhà to lòng nhỏ, Nhà nhỏ lòng to
LM. Anmai, CSsR
18:46 13/12/2009
Nhà to – lòng nhỏ
Cũng hơn chục năm rồi không gặp từ ngày Em lấy chồng và tôi đi tu. Bỗng dưng hôm nay Em lại phone thăm kẻ tu trì này !
Biết “tại hạ” đang lo cho các em khuyết tật, Em cũng cố gắng kiếm chút chút nào đó lòng quảng đại của những người thân quen để sẻ chia “gánh nặng” nhưng hầu như chẳng được. Em ngậm ngùi bảo: “khó lắm cha ơi” !
Em sợ “tại hạ” nghĩ ngợi vì gia đình em thuộc dạng khá giả nên em mới bắt đầu phân phô.
Gia đình Em may mắn hơn nhiều gia đình khác ! Hiện nhà Em sở hữu “chỉ có” một dàn máy dệt cộng với hai căn nhà mặt tiền của con đường lớn trung tâm đô thị và dăm ba căn nhà trong hẻm nhỏ. Tưởng chừng với thu nhập của một dàn máy dệt cộng với nhập thu mỗi tháng dăm bảy chục triệu từ chuyện cho thuê nhà sẽ mang đến hạnh phúc cho gia đình Em như nhiều người mơ mước.
Mơ ước đâu làm thoả mãn được ước mơ ! Tổng thu nhập hơn trăm triệu ấy vẫn chưa làm cho ba cũng như mấy đứa em của Em an phận. Ngày nào cũng như ngày nấy, trận to thì cá to trận nhỏ thì cá nhỏ. Em kể rằng có tháng mẹ Em phải chi gần bạc tỷ cho dòng máu đỏ đen của cha.
Mới đây nhất, thằng em kế của Em cầm tạm chiếc xe SH mới cáu với giá 60.000.000 đ. Mẹ Em cũng phải nai lưng bỏ tiền chuộc xe về.
Thằng em út đi bộ đội có khá gì hơn đâu ? Mỗi ngày chi cho nó 200.000 đ tiêu vặt trong những ngày “nhập ngũ” nhưng dường như không đủ. Thứ Bảy vừa rồi nó về thăm nhà như thường lệ, biết đến ngày lấy tiền thuê nhà, nó đến gặp người thuê mướn “cầm tạm” 6 triệu bạc ! Khi Em đến lấy thì dĩ nhiên người thuê mướn nhà của Em phải trừ đi khoản “cầm tạm” của đứa em tội nghiệp.
Qua điện thoại, giọng Em đượm buồn ! Em bảo rằng bố Em chuyên gia cá độ thì làm sao bảo được các con !
Chi tiêu như nước như vậy cho chuyện cờ bạc, cá cược nhưng chẳng bao giờ người cha cũng như các em nhớ đến những phận người bất hạnh.
Không riêng gì nhà Em. Em cũng “chạy tới chạy lui” bà con họ hàng thân thích nhưng họ đều thoái thác với những lời than vãn dẫu rằng họ đều có của để của dư.
Em tiếc nuối vì những người thân ấy thừa khả năng chia sẻ nhưng họ lại chẳng sẻ chia.
Nhà nhỏ - lòng to
Cha già nọ ở Vũng Tàu nhờ làm “hướng dẫn viên” khám bệnh cho người nghèo xa xôi. Nghĩ ngay đến bà chị làm ở Ung Bướu và “hành” chị ngay. Chỉ qua điện thoại thôi nhưng mà chị lo lắng một cách hết sức sốt sắng.
Về Sài Thành có chút việc, chuẩn bị về lại vùng nghèo biển mặn bỗng dưng bà chị gọi: “Cha ráng chờ con chút nha, Cha đợi con ở 10 Phan Đăng Lưu nha !”.
Chỉ dăm phút sau chị có mặt tại nhà hưu Bác Ái Vinh Sơn. Không chỉ mình chị mà còn có cả hai chị em bệnh nhân nghèo. Chị thật lòng bảo: “Tối nay hai chị em này sẽ về ở nhà con” !
Lời của chị nói sao mà khó nghe quá ! Nhờ lo trong bệnh viện là cũng phiền hà lắm rồi chứ còn dám nhờ chuyện gì khác. Ấy vậy mà chị nhanh nhảu cho người nghèo nương náu trong những ngày chữa trị.
Mất vài phút qua vài con hẻm thì đến nhà chị. Dù còn nhiều việc nhưng chị ráng mời cha vào nhà cho bằng được để cha tận mắt nhìn căn nhà nhỏ. Gọi là nhà cho oai chứ bề ngang vỏn vẹn có hai mét rưỡi và bề dài chưa đầy sáu mét. Tận dụng không gian nhỏ hẹp, chị làm cái gác gỗ để có thêm chỗ dung thân. Nghe chị nói mà tóc tai cứ muốn dựng lên được: “Cha biết không ! Con xin Chúa lâu rồi, Chúa mới cho con đó. Chúa thương con lắm ! Con ước nguyện có căn nhà nhỏ này để phục vụ cho bệnh nhân nghèo không có chỗ ở khi lên đây chữa bệnh. Bất cứ khi nào Cha có bệnh nhân mà không có chỗ ở thì Cha cứ nói cho con nhé !”.
Vừa nói chị vừa hướng dẫn những gì cần thiết cho hai con người quê mùa xốc xếch đêm nay tá túc nhà chị. Với căn bệnh ung thư, chắc có lẽ không phải đêm nay mà còn nhiều đêm khác nữa.
Tưởng chừng sau khi hướng dẫn cho hai người nghèo này được an cư thì chị lại vội vã ra đi. Chị giải thích cho cử chỉ vội vã ấy: “Cha ơi ! Cha thông cảm nhá, con phải vội đi lắm ! Giờ con phải chạy qua bên mái ấm của con để con lo cho các em nữa !”. Vừa nói chị vừa quay xe đi một mạch cho kịp giờ.
Chị đã khuất bóng khỏi con hẻm nhưng hình ảnh của chị sao cứ còn mãi ! Không thể nào tưởng được những gì vừa xảy ra trước mắt mình. Hình như là ngoài sức mong đợi của mình thì phải.
Sau ngày gặp chị vài hôm, gọi điện cảm ơn cũng như thăm hỏi công việc thì chị nói chị đang cưu mang gần hai chục con người bị bỏ rơi ở căn nhà nhỏ trong cư xá Đô Thành sau bệnh viện Bình Dân. Cũng muốn chung chia với chị chút chút từ những tấm lòng thơm thảo là trái bí, trái bầu nhưng chị xin nhường lại cho người khác vì giờ đây chị đã tạm ổn. Chị nói: “Giá mà cha cho con cách đây chừng 5 năm thì con mừng lắm ! Giờ thì con ổn rồi !”.
Tiếng người nói bên kia điện thoại đã chấm dứt nhưng sao vẫn còn văng vẳng bên tai tấm lòng nhân hậu của một con người đơn sơ nhỏ bé.
Chút suy tư nho nhỏ
Câu chuyện căn nhà to và tấm lòng nhỏ của cô bạn ngày xưa làm cho mình cảm thấy chạnh lòng. Chưa kịp nghĩ đến chuyện họ chia sẻ cho những người nghèo bất hạnh là những người luôn cần sự trợ giúp của những người may mắn, chỉ nghĩ đến chuyện là bố con gia đình ấy đừng chạy theo những canh bạc đỏ đen để gia đình được bình an và xã hội đừng xuống cấp là được rồi. Dĩ nhiên là tiền họ làm ra họ có quyền sử dụng trên nó nhưng một cách nào đó họ đã góp phần làm cho xã hội băng hoại vì những đồng tiền bất chính từ những trận cá cược đã làm cho bao gia đình tan vỡ.
Hình ảnh người phụ nữ nghèo trong căn nhà nhỏ với tấm lòng hết sức quảng đại là nhân chứng sống động của tình Chúa – tình người. Căn nhà với diện tích chưa đầy mười lăm mét vuông ấy nhưng tấm lòng quá lớn.
Giá như mà những căn nhà to thật là to cho thuê để lấy tiền nướng vào các canh bạc được làm chỗ tá túc cho những người nghèo cô thế cô thân thì hay biết mấy ! Những người nghèo họ chẳng mơ ước gì cao sang, chỉ cần một góc nho nhỏ để vùi cho cơn ngủ được ngon hơn khi cuộc sống lam lũ đêm ngày lại gặp trọng bệnh.
Vẫn còn đó những căn nhà nhỏ - tấm lòng to để bù lại cho những căn nhà to - tấm lòng nhỏ. Vẫn còn đó một chút lòng nhân, một chút tình người le lói giữa cuộc đời mà người ta rủ nhau đi vun vén, rủ nhau đi hơn thua.
Cũng hơn chục năm rồi không gặp từ ngày Em lấy chồng và tôi đi tu. Bỗng dưng hôm nay Em lại phone thăm kẻ tu trì này !
Biết “tại hạ” đang lo cho các em khuyết tật, Em cũng cố gắng kiếm chút chút nào đó lòng quảng đại của những người thân quen để sẻ chia “gánh nặng” nhưng hầu như chẳng được. Em ngậm ngùi bảo: “khó lắm cha ơi” !
Em sợ “tại hạ” nghĩ ngợi vì gia đình em thuộc dạng khá giả nên em mới bắt đầu phân phô.
Gia đình Em may mắn hơn nhiều gia đình khác ! Hiện nhà Em sở hữu “chỉ có” một dàn máy dệt cộng với hai căn nhà mặt tiền của con đường lớn trung tâm đô thị và dăm ba căn nhà trong hẻm nhỏ. Tưởng chừng với thu nhập của một dàn máy dệt cộng với nhập thu mỗi tháng dăm bảy chục triệu từ chuyện cho thuê nhà sẽ mang đến hạnh phúc cho gia đình Em như nhiều người mơ mước.
Mơ ước đâu làm thoả mãn được ước mơ ! Tổng thu nhập hơn trăm triệu ấy vẫn chưa làm cho ba cũng như mấy đứa em của Em an phận. Ngày nào cũng như ngày nấy, trận to thì cá to trận nhỏ thì cá nhỏ. Em kể rằng có tháng mẹ Em phải chi gần bạc tỷ cho dòng máu đỏ đen của cha.
Mới đây nhất, thằng em kế của Em cầm tạm chiếc xe SH mới cáu với giá 60.000.000 đ. Mẹ Em cũng phải nai lưng bỏ tiền chuộc xe về.
Thằng em út đi bộ đội có khá gì hơn đâu ? Mỗi ngày chi cho nó 200.000 đ tiêu vặt trong những ngày “nhập ngũ” nhưng dường như không đủ. Thứ Bảy vừa rồi nó về thăm nhà như thường lệ, biết đến ngày lấy tiền thuê nhà, nó đến gặp người thuê mướn “cầm tạm” 6 triệu bạc ! Khi Em đến lấy thì dĩ nhiên người thuê mướn nhà của Em phải trừ đi khoản “cầm tạm” của đứa em tội nghiệp.
Qua điện thoại, giọng Em đượm buồn ! Em bảo rằng bố Em chuyên gia cá độ thì làm sao bảo được các con !
Chi tiêu như nước như vậy cho chuyện cờ bạc, cá cược nhưng chẳng bao giờ người cha cũng như các em nhớ đến những phận người bất hạnh.
Không riêng gì nhà Em. Em cũng “chạy tới chạy lui” bà con họ hàng thân thích nhưng họ đều thoái thác với những lời than vãn dẫu rằng họ đều có của để của dư.
Em tiếc nuối vì những người thân ấy thừa khả năng chia sẻ nhưng họ lại chẳng sẻ chia.
Nhà nhỏ - lòng to
Cha già nọ ở Vũng Tàu nhờ làm “hướng dẫn viên” khám bệnh cho người nghèo xa xôi. Nghĩ ngay đến bà chị làm ở Ung Bướu và “hành” chị ngay. Chỉ qua điện thoại thôi nhưng mà chị lo lắng một cách hết sức sốt sắng.
Về Sài Thành có chút việc, chuẩn bị về lại vùng nghèo biển mặn bỗng dưng bà chị gọi: “Cha ráng chờ con chút nha, Cha đợi con ở 10 Phan Đăng Lưu nha !”.
Chỉ dăm phút sau chị có mặt tại nhà hưu Bác Ái Vinh Sơn. Không chỉ mình chị mà còn có cả hai chị em bệnh nhân nghèo. Chị thật lòng bảo: “Tối nay hai chị em này sẽ về ở nhà con” !
Lời của chị nói sao mà khó nghe quá ! Nhờ lo trong bệnh viện là cũng phiền hà lắm rồi chứ còn dám nhờ chuyện gì khác. Ấy vậy mà chị nhanh nhảu cho người nghèo nương náu trong những ngày chữa trị.
Mất vài phút qua vài con hẻm thì đến nhà chị. Dù còn nhiều việc nhưng chị ráng mời cha vào nhà cho bằng được để cha tận mắt nhìn căn nhà nhỏ. Gọi là nhà cho oai chứ bề ngang vỏn vẹn có hai mét rưỡi và bề dài chưa đầy sáu mét. Tận dụng không gian nhỏ hẹp, chị làm cái gác gỗ để có thêm chỗ dung thân. Nghe chị nói mà tóc tai cứ muốn dựng lên được: “Cha biết không ! Con xin Chúa lâu rồi, Chúa mới cho con đó. Chúa thương con lắm ! Con ước nguyện có căn nhà nhỏ này để phục vụ cho bệnh nhân nghèo không có chỗ ở khi lên đây chữa bệnh. Bất cứ khi nào Cha có bệnh nhân mà không có chỗ ở thì Cha cứ nói cho con nhé !”.
Vừa nói chị vừa hướng dẫn những gì cần thiết cho hai con người quê mùa xốc xếch đêm nay tá túc nhà chị. Với căn bệnh ung thư, chắc có lẽ không phải đêm nay mà còn nhiều đêm khác nữa.
Tưởng chừng sau khi hướng dẫn cho hai người nghèo này được an cư thì chị lại vội vã ra đi. Chị giải thích cho cử chỉ vội vã ấy: “Cha ơi ! Cha thông cảm nhá, con phải vội đi lắm ! Giờ con phải chạy qua bên mái ấm của con để con lo cho các em nữa !”. Vừa nói chị vừa quay xe đi một mạch cho kịp giờ.
Chị đã khuất bóng khỏi con hẻm nhưng hình ảnh của chị sao cứ còn mãi ! Không thể nào tưởng được những gì vừa xảy ra trước mắt mình. Hình như là ngoài sức mong đợi của mình thì phải.
Sau ngày gặp chị vài hôm, gọi điện cảm ơn cũng như thăm hỏi công việc thì chị nói chị đang cưu mang gần hai chục con người bị bỏ rơi ở căn nhà nhỏ trong cư xá Đô Thành sau bệnh viện Bình Dân. Cũng muốn chung chia với chị chút chút từ những tấm lòng thơm thảo là trái bí, trái bầu nhưng chị xin nhường lại cho người khác vì giờ đây chị đã tạm ổn. Chị nói: “Giá mà cha cho con cách đây chừng 5 năm thì con mừng lắm ! Giờ thì con ổn rồi !”.
Tiếng người nói bên kia điện thoại đã chấm dứt nhưng sao vẫn còn văng vẳng bên tai tấm lòng nhân hậu của một con người đơn sơ nhỏ bé.
Chút suy tư nho nhỏ
Câu chuyện căn nhà to và tấm lòng nhỏ của cô bạn ngày xưa làm cho mình cảm thấy chạnh lòng. Chưa kịp nghĩ đến chuyện họ chia sẻ cho những người nghèo bất hạnh là những người luôn cần sự trợ giúp của những người may mắn, chỉ nghĩ đến chuyện là bố con gia đình ấy đừng chạy theo những canh bạc đỏ đen để gia đình được bình an và xã hội đừng xuống cấp là được rồi. Dĩ nhiên là tiền họ làm ra họ có quyền sử dụng trên nó nhưng một cách nào đó họ đã góp phần làm cho xã hội băng hoại vì những đồng tiền bất chính từ những trận cá cược đã làm cho bao gia đình tan vỡ.
Hình ảnh người phụ nữ nghèo trong căn nhà nhỏ với tấm lòng hết sức quảng đại là nhân chứng sống động của tình Chúa – tình người. Căn nhà với diện tích chưa đầy mười lăm mét vuông ấy nhưng tấm lòng quá lớn.
Giá như mà những căn nhà to thật là to cho thuê để lấy tiền nướng vào các canh bạc được làm chỗ tá túc cho những người nghèo cô thế cô thân thì hay biết mấy ! Những người nghèo họ chẳng mơ ước gì cao sang, chỉ cần một góc nho nhỏ để vùi cho cơn ngủ được ngon hơn khi cuộc sống lam lũ đêm ngày lại gặp trọng bệnh.
Vẫn còn đó những căn nhà nhỏ - tấm lòng to để bù lại cho những căn nhà to - tấm lòng nhỏ. Vẫn còn đó một chút lòng nhân, một chút tình người le lói giữa cuộc đời mà người ta rủ nhau đi vun vén, rủ nhau đi hơn thua.
Con đường dẫn đến cầu nguyện
Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
19:19 13/12/2009
Lyon- Ban Mục Vụ Giới trẻ giáo phận có tổ chức khóa tĩnh tâm dành cho các bạn trẻ từ 18 tuổi trở lên bắt đầu từ ngày 27 đến 30 tháng 12 năm 2009 tại khu nhà mang tên vị thánh Tông Đồ Anrê thuộc đại chủng viện Prado Limonest.
Đội ngũ hướng dẫn cho khóa tĩnh tâm này gồm có đức hồng y Philippe Barbarin, Tổng Giám Mục Lyon; đức cha phụ tá Jean-Pierre Batut; các linh mục đặc trách và một số giáo dân. Khóa tĩnh tâm xoay quanh chủ đề « Nhiệm Thể Chúa Kitô và việc tôn sùng bí tích Thánh Thể » với mục đích giúp cho các bạn trẻ học cách cầu nguyện. Trong bầu khí thinh lặng nội tâm, nhịp sống hàng ngày được diễn ra với các bài giảng tĩnh tâm, thời gian nguyện gẫm, các giờ Kinh Sáng và Kinh Chiều, cũng như việc hướng dẫn đồng hành thiêng liêng do các linh mục hoặc giáo dân đảm nhiệm.
Khóa tĩnh tâm được tổ chức để đáp ứng nhu cầu cho các bạn trẻ muốn đào sâu mối quan hệ mật thiết với Chúa hay là có thao thức muốn tìm cho mình một ý nghĩa sống đích thực.
Trong số các bạn trẻ, Jean thuộc nhóm dự tu giáo phận và cũng là lần đầu tiên tham dự tĩnh tâm đã chia sẻ những sự chờ mong của mình: « Với sức riêng mình, tôi không thể đi đến cùng được. Đây là thời điểm cho phép tôi kêu cầu Thiên Chúa trợ giúp và mang lại cho tôi những phương tiện cần thiết để tiến bước trong cuộc sống ».
Đội ngũ hướng dẫn cho khóa tĩnh tâm này gồm có đức hồng y Philippe Barbarin, Tổng Giám Mục Lyon; đức cha phụ tá Jean-Pierre Batut; các linh mục đặc trách và một số giáo dân. Khóa tĩnh tâm xoay quanh chủ đề « Nhiệm Thể Chúa Kitô và việc tôn sùng bí tích Thánh Thể » với mục đích giúp cho các bạn trẻ học cách cầu nguyện. Trong bầu khí thinh lặng nội tâm, nhịp sống hàng ngày được diễn ra với các bài giảng tĩnh tâm, thời gian nguyện gẫm, các giờ Kinh Sáng và Kinh Chiều, cũng như việc hướng dẫn đồng hành thiêng liêng do các linh mục hoặc giáo dân đảm nhiệm.
Khóa tĩnh tâm được tổ chức để đáp ứng nhu cầu cho các bạn trẻ muốn đào sâu mối quan hệ mật thiết với Chúa hay là có thao thức muốn tìm cho mình một ý nghĩa sống đích thực.
Trong số các bạn trẻ, Jean thuộc nhóm dự tu giáo phận và cũng là lần đầu tiên tham dự tĩnh tâm đã chia sẻ những sự chờ mong của mình: « Với sức riêng mình, tôi không thể đi đến cùng được. Đây là thời điểm cho phép tôi kêu cầu Thiên Chúa trợ giúp và mang lại cho tôi những phương tiện cần thiết để tiến bước trong cuộc sống ».
Phải làm gì với nguyên tắc sống của Gioan Tẩy Giả
Lm. Phêrô Hồng Phúc
09:13 13/12/2009
PHẢI LÀM GÌ VỚI NGUYÊN TẮC SỐNG CỦA GIOAN TẨY GIẢ?
Ngay khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện, các tầng lớp trong dân Do Thái đã qui tụ bên ông rất đông. Bởi vì 30 năm đã trôi qua, kể từ khi ông sinh ra, người ta đã tự hỏi rằng: “Con trẻ này rồi sẽ nên như thế nào? Vì quả thật bàn tay Thiên Chúa đã ở với em” (Lc 1,66).
Gioan ra đời với rất nhiều dấu lạ:
Dấu lạ thứ nhất: Cha của Gioan, ông Dacaria bị câm, chỉ có thể nói bằng dấu hiệu;
Dấu lạ thứ hai: Bà Elisabet, mẹ của Gioan, là người đã son sẻ và cao niên nhưng vẫn mang thai và sinh Gioan.
Dấu lạ thứ ba: Khi Gioan được sinh ra thì ngay tên của Gioan cũng đã được đổi. Đổi tên là đổi sứ mệnh. Không phải dòng họ Dacaria mà là Gioan.
Dấu lạ thứ tư: Khi Gioan được sinh ra, ngay lúc ấy, ông Dacaria khỏi câm. Ông đã lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa.
Tất cả những việc đó đã đủ trở thành một dấu hỏi cho những người Do Thái. Nhưng đằng sau dấu hỏi lớn ấy lại là cả một bí ẩn nữa. Gioan sống khác thường, ông lánh mình vào hoang địa và sống rất nhiệm nhặt. Bởi vậy, sau bao nhiêu năm tu luyện, việc trở lại của ông, trong con mắt những người Do Thái đã nghĩ ông là Đấng Kitô và họ đã không ngần ngại hỏi: “Ông có phải là Đấng Kitô không?”. Chỉ bằng một cái gật đầu, Gioan có thể làm cho tất cả mọi người tin và đến với ông trùng trùng, lớp lớp. Nhưng Gioan làm chứng về sự thật chứ Gioan không phải đến để lấn lướt sự thật. Như lời sách ngôn sứ Isaia đã chép: “Có tiếng người hô trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa đến” (Lc 3,4; Is 40,3); Vì vậy ông tuyên bố: “Tôi làm phép rửa bằng nước, nhưng Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi sẽ rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa” (Lc 3,16).
Những lời tuyên bố của Gioan Tẩy Giả đã nói lên sứ vụ của ông - Người đi trước dọn đường cho Chúa Kitô. Bằng những hình ảnh, Gioan đã diễn tả con đường để đón Chúa là một con đường bằng phẳng. Nhưng con đường bằng phẳng ấy được áp dụng cho mỗi người thế nào? Hôm nay Gioan đã trả lời rất thực tế, rất rõ ràng cho những người đến xin ông bằng một câu hỏi mà thời đại ngày nay cũng rất cần thiết cho chúng ta, mỗi người cần tự nguyện đặt ra câu hỏi đó: “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3,10) Chúng ta nhận ra rất nhiều thành phần Do Thái lúc bấy giờ đến với Gioan: những người bình dân, những người chất phác, những người đơn sơ, những người bé mọn... được Gioan trả lời trong thực tế rằng: “Ai có hai áo hãy cho người khác một chiếc” (Lc 3,11), đó là đức bác ái. Với những người thu thuế, là những người hay lợi dụng để nhũng nhiễu, Gioan trả lời: “Đừng đòi hỏi những gì cao hơn mức ấn định cho các ngươi” (Lc 3,13). Còn những người lính như người ta nói rằng “Nước sông công lính” luôn luôn là một nghĩa vụ đi đầu, cho nên lương của lính chỉ đủ để ăn, để mặc, họ luôn luôn phàn nàn khi có dịp thì ức hiếp người khác để đòi lại quyền lợi của mình đã bị lấn lướt. Gioan trả lời cho họ rằng: “Đừng ức hiếp ai, đừng đòi hỏi và hãy bằng lòng với số lương của mình” (Lc 3,14).
Cung cách trả lời của Gioan là một nguyên tắc sống để áp dụng cho từng người. Nếu hôm nay, thời đại của chúng ta, người ta cũng đến hỏi Gioan như vậy với câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?” Gioan chắc sẽ trả lời rằng: Đừng có hưởng thụ, đối với những người chỉ biết du lịch mà không bao giờ biết thăm viếng; Đối với các bài mẹ, đối với giới trẻ đừng có hủy diệt sự sống, đừng có phá thai; Đối với những nhà kinh doanh, đừng có sống duy vật chất, còn phải có lương tâm nữa; Ngài cũng trả lời cho các nhà lãnh đạo rằng: Đừng có ủng hộ luật phá thai; Đừng có thử thách Thiên Chúa trong sự sống mà Ngài là tác giả. Nói tóm lại, ở mỗi một thời đại, ở mỗi một thành phần, ở mỗi một con người, Gioan sẽ có câu trả lời thích hợp. Điều quan trọng, người ta có đến với Gioan để hỏi rằng: “Chúng tôi phải làm gì?” không?.
Hôm nay, Giáo Hội vẫn đang tiếp tục thi hành sứ mạng mà Gioan là người đã được trao, đó là luôn luôn dọn đường cho Chúa Kitô và chỉ Chúa Kitô cho mọi người. Những người đã dọn đường sẵn sàng, những người đã thực hiện được đúng như lời Gioan chỉ dạy, thì sẽ đến một lúc chứng kiến Gioan chỉ vào con người đang đi qua - cũng như Giáo Hội ngày nay qua thừa tác vụ Linh mục - giơ cao Mình Thánh và lớn tiếng tuyên bố: “Đây Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Như vậy, Đấng mà Gioan loan báo là Đấng mà ngài đã so sánh bằng một hình ảnh thực tế rất đơn giản nhưng lại hết sức là rõ ràng, sâu sắc, rằng: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” (Lc 3,16). Những người Do Thái phải hiểu rằng, một con người mà họ đã từng có những kỳ vọng ba mươi năm nay mà bây giờ nói về “Đấng đến sau tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” thì họ sẽ vui mừng biết bao được nhìn thấy sự cao trọng của Đấng Cứu Thế; họ sẽ sung sướng biết bao về quyền năng cũng như lòng thương xót mà Đấng đến sau Gioan sẽ thi thố trên họ. Mặc dầu vậy, giới Do Thái vẫn chia làm hai thành phần:
“Dân nghèo lao động khổ đau
Vui nghe lời Chúa kêu cầu Chúa thương
Bọn biệt phái và hàng trưởng tế
Cùng những người vai vế trong dân
Lòng đầy tham vọng phàm trần
Họ ghen ghét Chúa, chủ tâm giết người.”
(ĐHY Phaolô Phạm đình Tụng)
Thành phần thứ nhất: những người lao động khổ đau, những người mà Chúa cầu nguyện “Lạy Cha, con cảm tạ Cha đã giấu những người khôn ngoan thông thái, tỏ cho những người đơn sơ bé mọn” (Mt 11,25). Họ là những người đã đón nhận một cách hết sức thành tâm và họ đã được nhìn thấy ánh sáng;
Thành phần thứ hai: Thánh Gioan tông đồ đã viết ngay chương đầu trong Tin Mừng của ngài: “Ngài đến nhà gia nhân Ngài mà gia nhân Ngài không đón tiếp” (Ga 1,5). Ánh sáng đã đến trong bóng tối nhưng bóng tối không tiếp nhận ánh sáng. Bởi vì, bóng tối tiếp nhận ánh sáng nghĩa là bóng tối bị hủy diệt.
Như vậy, không phải thời đại của Gioan mà thời đại nào cũng vẫn tồn tại hai thành phần là những thành phần biết đón nhận và lắng nghe lời Chúa sinh hoa kết trái và những thành phần cố tình lẩn tránh hoặc chống đối.
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa là ánh sáng đã đến trong trần gian,
nhưng bóng tối vẫn còn đó
vì lẩn khuất,
vì cố tình lẩn tránh
hay cố tình bao trùm ánh sáng.
Chúa là ơn cứu độ
nhưng tội lỗi vẫn còn đó
vì tội lỗi không thể sống chung với thánh thiện.
Xin Chúa đừng để bóng tối,
ở trong lương tâm chúng con,
ở trong cõi lòng chúng con,
ở trong tâm hồn chúng con.
Xin Chúa đừng để cho tội lỗi trú ngụ lâu năm,
trú ngụ lâu tháng trong lòng chúng con.
Bí tích hòa giải, sự canh tân mỗi ngày
là những phương thế tình yêu Chúa trao ban cho chúng con
để cho chúng con mở rộng cửa lòng
đón nhận ánh sáng tình thương và ơn cứu độ của Chúa.
Mùa Vọng đã gần sát lễ Giáng Sinh,
ơn cứu độ – chúng con có thể nhìn thấy,
ơn cứu độ – chúng con có thể sờ thấy
và cầm lấy để mà ăn, để mà uống.
Xin đừng để ai trong chúng con đánh mất chính mình
nhưng cho chúng con đạt tới ơn cứu độ đời đời. Amen.
Phêrô Hồng Phúc
Linh mục
Ngay khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện, các tầng lớp trong dân Do Thái đã qui tụ bên ông rất đông. Bởi vì 30 năm đã trôi qua, kể từ khi ông sinh ra, người ta đã tự hỏi rằng: “Con trẻ này rồi sẽ nên như thế nào? Vì quả thật bàn tay Thiên Chúa đã ở với em” (Lc 1,66).
Gioan ra đời với rất nhiều dấu lạ:
Dấu lạ thứ nhất: Cha của Gioan, ông Dacaria bị câm, chỉ có thể nói bằng dấu hiệu;
Dấu lạ thứ hai: Bà Elisabet, mẹ của Gioan, là người đã son sẻ và cao niên nhưng vẫn mang thai và sinh Gioan.
Dấu lạ thứ ba: Khi Gioan được sinh ra thì ngay tên của Gioan cũng đã được đổi. Đổi tên là đổi sứ mệnh. Không phải dòng họ Dacaria mà là Gioan.
Dấu lạ thứ tư: Khi Gioan được sinh ra, ngay lúc ấy, ông Dacaria khỏi câm. Ông đã lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa.
Tất cả những việc đó đã đủ trở thành một dấu hỏi cho những người Do Thái. Nhưng đằng sau dấu hỏi lớn ấy lại là cả một bí ẩn nữa. Gioan sống khác thường, ông lánh mình vào hoang địa và sống rất nhiệm nhặt. Bởi vậy, sau bao nhiêu năm tu luyện, việc trở lại của ông, trong con mắt những người Do Thái đã nghĩ ông là Đấng Kitô và họ đã không ngần ngại hỏi: “Ông có phải là Đấng Kitô không?”. Chỉ bằng một cái gật đầu, Gioan có thể làm cho tất cả mọi người tin và đến với ông trùng trùng, lớp lớp. Nhưng Gioan làm chứng về sự thật chứ Gioan không phải đến để lấn lướt sự thật. Như lời sách ngôn sứ Isaia đã chép: “Có tiếng người hô trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa đến” (Lc 3,4; Is 40,3); Vì vậy ông tuyên bố: “Tôi làm phép rửa bằng nước, nhưng Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi sẽ rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa” (Lc 3,16).
Những lời tuyên bố của Gioan Tẩy Giả đã nói lên sứ vụ của ông - Người đi trước dọn đường cho Chúa Kitô. Bằng những hình ảnh, Gioan đã diễn tả con đường để đón Chúa là một con đường bằng phẳng. Nhưng con đường bằng phẳng ấy được áp dụng cho mỗi người thế nào? Hôm nay Gioan đã trả lời rất thực tế, rất rõ ràng cho những người đến xin ông bằng một câu hỏi mà thời đại ngày nay cũng rất cần thiết cho chúng ta, mỗi người cần tự nguyện đặt ra câu hỏi đó: “Chúng tôi phải làm gì?” (Lc 3,10) Chúng ta nhận ra rất nhiều thành phần Do Thái lúc bấy giờ đến với Gioan: những người bình dân, những người chất phác, những người đơn sơ, những người bé mọn... được Gioan trả lời trong thực tế rằng: “Ai có hai áo hãy cho người khác một chiếc” (Lc 3,11), đó là đức bác ái. Với những người thu thuế, là những người hay lợi dụng để nhũng nhiễu, Gioan trả lời: “Đừng đòi hỏi những gì cao hơn mức ấn định cho các ngươi” (Lc 3,13). Còn những người lính như người ta nói rằng “Nước sông công lính” luôn luôn là một nghĩa vụ đi đầu, cho nên lương của lính chỉ đủ để ăn, để mặc, họ luôn luôn phàn nàn khi có dịp thì ức hiếp người khác để đòi lại quyền lợi của mình đã bị lấn lướt. Gioan trả lời cho họ rằng: “Đừng ức hiếp ai, đừng đòi hỏi và hãy bằng lòng với số lương của mình” (Lc 3,14).
Cung cách trả lời của Gioan là một nguyên tắc sống để áp dụng cho từng người. Nếu hôm nay, thời đại của chúng ta, người ta cũng đến hỏi Gioan như vậy với câu hỏi: “Chúng tôi phải làm gì?” Gioan chắc sẽ trả lời rằng: Đừng có hưởng thụ, đối với những người chỉ biết du lịch mà không bao giờ biết thăm viếng; Đối với các bài mẹ, đối với giới trẻ đừng có hủy diệt sự sống, đừng có phá thai; Đối với những nhà kinh doanh, đừng có sống duy vật chất, còn phải có lương tâm nữa; Ngài cũng trả lời cho các nhà lãnh đạo rằng: Đừng có ủng hộ luật phá thai; Đừng có thử thách Thiên Chúa trong sự sống mà Ngài là tác giả. Nói tóm lại, ở mỗi một thời đại, ở mỗi một thành phần, ở mỗi một con người, Gioan sẽ có câu trả lời thích hợp. Điều quan trọng, người ta có đến với Gioan để hỏi rằng: “Chúng tôi phải làm gì?” không?.
Hôm nay, Giáo Hội vẫn đang tiếp tục thi hành sứ mạng mà Gioan là người đã được trao, đó là luôn luôn dọn đường cho Chúa Kitô và chỉ Chúa Kitô cho mọi người. Những người đã dọn đường sẵn sàng, những người đã thực hiện được đúng như lời Gioan chỉ dạy, thì sẽ đến một lúc chứng kiến Gioan chỉ vào con người đang đi qua - cũng như Giáo Hội ngày nay qua thừa tác vụ Linh mục - giơ cao Mình Thánh và lớn tiếng tuyên bố: “Đây Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Như vậy, Đấng mà Gioan loan báo là Đấng mà ngài đã so sánh bằng một hình ảnh thực tế rất đơn giản nhưng lại hết sức là rõ ràng, sâu sắc, rằng: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” (Lc 3,16). Những người Do Thái phải hiểu rằng, một con người mà họ đã từng có những kỳ vọng ba mươi năm nay mà bây giờ nói về “Đấng đến sau tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài” thì họ sẽ vui mừng biết bao được nhìn thấy sự cao trọng của Đấng Cứu Thế; họ sẽ sung sướng biết bao về quyền năng cũng như lòng thương xót mà Đấng đến sau Gioan sẽ thi thố trên họ. Mặc dầu vậy, giới Do Thái vẫn chia làm hai thành phần:
“Dân nghèo lao động khổ đau
Vui nghe lời Chúa kêu cầu Chúa thương
Bọn biệt phái và hàng trưởng tế
Cùng những người vai vế trong dân
Lòng đầy tham vọng phàm trần
Họ ghen ghét Chúa, chủ tâm giết người.”
(ĐHY Phaolô Phạm đình Tụng)
Thành phần thứ nhất: những người lao động khổ đau, những người mà Chúa cầu nguyện “Lạy Cha, con cảm tạ Cha đã giấu những người khôn ngoan thông thái, tỏ cho những người đơn sơ bé mọn” (Mt 11,25). Họ là những người đã đón nhận một cách hết sức thành tâm và họ đã được nhìn thấy ánh sáng;
Thành phần thứ hai: Thánh Gioan tông đồ đã viết ngay chương đầu trong Tin Mừng của ngài: “Ngài đến nhà gia nhân Ngài mà gia nhân Ngài không đón tiếp” (Ga 1,5). Ánh sáng đã đến trong bóng tối nhưng bóng tối không tiếp nhận ánh sáng. Bởi vì, bóng tối tiếp nhận ánh sáng nghĩa là bóng tối bị hủy diệt.
Như vậy, không phải thời đại của Gioan mà thời đại nào cũng vẫn tồn tại hai thành phần là những thành phần biết đón nhận và lắng nghe lời Chúa sinh hoa kết trái và những thành phần cố tình lẩn tránh hoặc chống đối.
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa là ánh sáng đã đến trong trần gian,
nhưng bóng tối vẫn còn đó
vì lẩn khuất,
vì cố tình lẩn tránh
hay cố tình bao trùm ánh sáng.
Chúa là ơn cứu độ
nhưng tội lỗi vẫn còn đó
vì tội lỗi không thể sống chung với thánh thiện.
Xin Chúa đừng để bóng tối,
ở trong lương tâm chúng con,
ở trong cõi lòng chúng con,
ở trong tâm hồn chúng con.
Xin Chúa đừng để cho tội lỗi trú ngụ lâu năm,
trú ngụ lâu tháng trong lòng chúng con.
Bí tích hòa giải, sự canh tân mỗi ngày
là những phương thế tình yêu Chúa trao ban cho chúng con
để cho chúng con mở rộng cửa lòng
đón nhận ánh sáng tình thương và ơn cứu độ của Chúa.
Mùa Vọng đã gần sát lễ Giáng Sinh,
ơn cứu độ – chúng con có thể nhìn thấy,
ơn cứu độ – chúng con có thể sờ thấy
và cầm lấy để mà ăn, để mà uống.
Xin đừng để ai trong chúng con đánh mất chính mình
nhưng cho chúng con đạt tới ơn cứu độ đời đời. Amen.
Phêrô Hồng Phúc
Linh mục
Linh mục là người của mọi người
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
11:19 13/12/2009
LINH MỤC LÀ NGƯỜI CỦA MỌI NGƯỜI
Trong một lớp GLHN, một bạn trẻ đặt câu hỏi thắc mắc tại sao cũng là một bậc sống, nhưng các linh mục có được ngày thụ phong tưng bừng và hoành tráng: nào là Giám Mục, đông đảo các linh mục đồng tế, nam nữ tu sĩ và nhiều giáo dân cùng tham dự; trong khi đối với những người sống đời hôn nhân, lễ cưới của họ không được như vậy. Ngay cả việc đồng tế cũng không được. Nếu họ hỏi quý ÔBACE như thế, ÔBACE trả lời ra sao ?
Con trả lời vui với các anh chị ấy rằng sở dĩ Giáo Hội cử hành Lễ Truyền Chức linh mục, cũng như Lễ Tạ Ơn long trọng như vậy là để dụ các bạn trẻ đi tu đó các anh anh chị ạ! Thế mà có mấy ai đi tu, có mấy ai chọn “con đường chẳng mấy ai đi” này đâu.
Tuy nhiên, thưa quý ÔBACE, nếu nghiêm túc mà trả lời thì việc tổ chức long trọng lễ truyền chức hay tạ ơn linh mục là có lí do của nó. Giáo Hội muốn đề cao thánh chức linh mục của Chúa Kitô. Hơn nữa long trọng đâu phải cho bản thân người tân linh mục đâu, mà chức linh mục là cho cộng đoàn và vì cộng đoàn. Một khi lãnh nhận chức thánh, thì linh mục đã là người của Chúa, người của Giáo Hội và là người của mọi người rồi. Đó cũng là những ý tưởng chính mà con muốn chia sẻ với cộng đoàn trong ngày Lễ Tạ Ơn hôm nay.
- Trước hết, linh mục là người của Chúa.
Một khi khước từ hạnh phúc của đời sống hôn nhân gia đình, kể cả niềm vui thú của tình yêu đôi lứa mà lẽ ra mình được hưởng, để rồi chấp nhận đời độc thân khiết tịnh vì Nước trời, người linh mục hoàn toàn thuộc trọn về Chúa cả tâm hồn, cả thân xác và cả con tim. Điều này hoàn toàn tự nguyện, tự nguyện dâng hiến cuộc đời cho Chúa với con tim không san sẻ. Thánh Phaolô đã bộc bạch với giáo đoàn Côrintô rằng: “Nhờ bậc độc thân khiết tịnh, các linh mục được thánh hiến cho Chúa Kitô với một lý do mới mẻ và tuyệt hảo, được dễ dàng kết hiệp với Người bằng một trái tim không chia sẻ” (1Cor 7, 32-34).
Khi công bố danh sách các thầy chính thức vào Đại Chủng Viện, thường thì có 3 điều làm cho các thầy ngạc nhiên: (1) Có những thầy, mình nghĩ chưa được vào ĐCV lại có tên trong danh sách. (2) Có những thầy, mình đoán chắc là được vào ĐCV, nhưng lại không thấy tên đâu cả. (3) Đây là điều nhạc nhiên lớn nhất: chính mình cũng có tên trong danh sách ấy. Điều đó cho thấy ơn gọi hoàn toàn đến từ Thiên Chúa và là hồng ân mà Thiên Chúa ban cách nhưng không, chứ không phải là do tài năng đức độ, công trạng (đẹp trai con nhà giàu học giỏi..). Chúa Giêsu đã hơn một lần quả quyết: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”. Chính Chúa chọn gọi nên đó cũng là lí do tại sao linh mục là người thuộc trọn về Chúa.
- Thứ đến, linh mục còn là người của Giáo hội.
Qua việc đặt tay, linh mục đã trở thành người của Giáo hội. Nói cách khác, kể từ ngày chịu chức, linh mục hoàn toàn là người của Giáo hội. Giáo Hội trở thành mẹ của các ngài. Các ngài sống là sống cho Giáo hội, làm việc là làm việc cho Giáo hội, ngay cả việc ăn cũng là ăn vì Giáo hội. Mọi thành công hay thất bại của các ngài cũng là thành công thất bại của Giáo hội. Mọi vui buồn của các ngài cũng là vui buồn của Giáo hội…. Và vì là người của Giáo hội, nên ta không lạ gì khi thấy các ngài được Giáo hội lo lắng chăm sóc từ A đến Z: từ nơi ăn chốn ở, đến bệnh tật, hưu dưỡng và cả việc tang chay khi đã qua đời.
- Sau nữa, linh mục còn là người của mọi người.
Khi được đứng vào hàng ngũ linh mục, các ngài trở nên họ hàng thiêng liêng rất gần gũi với dân Chúa khắp nơi. Đi đến đâu, người ta cũng gọi các ngài là cha, người cha thiêng liêng. Tắt một lời, linh mục là người của mọi người, chứ không phải của riêng ai, hay của riêng gia đình nào.
Chẳng thế trong ngày chịu chức linh mục của một người em trai, người chị gái khuyên: “Em cố gắng trong đời linh mục đừng bao giờ sờ ai và cũng đừng bao giờ để người khác sờ mình”. Có thể thoạt nghe, quý ÔBACE cho rằng lời khuyên ngớ ngẩn, nhưng đây là chuyện nghiêm túc mà người chị này đã chia sẻ với các thầy ở ĐCV. Xem ra vế đầu thì người em có thể cam kết với chị được; còn vế sau khó quá, chắc có lẽ người em không dám, vì vế sau mình đâu chủ động được. Người ta chủ động “tấn công” mình cách bất ngờ thì sao, có khi là bó tay.com, thậm chí là bó cả chân.com nữa. Xin được dẫn chứng: một cô gái vào toà giải tội, thổn thức:
- Thưa cha, con đau khổ lắm vì đã lỡ yêu một người.
- Cha chưa hiểu ý con lắm. Ý con nói là lỡ yêu một người đã có vợ con rồi ạ ?
- Không không thưa cha, anh ấy sống độc thân một mình.
- Hay là anh ta vũ phu, rượu chè cờ bạc ?
- Thưa cha không. Anh ta ta rất hiền lành, và không hề biết đến rượu chè cờ bạc gì hết.
- Hay là anh ta đang thất học ?
- Dạ không. Anh ta có học thức cao, lại đẹp trai phong độ nữa là khác.
- Ô la la, vậy là con vớ được vàng 4 số 9 rồi đấy con ạ !
- Nhưng mà,…nhưng mà thưa cha, bố mẹ con lại cấm con.
- Sao lại có chuyện cấm lạ đời như vậy. Bố mẹ con cấm tào lao rồi đó. Để cha gặp bố mẹ con, cha nói cho.
- Nhưng thưa cha, có một điều con cảm thấy khó nói lắm.
- Con cứ nói đi, không sao đâu. Ạ anh ta có ở gần đây không?
- Dạ anh ấy ở rất gần con, ngay trong giáo xứ này cha ạ.
- Vậy thì số con sướng quá rồi còn gì. Khỏi phải tốn kém việc đi lại, thời buổi xăng cọ lên giá. Thế anh ta là ai vậy con?
- Dạ… dạ, thưa cha… thưa cha, anh ấy là người đang giải tội cho con đấy ạ !
Người ta chủ động tấn công, linh mục chống đỡ vất vả lắm đấy. Không ai được phép sở hữu linh mục và linh mục cũng không được quyền chiếm hữu ai. Linh mục có quyền yêu hết mọi người, nhưng không được giữ lại riêng ai; được phép bắt tay mọi người nhưng không được phép giữ lại đôi tay của ai. Chiếm giữ ai hay giữ lại ai là có chuyện, chuyện to nữa là khác.
Trong một dịp giao lưu với các bà mẹ Công giáo Sài Gòn tại ĐCV thánh Giuse, một thầy đặt câu hỏi: “Nếu một ngày nào đó, Toà Thánh cho các linh mục lấy vợ, các bà mẹ có đồng ý và ủng hộ không ?” Tất cả đều đồng loạt nhao nhao phản đối. Có bà còn bộc bạch rằng: “Chúng con thương quý cha quý thầy vì quý cha quý thầy sống độc thân, không vợ không con. Còn nếu cha nào có vợ thì để cho vợ ổng thương, chúng con không thương đâu”.
Thế đó, thưa quý ÔBACE. Nếu sống được căn tính linh mục một cách rốt ráo, đừng sợ, đừng lo không được mọi người yêu mến. Người ta yêu mến linh mục vì các ngài là người của Chúa, của Giáo Hội và của mọi người.
Đáng thương thay, linh mục không còn là người của Chúa nữa mà là người của Satan, người của thần Mamon. Đáng tiếc thay linh mục không còn là người của Giáo Hội nữa, mà là người của một thể chế chính trị, hay một giáo phái nào đó. Và đáng buồn thay, linh mục không còn là người của mọi người nữa, mà là người của một quý bà, quý cô nào đó. Khi đó, các ngài đã đánh mất căn tính của mình rồi.
Xin quý ÔBACE tiếp tục cầu nguyện nhiều và thật nhiều cho các linh mục, vốn là những con người đầy yếu đuối và bất xứng trước thánh chức cao cả mà các ngài đã lãnh nhận, như cảm nghiệm của cha Grêgôriô Phan Thanh Quảng, đan viện Xitô Châu Thuỷ, nhân ngày mừng Kim Khánh Linh Mục:
Chức Linh mục, chức siêu phàm:
“Con là Thượng tế phẩm hàm Sê-đê”.
Chức Linh mục Chúa truyền cho.
Đựng trong bình gốm, con người mỏng manh.
Có lẽ cũng vì cảm nghiệm được sự yếu đuối và giới hạn của phận người, nên cha mới của chúng ta đây mới chọn khẩu hiệu cho đời linh mục của mình: “Không có Thầy các con không làm được việc gì”, không làm được việc gì cho ra hồn. Vậy xin quý ÔBACE hãy cầu cho các tân linh mục được luôn trung thành đi theo Chúa, nhiệt thành phụng sự Giáo Hội và chân thành phục vụ mọi người trong tình yêu thương.
Thỉnh thoảng, chúng con vẫn được nghe đó đây rằng: “Ông cha nọ, ông cha kia khi còn làm thầy thì dễ thương ơi là dể thương, nhưng khi làm cha rồi thì sao mà khó ưa vô cùng! Thấy mà ghét…”. Cha mới của chúng ta đây, khi đang làm thầy đi giúp xứ, đâu đâu cũng được tiếng là dễ thương. Vậy chúng ta hãy cầu chúc cho ngài luôn giữ được tiếng thơm đó mãi. Dễ thương không chỉ đối với Chúa, đối với Giáo hội, mà còn đối với tất cả mọi người. Amen.
(Bài giảng Lễ Tạ Ơn Tân linh mục Phêrô Vũ Nhật Trí, tại giáo xứ Thuận Nghĩa, Giáo phận Phan Thiết)
Trong một lớp GLHN, một bạn trẻ đặt câu hỏi thắc mắc tại sao cũng là một bậc sống, nhưng các linh mục có được ngày thụ phong tưng bừng và hoành tráng: nào là Giám Mục, đông đảo các linh mục đồng tế, nam nữ tu sĩ và nhiều giáo dân cùng tham dự; trong khi đối với những người sống đời hôn nhân, lễ cưới của họ không được như vậy. Ngay cả việc đồng tế cũng không được. Nếu họ hỏi quý ÔBACE như thế, ÔBACE trả lời ra sao ?
Con trả lời vui với các anh chị ấy rằng sở dĩ Giáo Hội cử hành Lễ Truyền Chức linh mục, cũng như Lễ Tạ Ơn long trọng như vậy là để dụ các bạn trẻ đi tu đó các anh anh chị ạ! Thế mà có mấy ai đi tu, có mấy ai chọn “con đường chẳng mấy ai đi” này đâu.
Tuy nhiên, thưa quý ÔBACE, nếu nghiêm túc mà trả lời thì việc tổ chức long trọng lễ truyền chức hay tạ ơn linh mục là có lí do của nó. Giáo Hội muốn đề cao thánh chức linh mục của Chúa Kitô. Hơn nữa long trọng đâu phải cho bản thân người tân linh mục đâu, mà chức linh mục là cho cộng đoàn và vì cộng đoàn. Một khi lãnh nhận chức thánh, thì linh mục đã là người của Chúa, người của Giáo Hội và là người của mọi người rồi. Đó cũng là những ý tưởng chính mà con muốn chia sẻ với cộng đoàn trong ngày Lễ Tạ Ơn hôm nay.
- Trước hết, linh mục là người của Chúa.
Một khi khước từ hạnh phúc của đời sống hôn nhân gia đình, kể cả niềm vui thú của tình yêu đôi lứa mà lẽ ra mình được hưởng, để rồi chấp nhận đời độc thân khiết tịnh vì Nước trời, người linh mục hoàn toàn thuộc trọn về Chúa cả tâm hồn, cả thân xác và cả con tim. Điều này hoàn toàn tự nguyện, tự nguyện dâng hiến cuộc đời cho Chúa với con tim không san sẻ. Thánh Phaolô đã bộc bạch với giáo đoàn Côrintô rằng: “Nhờ bậc độc thân khiết tịnh, các linh mục được thánh hiến cho Chúa Kitô với một lý do mới mẻ và tuyệt hảo, được dễ dàng kết hiệp với Người bằng một trái tim không chia sẻ” (1Cor 7, 32-34).
Khi công bố danh sách các thầy chính thức vào Đại Chủng Viện, thường thì có 3 điều làm cho các thầy ngạc nhiên: (1) Có những thầy, mình nghĩ chưa được vào ĐCV lại có tên trong danh sách. (2) Có những thầy, mình đoán chắc là được vào ĐCV, nhưng lại không thấy tên đâu cả. (3) Đây là điều nhạc nhiên lớn nhất: chính mình cũng có tên trong danh sách ấy. Điều đó cho thấy ơn gọi hoàn toàn đến từ Thiên Chúa và là hồng ân mà Thiên Chúa ban cách nhưng không, chứ không phải là do tài năng đức độ, công trạng (đẹp trai con nhà giàu học giỏi..). Chúa Giêsu đã hơn một lần quả quyết: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”. Chính Chúa chọn gọi nên đó cũng là lí do tại sao linh mục là người thuộc trọn về Chúa.
- Thứ đến, linh mục còn là người của Giáo hội.
Qua việc đặt tay, linh mục đã trở thành người của Giáo hội. Nói cách khác, kể từ ngày chịu chức, linh mục hoàn toàn là người của Giáo hội. Giáo Hội trở thành mẹ của các ngài. Các ngài sống là sống cho Giáo hội, làm việc là làm việc cho Giáo hội, ngay cả việc ăn cũng là ăn vì Giáo hội. Mọi thành công hay thất bại của các ngài cũng là thành công thất bại của Giáo hội. Mọi vui buồn của các ngài cũng là vui buồn của Giáo hội…. Và vì là người của Giáo hội, nên ta không lạ gì khi thấy các ngài được Giáo hội lo lắng chăm sóc từ A đến Z: từ nơi ăn chốn ở, đến bệnh tật, hưu dưỡng và cả việc tang chay khi đã qua đời.
- Sau nữa, linh mục còn là người của mọi người.
Khi được đứng vào hàng ngũ linh mục, các ngài trở nên họ hàng thiêng liêng rất gần gũi với dân Chúa khắp nơi. Đi đến đâu, người ta cũng gọi các ngài là cha, người cha thiêng liêng. Tắt một lời, linh mục là người của mọi người, chứ không phải của riêng ai, hay của riêng gia đình nào.
Chẳng thế trong ngày chịu chức linh mục của một người em trai, người chị gái khuyên: “Em cố gắng trong đời linh mục đừng bao giờ sờ ai và cũng đừng bao giờ để người khác sờ mình”. Có thể thoạt nghe, quý ÔBACE cho rằng lời khuyên ngớ ngẩn, nhưng đây là chuyện nghiêm túc mà người chị này đã chia sẻ với các thầy ở ĐCV. Xem ra vế đầu thì người em có thể cam kết với chị được; còn vế sau khó quá, chắc có lẽ người em không dám, vì vế sau mình đâu chủ động được. Người ta chủ động “tấn công” mình cách bất ngờ thì sao, có khi là bó tay.com, thậm chí là bó cả chân.com nữa. Xin được dẫn chứng: một cô gái vào toà giải tội, thổn thức:
- Thưa cha, con đau khổ lắm vì đã lỡ yêu một người.
- Cha chưa hiểu ý con lắm. Ý con nói là lỡ yêu một người đã có vợ con rồi ạ ?
- Không không thưa cha, anh ấy sống độc thân một mình.
- Hay là anh ta vũ phu, rượu chè cờ bạc ?
- Thưa cha không. Anh ta ta rất hiền lành, và không hề biết đến rượu chè cờ bạc gì hết.
- Hay là anh ta đang thất học ?
- Dạ không. Anh ta có học thức cao, lại đẹp trai phong độ nữa là khác.
- Ô la la, vậy là con vớ được vàng 4 số 9 rồi đấy con ạ !
- Nhưng mà,…nhưng mà thưa cha, bố mẹ con lại cấm con.
- Sao lại có chuyện cấm lạ đời như vậy. Bố mẹ con cấm tào lao rồi đó. Để cha gặp bố mẹ con, cha nói cho.
- Nhưng thưa cha, có một điều con cảm thấy khó nói lắm.
- Con cứ nói đi, không sao đâu. Ạ anh ta có ở gần đây không?
- Dạ anh ấy ở rất gần con, ngay trong giáo xứ này cha ạ.
- Vậy thì số con sướng quá rồi còn gì. Khỏi phải tốn kém việc đi lại, thời buổi xăng cọ lên giá. Thế anh ta là ai vậy con?
- Dạ… dạ, thưa cha… thưa cha, anh ấy là người đang giải tội cho con đấy ạ !
Người ta chủ động tấn công, linh mục chống đỡ vất vả lắm đấy. Không ai được phép sở hữu linh mục và linh mục cũng không được quyền chiếm hữu ai. Linh mục có quyền yêu hết mọi người, nhưng không được giữ lại riêng ai; được phép bắt tay mọi người nhưng không được phép giữ lại đôi tay của ai. Chiếm giữ ai hay giữ lại ai là có chuyện, chuyện to nữa là khác.
Trong một dịp giao lưu với các bà mẹ Công giáo Sài Gòn tại ĐCV thánh Giuse, một thầy đặt câu hỏi: “Nếu một ngày nào đó, Toà Thánh cho các linh mục lấy vợ, các bà mẹ có đồng ý và ủng hộ không ?” Tất cả đều đồng loạt nhao nhao phản đối. Có bà còn bộc bạch rằng: “Chúng con thương quý cha quý thầy vì quý cha quý thầy sống độc thân, không vợ không con. Còn nếu cha nào có vợ thì để cho vợ ổng thương, chúng con không thương đâu”.
Thế đó, thưa quý ÔBACE. Nếu sống được căn tính linh mục một cách rốt ráo, đừng sợ, đừng lo không được mọi người yêu mến. Người ta yêu mến linh mục vì các ngài là người của Chúa, của Giáo Hội và của mọi người.
Đáng thương thay, linh mục không còn là người của Chúa nữa mà là người của Satan, người của thần Mamon. Đáng tiếc thay linh mục không còn là người của Giáo Hội nữa, mà là người của một thể chế chính trị, hay một giáo phái nào đó. Và đáng buồn thay, linh mục không còn là người của mọi người nữa, mà là người của một quý bà, quý cô nào đó. Khi đó, các ngài đã đánh mất căn tính của mình rồi.
Xin quý ÔBACE tiếp tục cầu nguyện nhiều và thật nhiều cho các linh mục, vốn là những con người đầy yếu đuối và bất xứng trước thánh chức cao cả mà các ngài đã lãnh nhận, như cảm nghiệm của cha Grêgôriô Phan Thanh Quảng, đan viện Xitô Châu Thuỷ, nhân ngày mừng Kim Khánh Linh Mục:
Chức Linh mục, chức siêu phàm:
“Con là Thượng tế phẩm hàm Sê-đê”.
Chức Linh mục Chúa truyền cho.
Đựng trong bình gốm, con người mỏng manh.
Có lẽ cũng vì cảm nghiệm được sự yếu đuối và giới hạn của phận người, nên cha mới của chúng ta đây mới chọn khẩu hiệu cho đời linh mục của mình: “Không có Thầy các con không làm được việc gì”, không làm được việc gì cho ra hồn. Vậy xin quý ÔBACE hãy cầu cho các tân linh mục được luôn trung thành đi theo Chúa, nhiệt thành phụng sự Giáo Hội và chân thành phục vụ mọi người trong tình yêu thương.
Thỉnh thoảng, chúng con vẫn được nghe đó đây rằng: “Ông cha nọ, ông cha kia khi còn làm thầy thì dễ thương ơi là dể thương, nhưng khi làm cha rồi thì sao mà khó ưa vô cùng! Thấy mà ghét…”. Cha mới của chúng ta đây, khi đang làm thầy đi giúp xứ, đâu đâu cũng được tiếng là dễ thương. Vậy chúng ta hãy cầu chúc cho ngài luôn giữ được tiếng thơm đó mãi. Dễ thương không chỉ đối với Chúa, đối với Giáo hội, mà còn đối với tất cả mọi người. Amen.
(Bài giảng Lễ Tạ Ơn Tân linh mục Phêrô Vũ Nhật Trí, tại giáo xứ Thuận Nghĩa, Giáo phận Phan Thiết)
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Hang đá là trường học sống động, nơi học bí quyết của niềm vui đích thực
Nguyễn Hoàng Thương
18:00 13/12/2009
Hang đá là trường học sống động, nơi học bí quyết của niềm vui đích thực
Vatican (AsiaNews) – Cảnh Giáng Sinh, vở kịch tái hiện sự ra đời của Chúa Giêsu không chỉ là sự lặp lại một cử chỉ truyền thống, nhưng là "một trường học sống động, nơi mà chúng ta có thể học bí quyết của niềm vui đích thực", vốn "không bao gồm nhiều của cải": đây là sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI gửi đến hàng ngàn người hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô trong buổi đọc Kinh Truyền Tin Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng. Trong số các tín hữu, có ít nhất 2.000 trẻ em đã mang tượng Chúa Giêsu Hài Đồng đến để được Đức Thánh Cha ban phép lành, trước khi chúng mang về đặt trong máng cỏ trong đêm Canh Thức Giáng Sinh.
Đức Thánh Cha đã trực tiếp nói với các trẻ nhỏ: "Cha thấy nơi Quảng trường Thánh Phêrô này thật nhiều trẻ em và thiếu niên, cùng với các bậc cha mẹ, giáo viên và giáo lý viên. Các bạn thân mến, cha chào thân ái tất cả các bạn và cảm ơn các bạn đã đến đây. Cha rất đỗi vui mừng khi biết rằng truyền thống cảnh Giáng sinh vẫn còn giữ gìn trong gia đình các bạn. Lặp lại một cử chỉ truyền thống, tuy rằng thật quan trọng nhưng vẫn chưa đủ. Hãy cố gắng sống thực tại mỗi ngày những gì được tượng trưng nơi hang đá, tình yêu của Chúa Kitô, sự khiêm hạ, đức khó nghèo của Ngài. Đây là những gì Thánh Phanxicô đã thực hiện ở Greccio: ngài đã tạo ra một quang cảnh Giáng Sinh sống động, để có thể chiêm ngưỡng và thờ lạy, nhưng trên hết là biết cách đưa ra thực hành tốt nhất sứ điệp của Con Thiên Chúa, Đấng vì ơn ích cho chúng ta đã trút bỏ mọi thứ để trở thành hài nhi bé nhỏ".
Trong nhiều năm ở Ý, hang đá đã trở thành trung tâm của nhiều tranh cãi, tương tự như cuộc tranh luận gần đây quanh việc treo thập giá chốn công cộng. Trong quá khứ, hang đá đã được đặt ở những nơi công cộng: trường học, trạm xe, cửa hàng. Nhưng những chỉ trích cá nhân trần tục khác nhau cho rằng quang cảnh Giáng Sinh là một cuộc tấn công vào quyền tự do tôn giáo của người khác và vì vậy, họ không thích trưng bày nó, nhất là trong trường học.
Đức Thánh Cha đã không đề cập đến cuộc tranh cãi này, thay vào đó ngài nhấn mạnh đền giá trị truyền thống bình dị này: "hang đá là một trường học sống động, nơi mà chúng ta có thể học bí quyết của niềm vui đích thực. Điều này không nằm ở chỗ có nhiều của cải, nhưng nằm ở chỗ cảm xúc được Chúa yêu thương, trong việc trở nên quà tặng cho tha nhân và yêu thương nhau. Chúng ta hãy nhìn vào cảnh Giáng Sinh: Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse dường như không giống một gia đình rất may mắn, họ đã có con đầu lòng của mình giữa muôn vàn khó khăn, nhưng tràn ngập niềm vui, vì họ yêu thương nhau, giúp đỡ lẫn nhau, và trên hết chắc chắn rằng Thiên Chúa tác động trong đời họ, hiện diện trong Chúa Giêsu Hài Đồng. Và các mục đồng thì sao? Lý do gì khiến họ phải hân hoan. Hài Nhi đó sẽ không thay đổi hoàn cảnh nghèo hèn và bị loại bỏ của họ. Tuy nhiên, đức tin giúp họ nhận ra 'trẻ sơ sinh được bọc trong tả, nằm trong máng cỏ', 'dấu hiệu' của việc hoàn tất lời hứa của Thiên Chúa dành cho tất cả loài người 'Chúa thương' (Lu 2,12.14), kể cả họ!".
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI kết luận: "Các bạn thân mến, đây chính là những gì thuộc về niềm vui đích thực; cảm xúc mà cá nhân chúng ta và cộng đoàn chúng ta đang sống là được viếng thăm và được tràn đầy bởi một mầu nhiệm cao cả, mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa. Để vui mừng, ngoài của cải, điều chúng ta cần nhiều hơn là tình yêu và sự thật: chúng ta cần một Thiên Chúa gần gũi, sưởi ấm lòng chúng ta, và đáp ứng những khao khát sâu thẳm nơi chúng ta. Vị Thiên Chúa này đã tỏ lộ nơi Chúa Giêsu, được sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria. Vì vậy mà Hài Nhi mà chúng ta đặt trong máng cỏ, là trung tâm của tất cả mọi thứ, Ngài là trung tâm của thế giới. Chúng ta hãy cầu nguyện để mỗi con người, giống như Đức Trinh Nữ Maria, biết đón nhận Thiên Chúa Đấng trở thành Hài Nhi, nguồn mạch niềm vui đích thực, vào trung tâm của đời mình".
Sau khi đọc kinh cầu nguyện Đức Maria, trong lời chào mừng, Đức Thánh Cha đã nhắc lại cái chết của 4 vị truyền giáo bị sát hại mới đây ở Phi Châu: Cha Daniel Cizimya (bị sát hại tại Cộng hòa Dân Chủ Congo), Cha Louis Blondel (Nam Phi), Cha Gerry Roche (Kenya), Nữ tu Denise Kahambu (Cộng hòa Dân Chủ Congo). Đức Thánh Cha nói rằng "Họ là những chứng nhân trung tín cho Tin Mừng, những người có thể công bố với lòng quả cảm, thậm chí mạo hiểm đời sống mình. Trong khi tôi thể hiện sự gần gũi của tôi đến các gia đình và cộng đoàn của những người đang đau đớn, tôi mời mọi người hiệp cùng tôi trong lời cầu nguyện rằng Chúa sẽ chấp nhận họ trong nhà Ngài, để an ủi những người chịu mất mát tang thương và mang lại hòa bình và hòa giải của Ngài".
Vatican (AsiaNews) – Cảnh Giáng Sinh, vở kịch tái hiện sự ra đời của Chúa Giêsu không chỉ là sự lặp lại một cử chỉ truyền thống, nhưng là "một trường học sống động, nơi mà chúng ta có thể học bí quyết của niềm vui đích thực", vốn "không bao gồm nhiều của cải": đây là sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI gửi đến hàng ngàn người hành hương tại Quảng trường Thánh Phêrô trong buổi đọc Kinh Truyền Tin Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng. Trong số các tín hữu, có ít nhất 2.000 trẻ em đã mang tượng Chúa Giêsu Hài Đồng đến để được Đức Thánh Cha ban phép lành, trước khi chúng mang về đặt trong máng cỏ trong đêm Canh Thức Giáng Sinh.
Đức Thánh Cha đã trực tiếp nói với các trẻ nhỏ: "Cha thấy nơi Quảng trường Thánh Phêrô này thật nhiều trẻ em và thiếu niên, cùng với các bậc cha mẹ, giáo viên và giáo lý viên. Các bạn thân mến, cha chào thân ái tất cả các bạn và cảm ơn các bạn đã đến đây. Cha rất đỗi vui mừng khi biết rằng truyền thống cảnh Giáng sinh vẫn còn giữ gìn trong gia đình các bạn. Lặp lại một cử chỉ truyền thống, tuy rằng thật quan trọng nhưng vẫn chưa đủ. Hãy cố gắng sống thực tại mỗi ngày những gì được tượng trưng nơi hang đá, tình yêu của Chúa Kitô, sự khiêm hạ, đức khó nghèo của Ngài. Đây là những gì Thánh Phanxicô đã thực hiện ở Greccio: ngài đã tạo ra một quang cảnh Giáng Sinh sống động, để có thể chiêm ngưỡng và thờ lạy, nhưng trên hết là biết cách đưa ra thực hành tốt nhất sứ điệp của Con Thiên Chúa, Đấng vì ơn ích cho chúng ta đã trút bỏ mọi thứ để trở thành hài nhi bé nhỏ".
Trong nhiều năm ở Ý, hang đá đã trở thành trung tâm của nhiều tranh cãi, tương tự như cuộc tranh luận gần đây quanh việc treo thập giá chốn công cộng. Trong quá khứ, hang đá đã được đặt ở những nơi công cộng: trường học, trạm xe, cửa hàng. Nhưng những chỉ trích cá nhân trần tục khác nhau cho rằng quang cảnh Giáng Sinh là một cuộc tấn công vào quyền tự do tôn giáo của người khác và vì vậy, họ không thích trưng bày nó, nhất là trong trường học.
Đức Thánh Cha đã không đề cập đến cuộc tranh cãi này, thay vào đó ngài nhấn mạnh đền giá trị truyền thống bình dị này: "hang đá là một trường học sống động, nơi mà chúng ta có thể học bí quyết của niềm vui đích thực. Điều này không nằm ở chỗ có nhiều của cải, nhưng nằm ở chỗ cảm xúc được Chúa yêu thương, trong việc trở nên quà tặng cho tha nhân và yêu thương nhau. Chúng ta hãy nhìn vào cảnh Giáng Sinh: Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse dường như không giống một gia đình rất may mắn, họ đã có con đầu lòng của mình giữa muôn vàn khó khăn, nhưng tràn ngập niềm vui, vì họ yêu thương nhau, giúp đỡ lẫn nhau, và trên hết chắc chắn rằng Thiên Chúa tác động trong đời họ, hiện diện trong Chúa Giêsu Hài Đồng. Và các mục đồng thì sao? Lý do gì khiến họ phải hân hoan. Hài Nhi đó sẽ không thay đổi hoàn cảnh nghèo hèn và bị loại bỏ của họ. Tuy nhiên, đức tin giúp họ nhận ra 'trẻ sơ sinh được bọc trong tả, nằm trong máng cỏ', 'dấu hiệu' của việc hoàn tất lời hứa của Thiên Chúa dành cho tất cả loài người 'Chúa thương' (Lu 2,12.14), kể cả họ!".
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI kết luận: "Các bạn thân mến, đây chính là những gì thuộc về niềm vui đích thực; cảm xúc mà cá nhân chúng ta và cộng đoàn chúng ta đang sống là được viếng thăm và được tràn đầy bởi một mầu nhiệm cao cả, mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa. Để vui mừng, ngoài của cải, điều chúng ta cần nhiều hơn là tình yêu và sự thật: chúng ta cần một Thiên Chúa gần gũi, sưởi ấm lòng chúng ta, và đáp ứng những khao khát sâu thẳm nơi chúng ta. Vị Thiên Chúa này đã tỏ lộ nơi Chúa Giêsu, được sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria. Vì vậy mà Hài Nhi mà chúng ta đặt trong máng cỏ, là trung tâm của tất cả mọi thứ, Ngài là trung tâm của thế giới. Chúng ta hãy cầu nguyện để mỗi con người, giống như Đức Trinh Nữ Maria, biết đón nhận Thiên Chúa Đấng trở thành Hài Nhi, nguồn mạch niềm vui đích thực, vào trung tâm của đời mình".
Sau khi đọc kinh cầu nguyện Đức Maria, trong lời chào mừng, Đức Thánh Cha đã nhắc lại cái chết của 4 vị truyền giáo bị sát hại mới đây ở Phi Châu: Cha Daniel Cizimya (bị sát hại tại Cộng hòa Dân Chủ Congo), Cha Louis Blondel (Nam Phi), Cha Gerry Roche (Kenya), Nữ tu Denise Kahambu (Cộng hòa Dân Chủ Congo). Đức Thánh Cha nói rằng "Họ là những chứng nhân trung tín cho Tin Mừng, những người có thể công bố với lòng quả cảm, thậm chí mạo hiểm đời sống mình. Trong khi tôi thể hiện sự gần gũi của tôi đến các gia đình và cộng đoàn của những người đang đau đớn, tôi mời mọi người hiệp cùng tôi trong lời cầu nguyện rằng Chúa sẽ chấp nhận họ trong nhà Ngài, để an ủi những người chịu mất mát tang thương và mang lại hòa bình và hòa giải của Ngài".
Đức Thánh Cha khóc thương 4 nhà truyền giáo tại Phi Châu bị thảm sát
Bùi Hữu Thư
19:34 13/12/2009
Ngài đề cao các nhân chứng Phúc Âm trung thành
VATICAN, ngày 13 tháng 12, 2009 (Zenit.org).- Đức Thánh Cha Benedict XVI bầy tỏ lòng thương cảm về việc thảm sát 4 nhà truyền giáo tại Phi Châu tuần này.
Trong diễn từ đọc trước kinh Truyền Tin trưa nay, ngài nói, “Trong tuần lễ này tôi nhận được tin buồn từ một vài quốc gia tại Phi Châu về sự thảm sát bốn nhà truyền giáo: các linh mục: cha Daniel Cizimya, cha Louis Blondel và cha Jerry Roche, và nữ tu Denise Kahambu."
Cha Daniel Cizimya Nakamaga, 51 tuổi, bị bắn vào đầu ngày 6 tháng 12 khi quân vũ trang tấn công tư gia của ngài tại Kabare, gần Bukavu, Congo. Hai ngày sau khi linh mục này bị ám sát, nữ tu Denise Kahambu cũng bị giết trong cùng một thị trấn, trong một cuộc tấn công khác vào tu viện Dòng Xitô.
Linh mục Pháp, cha Louis Blondel, 70 tuổi, thuộc Dòng các Thừa Sai Phi Châu bị bắn tại nhà xứ của ngài tại Diepsloot, Nam Phi, cũng vào ngày 6 tháng 12.
Linh mục Ái Nhĩ Lan, cha Jeremiah Roche, 68 tuổi, bị giết đêm thứ sáu tuần qua tại tư gia của ngài ở Kericho, Kenya.
Đức Thánh Cha nói, “Họ là những nhân chứng trung thành của Phúc Âm, mà họ biết cách rao giảng, dù cho có thể nguy hiểm đến mạng sống.”
Ngài bầy tỏ “lòng thương cảm của ngài đối với các gia đình nạn nhân và cộng đoàn của họ đang đau buồn,” và ngài mời gọi tất cả mọi người “kết hiệp với ngài trong lời cầu nguyện để xin Thiên Chúa đón họ vào nhà Người, và an ủi những ai đang khóc thương họ và đem đến cho họ sự hòa giải và bình an khi Người lại đến.”
VATICAN, ngày 13 tháng 12, 2009 (Zenit.org).- Đức Thánh Cha Benedict XVI bầy tỏ lòng thương cảm về việc thảm sát 4 nhà truyền giáo tại Phi Châu tuần này.
Trong diễn từ đọc trước kinh Truyền Tin trưa nay, ngài nói, “Trong tuần lễ này tôi nhận được tin buồn từ một vài quốc gia tại Phi Châu về sự thảm sát bốn nhà truyền giáo: các linh mục: cha Daniel Cizimya, cha Louis Blondel và cha Jerry Roche, và nữ tu Denise Kahambu."
Cha Daniel Cizimya Nakamaga, 51 tuổi, bị bắn vào đầu ngày 6 tháng 12 khi quân vũ trang tấn công tư gia của ngài tại Kabare, gần Bukavu, Congo. Hai ngày sau khi linh mục này bị ám sát, nữ tu Denise Kahambu cũng bị giết trong cùng một thị trấn, trong một cuộc tấn công khác vào tu viện Dòng Xitô.
Linh mục Pháp, cha Louis Blondel, 70 tuổi, thuộc Dòng các Thừa Sai Phi Châu bị bắn tại nhà xứ của ngài tại Diepsloot, Nam Phi, cũng vào ngày 6 tháng 12.
Linh mục Ái Nhĩ Lan, cha Jeremiah Roche, 68 tuổi, bị giết đêm thứ sáu tuần qua tại tư gia của ngài ở Kericho, Kenya.
Đức Thánh Cha nói, “Họ là những nhân chứng trung thành của Phúc Âm, mà họ biết cách rao giảng, dù cho có thể nguy hiểm đến mạng sống.”
Ngài bầy tỏ “lòng thương cảm của ngài đối với các gia đình nạn nhân và cộng đoàn của họ đang đau buồn,” và ngài mời gọi tất cả mọi người “kết hiệp với ngài trong lời cầu nguyện để xin Thiên Chúa đón họ vào nhà Người, và an ủi những ai đang khóc thương họ và đem đến cho họ sự hòa giải và bình an khi Người lại đến.”
Mời gọi chuẩn bị Năm Thánh 2010 tại Santiego de Compostela
Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
11:25 13/12/2009
ROMA, Thứ Sáu 11/12/2009 (zenit.org)- Đức Cha Julián Barrio, Tổng Giám Mục giáo phận Santiego de Compostela, Tây Ban Nha, đã gửi thư mục vụ cho các linh mục, tu sỹ nam nữ và giáo dân trong giáo phận nhằm chuẩn bị cho việc cử hành Năm Thánh vào năm 2010.
Đức Tổng Giám mục nhắc nhớ rằng đây là Năm Thánh thứ hai của ngàn năm thứ ba. Ngài cũng cho biết Năm Thánh tiếp theo sẽ được tổ chức vào năm 2021.
Trong lá thư có đoạn viết: « Giáo phận cần đón nhận sự kiện hồng phúc này trong niềm vui và trong hân hoan để cho cách thức sống đạo của chúng do tình trạng lạnh nhạt so với các giá trị tôn giáo có thể lấy lại được sức sống động ».
Vị Tổng Giám Mục này cũng khuyến khích giáo dân chuẩn bị tâm hồn để cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho cơ hội giúp đón nhận những hồng ân của Năm Thánh.
Trong ý nghĩa đó, ngài đề nghị giáo dân trong toàn giáo phận là vào thứ sáu ngày 18 tháng 12 tới đây của tuần thứ 3 Mùa Vọng hoặc là ăn chay để đào sâu đời sống thiêng liêng, hoặc là mỗi gia đình trong ngày đó có một nghĩa cử hào hiệp tùy theo khả năng của mình đóng góp cho quỹ bác ái của giáo phận « để ủy ban này có thể chăm sóc nhu cầu cần thiết cho những người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội ».
Tổng giám mục Barrio cũng đề nghị là vào ngày 30 tháng 12, buổi tối hôm canh thức mở cánh cửa Năm Thánh được tổ chức tại nhà thờ chính tòa, thì tất cả tại nhà thờ của các giáo xứ hay nhà nguyện của các cộng đoàn dòng tu vào hôm đó hoặc dịp nào gần nhất sẽ cử hành một giờ chầu Thánh Thể trong thời điểm xét thấy thuận tiện.
« Chúng ta thường hay thiếu thốn những từ ngữ để diễn tả sự phong phú của tâm tư tình cảm, Đức Tổng Giám mục khẳng định, và thay vào đó những dấu chỉ, hành vi hay biểu tượng sẽ giúp chúng ta thực hiện những điều mà lời nói không có khả năng biểu đạt. Những dấu chỉ đó hướng cái nhìn của chúng ta về Năm Thánh tại trung tâm hành hương thánh Giacôbê Tông Đồ.
Vị Tổng Giám mục kết thúc lá thư mục vụ bằng lời kêu gọi các tín hữu hãy « truyền đi bức thông điệp nêu trên, tham gia các buổi cử hành phụng tự khác nhau của đời sống Kitô hữu, và thực hành bác ái bằng những phương cách thật đa dạng để giống như vị Tông Đồ Giacôbê trở nên bạn hữu và những chứng nhân của Thầy Chí Ái ».
![]() |
Trong lá thư có đoạn viết: « Giáo phận cần đón nhận sự kiện hồng phúc này trong niềm vui và trong hân hoan để cho cách thức sống đạo của chúng do tình trạng lạnh nhạt so với các giá trị tôn giáo có thể lấy lại được sức sống động ».
Vị Tổng Giám Mục này cũng khuyến khích giáo dân chuẩn bị tâm hồn để cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho cơ hội giúp đón nhận những hồng ân của Năm Thánh.
Trong ý nghĩa đó, ngài đề nghị giáo dân trong toàn giáo phận là vào thứ sáu ngày 18 tháng 12 tới đây của tuần thứ 3 Mùa Vọng hoặc là ăn chay để đào sâu đời sống thiêng liêng, hoặc là mỗi gia đình trong ngày đó có một nghĩa cử hào hiệp tùy theo khả năng của mình đóng góp cho quỹ bác ái của giáo phận « để ủy ban này có thể chăm sóc nhu cầu cần thiết cho những người nghèo và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội ».
Tổng giám mục Barrio cũng đề nghị là vào ngày 30 tháng 12, buổi tối hôm canh thức mở cánh cửa Năm Thánh được tổ chức tại nhà thờ chính tòa, thì tất cả tại nhà thờ của các giáo xứ hay nhà nguyện của các cộng đoàn dòng tu vào hôm đó hoặc dịp nào gần nhất sẽ cử hành một giờ chầu Thánh Thể trong thời điểm xét thấy thuận tiện.
« Chúng ta thường hay thiếu thốn những từ ngữ để diễn tả sự phong phú của tâm tư tình cảm, Đức Tổng Giám mục khẳng định, và thay vào đó những dấu chỉ, hành vi hay biểu tượng sẽ giúp chúng ta thực hiện những điều mà lời nói không có khả năng biểu đạt. Những dấu chỉ đó hướng cái nhìn của chúng ta về Năm Thánh tại trung tâm hành hương thánh Giacôbê Tông Đồ.
Vị Tổng Giám mục kết thúc lá thư mục vụ bằng lời kêu gọi các tín hữu hãy « truyền đi bức thông điệp nêu trên, tham gia các buổi cử hành phụng tự khác nhau của đời sống Kitô hữu, và thực hành bác ái bằng những phương cách thật đa dạng để giống như vị Tông Đồ Giacôbê trở nên bạn hữu và những chứng nhân của Thầy Chí Ái ».
ĐTC Benedictô XVI với Kinh Truyền tin chúa nhựt III Mùa Vọng - Bí quyết niềm vui
Bình Hòa
12:06 13/12/2009
Chúa nhựt thứ ba mùa Vọng được đặt tên là “Gaudete” (hãy vui lên), trích từ chữ đầu tiên của bài ca nhập lễ trong tiếng latinh: “Gaudete in Domino: Anh em hãy vui lên trong Chúa, tôi nhắc lại một lần nữa anh em hãy vui lên, bởi vì Chúa đã đến gần”. Đề tài niềm vui rất thích hợp bởi vì chúng ta đã trải qua được hơn một nửa hành trình của mùa Vọng rồi và đã gần đến lễ Giáng sinh. Năm nào, đức thánh cha cũng bình giảng một ý tưởng của niềm vui Kitô giáo trong bài huấn dụ trước khi đọc kinh Truyền tin. Năm nay, bài suy niệm gợi hứng từ tượng Chúa hài đồng mà các em bé mang đến quảng trường để được chúc phúc trước khi đặt vào hang đá trong gia đình. Cùng đi với các em là phụ huynh, các thầy cô, giáo lý viên, và một đoàn kiệu với y phục cổ truyền diễn lại cảnh Chúa sinh ra. Hang đá Bêlem cho chúng ta một bài học về nguồn vui Kitô giáo. Niềm vui đích thực không nằm ở chỗ chiếm hữu nhiều tài sản, nhưng ở chỗ cảm nhận tình yêu và chia sẻ tình yêu. Sau đây là nguyên văn bài huấn dụ.
Anh chị em thân mến
Chúng ta đã đến chúa nhựt thứ ba Mùa Vọng rồi. Hôm nay phụng vụ vang vọng lên lời mời của thánh Phaolô: “Anh em hãy vui lên trong Chúa, tôi xin lặp lại: hãy vui lên, … Chúa đã gần kề” (Pl 4,4-5). Khi dẫn dắt chúng ta đến lễ Giáng sinh, Mẹ Hội thánh giúp chúng ta khám phá ý nghĩa và thưởng thức niềm vui Kitô giáo, khác hẳn với vui thú trần gian. Vào chúa nhựt hôm nay, dựa theo một truyền thống tốt đẹp, các thiếu nhi Rôma mang tượng Chúa hài đồng đến để Đức Thánh Cha chúc lành. Tượng này sẽ được đặt trong hang đá gia đình. Tôi thấy ở quảng trường thánh Phêrô rất nhiều thiếu nhi nam nữ cùng đi với cha mẹ, thầy cô và giáo lý viên. Các bạn thân mến, tôi xin thân ái chào mừng tất cả và cám ơn vì đã đến đây. Tôi rất sung sướng vì biết rằng gia đình các bạn vẫn còn duy trì thói tục tốt lành là cất hang đá ở trong gia đình. Tuy nhiên, lặp lại một truyền thống tuy dù quan trọng nhưng chưa đủ. Cần phải tìm cách sống mỗi ngày các thực tại được tượng trưng nơi hang đá, tức là tình yêu, đức khiêm tốn, đức thanh bần của Chúa Kitô. Đó là điều mà thánh Phanxicô Assisi đã làm tại Greccio, khi thánh nhân diễn lại cảnh Chúa Giáng sinh để có thể chiêm ngắm và thờ lạy, và nhất là để có thể mang ra thực hành sứ điệp của Con Thiên Chúa, Đấng vì yêu thương chúng ta đã lột bỏ tất cả và trở nên một hài nhi bé nhỏ.
Việc chúc lành tượng Chúa hài đồng nhắc nhở chúng ta rằng hang đá là một trường học sống động, nơi mà chúng ta có thể học bí quyết của niềm vui đích thực. Niềm vui không hệ tại chiếm hữu nhiều của cải, nhưng ở chỗ là cảm nhận được Chúa yêu thương và trở thành quà tặng cho người khác, và ở chỗ yêu thương nhau. Chúng ta hãy nhìn vào hang đá: Đức Mẹ và thánh Giuse xem ra không phải là một gia đình phú quý; người con đầu lòng đã sinh ra giữa cảnh chật vật túng thiếu; tuy nhiên, các ngài đầy tràn niềm vui bởi vì họ yêu thương nhau, giúp đỡ nhau, và nhất là các ngài biết chắc chắn rằng trong cuộc đời của mình đang có sự tác động của Thiên Chúa, Đấng hiện diện ở nơi bé Giêsu. Còn các mục đồng thì sao? Họ có lý do gì mà vui sướng không? Chắc chắn là Hài nhi ấy không làm thay đổi thân phận nghèo nàn và hẩm hiu của họ. Nhưng đức tin giúp họ nhận ra “nơi hài nhi được vấn trong tấm khăn, được nằm trong máng cỏ”, là “dấu chỉ” của sự hoàn tất những lời hứa của Thiên Chúa dành cho mọi người, kể cả cho họ nữa, “Thiên Chúa thương yêu loài người” (Lc 2,12.14).
Các bạn thân mến, niềm vui chân thực nằm ở đâu? ở chỗ cảm nhận rằng cuộc đời cá nhân và cộng đoàn của chúng ta được viếng thăm và tràn đầy bởi một mầu nhiệm cao cả, mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa. Để hưởng niềm vui, chúng ta cần không những sở hữu đồ vật, nhưng cần có tình thương và chân lý: chúng ta cần một Thiên Chúa gần gũi, sưởi ấm con tim của chúng ta, và đáp ứng những khát vọng sâu thẳm của ta. Vị Thiên Chúa như vậy đã tỏ mình ra nơi đức Giêsu, sinh bởi đức trinh nữ Maria. Vì thế, tượng Chúa hài đồng được đặt trong hang đá, là trung tâm của tất cả, là con tim của của thế giới. Chúng ta hãy cầu nguyện để cho mỗi người, giống như đức trinh nữ Maria, biết đón nhận vào giữa cuộc đời mình Thiên Chúa Đấng đã trở thành hài nhi, nguồn mạch của vui mừng.
Sau khi ban phép lành, Đức Thánh Cha đã thêm vài ý chỉ cầu nguyện cũng như lời kêu gọi. Hôm qua, giáo phận Rôma tổ chức ngày quyên góp để xây dựng thánh đường mới cho các giáo xứ ở vùng ngoại ô thành phố. Vị giám mục Rôma kêu gọi đóng góp để giúp cho các cộng đoàn còn thiếu nơi thờ tự và đào tạo. Kế đó, ngài cũng bày tỏ lòng đau buồn khi được tin bốn nhà thừa sai bị sát hại tại Phi châu: linh mục Danile Cizimya, linh mục Louis Blondel, Linh mục Gorry Roche, nữ tu Denise Kahambu.
Vào lúc 10 giờ sáng, đức Bênêđictô XVI đã đến viếng thăm bệnh xá do Câu lạc bộ thánh Phêrô mở ra từ năm 1998, dành cho các bệnh nhân vào giai đoạn cuối đời. Ngoài ra, vào những năm gần đây, người ta còn mở thêm một dãy dành cho những người mắc bệnh Alzheimer. Các nhân viên của trung tâm còn phục vụ các bệnh nhân tại tư gia nữa. Ngỏ lời với các nhân viên, ngài đã bày tỏ lòng cảm phục vì lòng tôn trọng dành cho các bệnh nhân, trong một xã hội muốn loại trừ những phần tử bị coi là gánh nặng. Với các bệnh nhân và thân quyến, ngài đã hứa sẽ gần gũi họ bằng lời cầu nguyện, và mời gọi họ hãy nhìn lên Chúa Kitô trên thánh giá, để xin Chúa qua họ mà bày tỏ lòng yêu thương cho những kẻ lạc lối. Mùa Vọng là thời điểm để chúng ta suy nghĩ đến việc Chúa đến trong cuộc đời qua những nẻo đường huyền nhiệm của bệnh tật và đau khổ. Chúa dùng con đường đó để đến giải thoát ta ra khỏi cảnh cô đơn phi lý, và biến đổi sự đau khổ thành cơ hội gặp gỡ Chúa là hy vọng và là ơn cứu thoát.
Anh chị em thân mến
![]() |
Việc chúc lành tượng Chúa hài đồng nhắc nhở chúng ta rằng hang đá là một trường học sống động, nơi mà chúng ta có thể học bí quyết của niềm vui đích thực. Niềm vui không hệ tại chiếm hữu nhiều của cải, nhưng ở chỗ là cảm nhận được Chúa yêu thương và trở thành quà tặng cho người khác, và ở chỗ yêu thương nhau. Chúng ta hãy nhìn vào hang đá: Đức Mẹ và thánh Giuse xem ra không phải là một gia đình phú quý; người con đầu lòng đã sinh ra giữa cảnh chật vật túng thiếu; tuy nhiên, các ngài đầy tràn niềm vui bởi vì họ yêu thương nhau, giúp đỡ nhau, và nhất là các ngài biết chắc chắn rằng trong cuộc đời của mình đang có sự tác động của Thiên Chúa, Đấng hiện diện ở nơi bé Giêsu. Còn các mục đồng thì sao? Họ có lý do gì mà vui sướng không? Chắc chắn là Hài nhi ấy không làm thay đổi thân phận nghèo nàn và hẩm hiu của họ. Nhưng đức tin giúp họ nhận ra “nơi hài nhi được vấn trong tấm khăn, được nằm trong máng cỏ”, là “dấu chỉ” của sự hoàn tất những lời hứa của Thiên Chúa dành cho mọi người, kể cả cho họ nữa, “Thiên Chúa thương yêu loài người” (Lc 2,12.14).
Các bạn thân mến, niềm vui chân thực nằm ở đâu? ở chỗ cảm nhận rằng cuộc đời cá nhân và cộng đoàn của chúng ta được viếng thăm và tràn đầy bởi một mầu nhiệm cao cả, mầu nhiệm của tình yêu Thiên Chúa. Để hưởng niềm vui, chúng ta cần không những sở hữu đồ vật, nhưng cần có tình thương và chân lý: chúng ta cần một Thiên Chúa gần gũi, sưởi ấm con tim của chúng ta, và đáp ứng những khát vọng sâu thẳm của ta. Vị Thiên Chúa như vậy đã tỏ mình ra nơi đức Giêsu, sinh bởi đức trinh nữ Maria. Vì thế, tượng Chúa hài đồng được đặt trong hang đá, là trung tâm của tất cả, là con tim của của thế giới. Chúng ta hãy cầu nguyện để cho mỗi người, giống như đức trinh nữ Maria, biết đón nhận vào giữa cuộc đời mình Thiên Chúa Đấng đã trở thành hài nhi, nguồn mạch của vui mừng.
Sau khi ban phép lành, Đức Thánh Cha đã thêm vài ý chỉ cầu nguyện cũng như lời kêu gọi. Hôm qua, giáo phận Rôma tổ chức ngày quyên góp để xây dựng thánh đường mới cho các giáo xứ ở vùng ngoại ô thành phố. Vị giám mục Rôma kêu gọi đóng góp để giúp cho các cộng đoàn còn thiếu nơi thờ tự và đào tạo. Kế đó, ngài cũng bày tỏ lòng đau buồn khi được tin bốn nhà thừa sai bị sát hại tại Phi châu: linh mục Danile Cizimya, linh mục Louis Blondel, Linh mục Gorry Roche, nữ tu Denise Kahambu.
Vào lúc 10 giờ sáng, đức Bênêđictô XVI đã đến viếng thăm bệnh xá do Câu lạc bộ thánh Phêrô mở ra từ năm 1998, dành cho các bệnh nhân vào giai đoạn cuối đời. Ngoài ra, vào những năm gần đây, người ta còn mở thêm một dãy dành cho những người mắc bệnh Alzheimer. Các nhân viên của trung tâm còn phục vụ các bệnh nhân tại tư gia nữa. Ngỏ lời với các nhân viên, ngài đã bày tỏ lòng cảm phục vì lòng tôn trọng dành cho các bệnh nhân, trong một xã hội muốn loại trừ những phần tử bị coi là gánh nặng. Với các bệnh nhân và thân quyến, ngài đã hứa sẽ gần gũi họ bằng lời cầu nguyện, và mời gọi họ hãy nhìn lên Chúa Kitô trên thánh giá, để xin Chúa qua họ mà bày tỏ lòng yêu thương cho những kẻ lạc lối. Mùa Vọng là thời điểm để chúng ta suy nghĩ đến việc Chúa đến trong cuộc đời qua những nẻo đường huyền nhiệm của bệnh tật và đau khổ. Chúa dùng con đường đó để đến giải thoát ta ra khỏi cảnh cô đơn phi lý, và biến đổi sự đau khổ thành cơ hội gặp gỡ Chúa là hy vọng và là ơn cứu thoát.
Top Stories
Wietnam jest gotowy zacieśnić relacje z Watykanem (Ba Lan)
Radio Watykańskie
11:22 13/12/2009
Relacje Wietnam-Watykan przed szansą - ak wczorajsze spotkanie wietnamskiego prezydenta Nguyena Minh Trieta z Papieżem komentuje dziś reżimowa prasa w Hanoi. Nie mówi się jednak wprost o nawiązaniu oficjalnych relacji dyplomatycznych. Zdaniem ks. Barnabé Nguyêna Van Phuonga z Kongregacji ds.
Ewangelizacji Narodów obecność stałego papieskiego przedstawiciela w Hanoi leży w interesie obu stron. Dzięki temu Stolica Apostolska byłaby lepiej poinformowana o sytuacji w tym kraju. Otworzyłoby to również drogę do ewentualnej wizyty Papieża. Zdaniem ks. Van Phuonga, który był członkiem watykańskich delegacji, składających wizytę w Wietnamie, po obu stronach jest widoczna wola otwarcia. Dziś trudno jeszcze jednak powiedzieć, jak daleko ona zaprowadzi.
Ewangelizacji Narodów obecność stałego papieskiego przedstawiciela w Hanoi leży w interesie obu stron. Dzięki temu Stolica Apostolska byłaby lepiej poinformowana o sytuacji w tym kraju. Otworzyłoby to również drogę do ewentualnej wizyty Papieża. Zdaniem ks. Van Phuonga, który był członkiem watykańskich delegacji, składających wizytę w Wietnamie, po obu stronach jest widoczna wola otwarcia. Dziś trudno jeszcze jednak powiedzieć, jak daleko ona zaprowadzi.
Wietnam: Sparaliżowany kapłan ponownie trafił do więzienia (Ba Lan)
Info.Wiara.Pl
13:04 13/12/2009
KAI - Wielokrotnie aresztowany za działalność opozycyjną ks. Thadeus Nguyen Van Ly po miesięcznym pobycie w szpitalu w związku z zatorem mózgu został wczoraj ponownie przewieziony do więzienia.
Poinformowała o tym francuską agencję AFP siostra kapłana, Nguyen Thi Hieu. Organizacja Amnesty International wystosowała wczoraj do wietnamskich władz oficjalny protest, w którym domaga się natychmiastowego uwolnienia kapłana.
Ks. Ly został w minioną sobotę przewieziony ze szpitala MSW w Hanoi do więzienia pomimo niestabilnego stanu zdrowia. „Jego kondycja fizyczna od czasu rozpoczęcia kuracji w szpitalu 14 listopada jest trochę lepsza. Ale jego obecny stan daleko odbiega od normalności. Nie mamy pojęcia dlaczego deportowano go z powrotem do więzienia, gdy potrzebuje on dalszej opieki lekarskiej” - powiedziała siostra kapłana.
Uwolnienia wielokrotnie więzionego ks. Ly od dawna domaga się grupa prawników amerykańskich. Wczoraj organizacja Amnesty International wydala oświadczenie, w którym domaga się, aby "władze Wietnamu natychmiast i bez stawiana żadnych warunków uwolniły ks. Ly”. „Powinien on znaleźć się teraz pod opieką krewnych, którzy potrafią odpowiednio zatroszczyć się o dalsze leczenie i ewentualną operację w szpitalu jeśli zajdzie taka potrzeba" - czytamy w oświadczeniu.
Ks. Thadeus Nguyen Van Ly jest znanym obrońcą praw człowieka w Wietnamie domagającym się wolności religijnej i krytykującym zamachy władz na prawa człowieka, za co spotykały go szykany ze strony komunistycznego rządu. 61-letni kapłan był kilkakrotnie więziony m. in. w latach 1983-1992, 2001-2003 i 2007.
(Source: http://info.wiara.pl/doc/394709.Wietnam-Sparalizowany-kaplan-ponownie-trafil-do-wiezienia)
Poinformowała o tym francuską agencję AFP siostra kapłana, Nguyen Thi Hieu. Organizacja Amnesty International wystosowała wczoraj do wietnamskich władz oficjalny protest, w którym domaga się natychmiastowego uwolnienia kapłana.
Ks. Ly został w minioną sobotę przewieziony ze szpitala MSW w Hanoi do więzienia pomimo niestabilnego stanu zdrowia. „Jego kondycja fizyczna od czasu rozpoczęcia kuracji w szpitalu 14 listopada jest trochę lepsza. Ale jego obecny stan daleko odbiega od normalności. Nie mamy pojęcia dlaczego deportowano go z powrotem do więzienia, gdy potrzebuje on dalszej opieki lekarskiej” - powiedziała siostra kapłana.
Uwolnienia wielokrotnie więzionego ks. Ly od dawna domaga się grupa prawników amerykańskich. Wczoraj organizacja Amnesty International wydala oświadczenie, w którym domaga się, aby "władze Wietnamu natychmiast i bez stawiana żadnych warunków uwolniły ks. Ly”. „Powinien on znaleźć się teraz pod opieką krewnych, którzy potrafią odpowiednio zatroszczyć się o dalsze leczenie i ewentualną operację w szpitalu jeśli zajdzie taka potrzeba" - czytamy w oświadczeniu.
Ks. Thadeus Nguyen Van Ly jest znanym obrońcą praw człowieka w Wietnamie domagającym się wolności religijnej i krytykującym zamachy władz na prawa człowieka, za co spotykały go szykany ze strony komunistycznego rządu. 61-letni kapłan był kilkakrotnie więziony m. in. w latach 1983-1992, 2001-2003 i 2007.
(Source: http://info.wiara.pl/doc/394709.Wietnam-Sparalizowany-kaplan-ponownie-trafil-do-wiezienia)
Vietnams Präsident bei Papst Benedikt XVI (tiếng Đức)
Dom Radio
16:10 13/12/2009
Vietnams Staatspräsident Nguyen Minh Triet ist am Freitag von Papst Benedikt XVI. empfangen worden. Der Vatikan wertete den ersten Besuch eines Präsidenten der Sozialistischen Republik als „bedeutende Etappe für die Fortschritte in den bilateralen Beziehungen“. In einem anschließend veröffentlichten Kommunique äußerte der Heilige Stuhl die Hoffnung, dass offene Fragen möglichst bald gelöst werden könnten.
Nähere Angaben dazu enthielt die Erklärung nicht. Seit 1975 bestehen keine diplomatischen Beziehungen zwischen dem Heiligen Stuhl und Vietnam.
Nach Angaben des Vatikan wurden bei dem 40-minütigen Privatgespräch einige Fragen der Zusammenarbeit von Kirche und Staat erörtert. Auch seien internationale Fragen behandelt worden; mit besonderem Blick auf Initiativen, an denen Vietnam und der Vatikan beteiligt seien.
Nach Einschätzung mitreisender vietnamesischer Journalisten ging es bei dem Gespräch um die Wiederaufnahme diplomatischer Beziehungen und einen möglichen Besuch des Papstes in dem südostasiatischen Land. Das Vatikan-Kommunique enthält dazu keine Hinweise.
Beim anschließenden Fototermin zeigten sich Papst und Präsident in einer gelösten und herzlichen Stimmung. Nguyen Minh Triet überreichte Benedikt XVI. als Gastgeschenk eine Porzellanvase sowie ein Seidentuch mit eingewebter Lotusblüte, der Wappenblume des Landes. Das Kirchenoberhaupt revanchierte sich mit einer Pontifikatsmedaille.
Die Visite von Nguyen Minh Triet ist der erste Vatikanbesuch eines vietnamesischen Staatsoberhauptes seit 1975. Damals brach das Land nach dem Vietnamkrieg und der kommunistischen Wiedervereinigung die diplomatischen Beziehungen zum Heiligen Stuhl komplett ab.
Seit Jahren beraten Unterhändler beider Seiten über eine Verbesserung der Staat-Kirche-Beziehungen und über einen Botschafteraustausch. Nach fast 15-jähriger Funkstille finden seit 1989 einmal jährlich Gespräche auf Ebene der Vize-Außenminister statt. Dabei geht es um Bischofsernennungen, um Zulassungsquoten für Priesterseminare sowie um Garantien für Kultstätten.
(Source: http://www.domradio.de/benedikt/artikel_59394.html)
Nähere Angaben dazu enthielt die Erklärung nicht. Seit 1975 bestehen keine diplomatischen Beziehungen zwischen dem Heiligen Stuhl und Vietnam.
Nach Angaben des Vatikan wurden bei dem 40-minütigen Privatgespräch einige Fragen der Zusammenarbeit von Kirche und Staat erörtert. Auch seien internationale Fragen behandelt worden; mit besonderem Blick auf Initiativen, an denen Vietnam und der Vatikan beteiligt seien.
Nach Einschätzung mitreisender vietnamesischer Journalisten ging es bei dem Gespräch um die Wiederaufnahme diplomatischer Beziehungen und einen möglichen Besuch des Papstes in dem südostasiatischen Land. Das Vatikan-Kommunique enthält dazu keine Hinweise.
Beim anschließenden Fototermin zeigten sich Papst und Präsident in einer gelösten und herzlichen Stimmung. Nguyen Minh Triet überreichte Benedikt XVI. als Gastgeschenk eine Porzellanvase sowie ein Seidentuch mit eingewebter Lotusblüte, der Wappenblume des Landes. Das Kirchenoberhaupt revanchierte sich mit einer Pontifikatsmedaille.
Die Visite von Nguyen Minh Triet ist der erste Vatikanbesuch eines vietnamesischen Staatsoberhauptes seit 1975. Damals brach das Land nach dem Vietnamkrieg und der kommunistischen Wiedervereinigung die diplomatischen Beziehungen zum Heiligen Stuhl komplett ab.
Seit Jahren beraten Unterhändler beider Seiten über eine Verbesserung der Staat-Kirche-Beziehungen und über einen Botschafteraustausch. Nach fast 15-jähriger Funkstille finden seit 1989 einmal jährlich Gespräche auf Ebene der Vize-Außenminister statt. Dabei geht es um Bischofsernennungen, um Zulassungsquoten für Priesterseminare sowie um Garantien für Kultstätten.
(Source: http://www.domradio.de/benedikt/artikel_59394.html)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Mời theo dõi cuộc chơi ''Xướng - Họa''(4)
Lm. Trăng Thập Tự
09:05 13/12/2009
MỜI THEO DÕI CUỘC CHƠI XƯỚNG HỌA - 4
Xin giới thiệu tiếp các bài tham dự, từ số 31-40. Độc giả sẽ gặp những vị dạt dào thi hứng, không phải chỉ hai hoặc ba mà có thể đến 10 bài họa.
Cũng xin thông báo tin vui mới: Nhà sách Hoàng Mai sẽ đóng góp thêm 10 đầu sách vào 22 gói phần thưởng, gồm những tác phẩm sau đây:
- THIÊN CHÚA CHA, ĐẤNG GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT của ĐGM PHAOLÔ BÙI VĂN ĐỌC
- HẠNH PHÚC TRONG TẦM TAY của Nữ tu TRẦN THỊ GIỒNG
- TỨ ĐỨC CÔNG DUNG NGÔN HẠNH THEO LINH ĐẠO ĐỨC CHA LAMBERT DE LA MOTTE của Nữ tu TRẦN THỊ THANH HƯƠNG
- CẨM NANG SINH HOẠT của Lm ĐAN VINH
- GIA ĐÌNH SỐNG ĐẠO của Ô. NGUYỄN VĂN NỘI
- GIUSE THỢ MỘC, CHA CHÚNG TA của Lm ĐINH MINH THỎA
- KINH LẠY CHA của ĐGM BÙI TUẦN
- SỐNG THÁNH HIẾN của Lm ĐỖ XUÂN QUẾ
- Ý NGHĨA KITÔ GIÁO của Lm ĐOÀN SĨ THỤC
- CAO ĐẲNG GIÁO LÝ (toàn bộ 9 tập) của Lm HOÀNG ĐỨC TOÀN
Rất mong sớm nhận được thêm nhiều sự hỗ trợ để cuộc đua thêm hào hứng.
Tiếp đây, mời độc giả thưởng thức 10 bài mới:
Bai 31: HƯƠNG THẦM DÂNG MẸ
(Riêng tặng các bạn Đoan Hứa khiết Tịnh)
Vui gì lặn hụp chốn bùn đen
Thoang thoảng xem kìa một nụ sen
Trinh trắng ngàn đời trinh trắng mãi
Hương thầm muôn kiếp hương thầm khen
Thẹn thùng e lệ gìn trân quí
Trân tráo ba hoa chuốc phận hèn
Cảm kính sinh thành trong bụi đất
Thanh cao huyền diệu cỏ cây chen
Hoàn Lương
BÀi 32: KHUYÊN EM
Thể liên hoàn thuận nghịch vận
(Đọc xuôi)
Chen chân chớ chớ nhuốm chàm đen,
Hỡi gái em xinh trắng búp sen.
Hèn mọn sống vui luôn kẻ trọng,
Quý sang đời hám chẳng ai khen.
Khen người khiết tịnh tâm trong sạch,
Nể kẻ tâm tu sống mọn hèn.
Sen nụ ấp e em gái hỡi!
Đen bùn vướng đấy tránh chân chen.
(Đọc ngược)
Chen chân tránh đấy vướng bùn đen,
Hỡi gái em e ấp nụ sen!
Hèn mọn sống tu tâm kẻ nể,
Sạch trong tâm tịnh khiết người khen.
Khen ai chẳng hám đời sang quý,
Trọng kẻ luôn vui sống mọn hèn.
Sen búp trắng xinh em gái hỡi!
Đen chàm nhuốm chớ chớ chân chen.
Bùi Nghiệp
Bai 33: TRUNG TRINH THEO MẸ
Mẹ ơi! giữa biển đời tối đen
Làm sao con sống tựa đoá sen
Trung trinh, vâng phục như đời Mẹ
Mặc cho nhân thế lời chê khen
Kìa bao Danh Thánh xưa dũng khí
Mà nay con há phải ươn hèn?
Con sẽ noi theo Mẹ rất Thánh
Sống đời nhân chứng giữa đua chen
Giang Tịnh
Bài 34: TRINH VƯƠNG
Lời Sấm khi xưa, thuở Ê-đen
Satan Mẹ đạp dưới gót sen,
Mưu mô ác quỷ muôn kiếp bại
Phúc ân Thánh Mẫu vạn đời khen.
Xin Mẹ Trinh Vương nơi thiên quốc
Thương con cát bụi phận đớn hèn,
Xác thân dẫu còn vương tội lụy
Cho hồn thanh thoát chốn đua chen.
Thiên Tâm
Bài 35:
Bỏ Chúa loài người, kiếp tối đen.
Trong dòng thấp thoáng, một bông sen.
Hương sen phẳng phất, hương trinh khiết.
Thánh thiện tấu bài, thánh hát khen.
Phó thác dâng cao, niềm phó thác.
Khiêm nhường cúi nhận, phận nhơ hèn.
Ai đâu được tặng, ơn Vô Nhiễm.
Ơn phúc cho dòng, sẽ nở, chen.
Trinh Nguyên
Bài 36
Con người gục ngã tại Ê-đen.
Gai góc chen vào những đoá sen.
Êm ả thái bình, nay đã mất.
Còn đâu hoà hợp, tiếng ca khen.
Thương trần kiếp sống, sao nheo nhóc.
Tình Chúa giơ tay, xoá phận hèn.
Làm Mẹ Ngôi Hai, người Mẹ mới.
Làm người cho phúc, nở, đua, chen.
Trinh Nguyên
Bài 37
Ngã quỵ kiếp người nên tối đen.
Ê-đen đã mất vị hương sen.
Dòng đời buồn bã nếm mùi khổ.
Kiếp phúc vui vầy mất hát khen.
Quỷ độc lừa người bị nguyền rủa.
Chúa nhân, trung tín, đỡ người hèn.
Chọn trong nhân loại hoa sen mới.
Cứu độ khởi đầu phúc nở chen.
Trinh Nguyên
Bài 38
Nhận hơi vào mũi ở Ê-đen.
Nguyên tổ loài người tựa đoá sen.
Trái cấm nghe ăn, để giống Chúa.
Nuốt vào tăm tối, tự thầm khen.
Đẹp xinh hoa hồng trời định sẵn.
Thay những hoa sen đã ra hèn.
Vô nhiễm hoa hồng; trinh, huệ trắng.
Khởi đầu cứu độ phúc đan chen.
Trinh Nguyên
Bài 39:
Khởi đầu cái thủa ở Ê-đen.
Nguyên tổ ông bà tựa đoá sen.
Sen đẹp, sen kiêu, sen héo úa.
Sen tàn, sen nhục, có gì khen.
Nụ sen khiêm tốn, đang e ấp.
Tạo hoá quyền năng, chọn thấp hèn
Tươi sáng, nở ra, sen đẹp lắm.
Theo dòng sen nối, nở đua chen.
Trinh Nguyên
Bài 40: KHẤN NGUYỆN.
MẸ ơi trần thế lắm đêm đen.
Xin giữ đời con mãi hương sen.
Lá xanh ôm ấp đời dâng hiến,
Bông trắng toả lan ý ca khen..
Nhìn lên NHAN MẸ ngời cao sáng.
Ngó xuống đời con phận mọn hèn.
Khấn nguyện giữ con hoài bông trắng,
Giữa đời trần thế lắm bon chen..
Dzuy Sơn Tuyền
Xin giới thiệu tiếp các bài tham dự, từ số 31-40. Độc giả sẽ gặp những vị dạt dào thi hứng, không phải chỉ hai hoặc ba mà có thể đến 10 bài họa.
Cũng xin thông báo tin vui mới: Nhà sách Hoàng Mai sẽ đóng góp thêm 10 đầu sách vào 22 gói phần thưởng, gồm những tác phẩm sau đây:
- THIÊN CHÚA CHA, ĐẤNG GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT của ĐGM PHAOLÔ BÙI VĂN ĐỌC
- HẠNH PHÚC TRONG TẦM TAY của Nữ tu TRẦN THỊ GIỒNG
- TỨ ĐỨC CÔNG DUNG NGÔN HẠNH THEO LINH ĐẠO ĐỨC CHA LAMBERT DE LA MOTTE của Nữ tu TRẦN THỊ THANH HƯƠNG
- CẨM NANG SINH HOẠT của Lm ĐAN VINH
- GIA ĐÌNH SỐNG ĐẠO của Ô. NGUYỄN VĂN NỘI
- GIUSE THỢ MỘC, CHA CHÚNG TA của Lm ĐINH MINH THỎA
- KINH LẠY CHA của ĐGM BÙI TUẦN
- SỐNG THÁNH HIẾN của Lm ĐỖ XUÂN QUẾ
- Ý NGHĨA KITÔ GIÁO của Lm ĐOÀN SĨ THỤC
- CAO ĐẲNG GIÁO LÝ (toàn bộ 9 tập) của Lm HOÀNG ĐỨC TOÀN
Rất mong sớm nhận được thêm nhiều sự hỗ trợ để cuộc đua thêm hào hứng.
Tiếp đây, mời độc giả thưởng thức 10 bài mới:
Bai 31: HƯƠNG THẦM DÂNG MẸ
(Riêng tặng các bạn Đoan Hứa khiết Tịnh)
Vui gì lặn hụp chốn bùn đen
Thoang thoảng xem kìa một nụ sen
Trinh trắng ngàn đời trinh trắng mãi
Hương thầm muôn kiếp hương thầm khen
Thẹn thùng e lệ gìn trân quí
Trân tráo ba hoa chuốc phận hèn
Cảm kính sinh thành trong bụi đất
Thanh cao huyền diệu cỏ cây chen
Hoàn Lương
BÀi 32: KHUYÊN EM
Thể liên hoàn thuận nghịch vận
(Đọc xuôi)
Chen chân chớ chớ nhuốm chàm đen,
Hỡi gái em xinh trắng búp sen.
Hèn mọn sống vui luôn kẻ trọng,
Quý sang đời hám chẳng ai khen.
Khen người khiết tịnh tâm trong sạch,
Nể kẻ tâm tu sống mọn hèn.
Sen nụ ấp e em gái hỡi!
Đen bùn vướng đấy tránh chân chen.
(Đọc ngược)
Chen chân tránh đấy vướng bùn đen,
Hỡi gái em e ấp nụ sen!
Hèn mọn sống tu tâm kẻ nể,
Sạch trong tâm tịnh khiết người khen.
Khen ai chẳng hám đời sang quý,
Trọng kẻ luôn vui sống mọn hèn.
Sen búp trắng xinh em gái hỡi!
Đen chàm nhuốm chớ chớ chân chen.
Bùi Nghiệp
Bai 33: TRUNG TRINH THEO MẸ
Mẹ ơi! giữa biển đời tối đen
Làm sao con sống tựa đoá sen
Trung trinh, vâng phục như đời Mẹ
Mặc cho nhân thế lời chê khen
Kìa bao Danh Thánh xưa dũng khí
Mà nay con há phải ươn hèn?
Con sẽ noi theo Mẹ rất Thánh
Sống đời nhân chứng giữa đua chen
Giang Tịnh
Bài 34: TRINH VƯƠNG
Lời Sấm khi xưa, thuở Ê-đen
Satan Mẹ đạp dưới gót sen,
Mưu mô ác quỷ muôn kiếp bại
Phúc ân Thánh Mẫu vạn đời khen.
Xin Mẹ Trinh Vương nơi thiên quốc
Thương con cát bụi phận đớn hèn,
Xác thân dẫu còn vương tội lụy
Cho hồn thanh thoát chốn đua chen.
Thiên Tâm
Bài 35:
Bỏ Chúa loài người, kiếp tối đen.
Trong dòng thấp thoáng, một bông sen.
Hương sen phẳng phất, hương trinh khiết.
Thánh thiện tấu bài, thánh hát khen.
Phó thác dâng cao, niềm phó thác.
Khiêm nhường cúi nhận, phận nhơ hèn.
Ai đâu được tặng, ơn Vô Nhiễm.
Ơn phúc cho dòng, sẽ nở, chen.
Trinh Nguyên
Bài 36
Con người gục ngã tại Ê-đen.
Gai góc chen vào những đoá sen.
Êm ả thái bình, nay đã mất.
Còn đâu hoà hợp, tiếng ca khen.
Thương trần kiếp sống, sao nheo nhóc.
Tình Chúa giơ tay, xoá phận hèn.
Làm Mẹ Ngôi Hai, người Mẹ mới.
Làm người cho phúc, nở, đua, chen.
Trinh Nguyên
Bài 37
Ngã quỵ kiếp người nên tối đen.
Ê-đen đã mất vị hương sen.
Dòng đời buồn bã nếm mùi khổ.
Kiếp phúc vui vầy mất hát khen.
Quỷ độc lừa người bị nguyền rủa.
Chúa nhân, trung tín, đỡ người hèn.
Chọn trong nhân loại hoa sen mới.
Cứu độ khởi đầu phúc nở chen.
Trinh Nguyên
Bài 38
Nhận hơi vào mũi ở Ê-đen.
Nguyên tổ loài người tựa đoá sen.
Trái cấm nghe ăn, để giống Chúa.
Nuốt vào tăm tối, tự thầm khen.
Đẹp xinh hoa hồng trời định sẵn.
Thay những hoa sen đã ra hèn.
Vô nhiễm hoa hồng; trinh, huệ trắng.
Khởi đầu cứu độ phúc đan chen.
Trinh Nguyên
Bài 39:
Khởi đầu cái thủa ở Ê-đen.
Nguyên tổ ông bà tựa đoá sen.
Sen đẹp, sen kiêu, sen héo úa.
Sen tàn, sen nhục, có gì khen.
Nụ sen khiêm tốn, đang e ấp.
Tạo hoá quyền năng, chọn thấp hèn
Tươi sáng, nở ra, sen đẹp lắm.
Theo dòng sen nối, nở đua chen.
Trinh Nguyên
Bài 40: KHẤN NGUYỆN.
MẸ ơi trần thế lắm đêm đen.
Xin giữ đời con mãi hương sen.
Lá xanh ôm ấp đời dâng hiến,
Bông trắng toả lan ý ca khen..
Nhìn lên NHAN MẸ ngời cao sáng.
Ngó xuống đời con phận mọn hèn.
Khấn nguyện giữ con hoài bông trắng,
Giữa đời trần thế lắm bon chen..
Dzuy Sơn Tuyền
Món quà Giáng Sinh từ Melbourne Úc châu cho VietCatholic
VietCatholic
09:34 13/12/2009
Trong dịp Anh Đặng Minh An, Phó Ban Điều Hành VietCatholic, đến thăm miền Melbourne và một số Cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại đây, VietCatholic đã nhận được món quà là AUD2280 từ Giuse Nguyễn Xuân Trường OFM và Cha Đinh Thanh Bình, món quà AUD1000 từ Cha Anthony Nguyễn Hữu Quảng muốn hỗ trợ và khích lệ cho các hoạt động và công tác Truyền thông Công giáo của VietCatholic.
Chúng tôi thật bất ngờ và rất cảm động khi nhận được những món quà tình nghĩa và cử chỉ ưu ái mà qúi Anh Chị Em Giáo dân và qúi Cha đã dành cho VietCatholic nhân dịp Giáng Sinh.
Món quà này nói lên lòng ưu ái và sự quan tâm đặc biệt của qúi vị đối với trách nhiệm loan truyền Tin Mừng và sứ mạng Truyền thông Công giáo của tất cả mọi người chúng ta. Điều này càng làm cho chúng tôi cố gắng và tiếp tục hơn nữa trong những mục tiêu mà chúng tôi đã vạch ra là rao giảng Tin Mừng đích thật của Chúa Giêsu, đưa tin chính xác để bảo vệ Giáo hội, phát huy những truyền thống tốt đẹp của Quê hương Việt nam, và là nhịp cầu nối kết và chia sẻ các sinh hoạt của các Cộng đoàn Công giáo Việt nam khắp nơi trong tình huynh đệ cảm thông.
Ban Điều Hành và Biên Tập của VietCatholic xin chân thành cám ơn Giuse Nguyễn Xuân Trường OFM, Cha Đinh Thanh Bình, Ban Chấp Hành và Cộng đoàn Thánh Giuse tại Springvale, Cha Anthony Nguyễn Hữu Quảng, Ban Chấp Hành và Cộng đoàn Brunswick; xin cầu chúc qúi Cha và qúi Cộng đoàn Niềm Vui Giáng Sinh và mọi ơn lành từ Chúa Giêsu Hài Đồng là Món Quà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta và toàn thể nhân loại chúng sinh.
Trân trọng,
![]() |
Món quà này nói lên lòng ưu ái và sự quan tâm đặc biệt của qúi vị đối với trách nhiệm loan truyền Tin Mừng và sứ mạng Truyền thông Công giáo của tất cả mọi người chúng ta. Điều này càng làm cho chúng tôi cố gắng và tiếp tục hơn nữa trong những mục tiêu mà chúng tôi đã vạch ra là rao giảng Tin Mừng đích thật của Chúa Giêsu, đưa tin chính xác để bảo vệ Giáo hội, phát huy những truyền thống tốt đẹp của Quê hương Việt nam, và là nhịp cầu nối kết và chia sẻ các sinh hoạt của các Cộng đoàn Công giáo Việt nam khắp nơi trong tình huynh đệ cảm thông.
Ban Điều Hành và Biên Tập của VietCatholic xin chân thành cám ơn Giuse Nguyễn Xuân Trường OFM, Cha Đinh Thanh Bình, Ban Chấp Hành và Cộng đoàn Thánh Giuse tại Springvale, Cha Anthony Nguyễn Hữu Quảng, Ban Chấp Hành và Cộng đoàn Brunswick; xin cầu chúc qúi Cha và qúi Cộng đoàn Niềm Vui Giáng Sinh và mọi ơn lành từ Chúa Giêsu Hài Đồng là Món Quà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta và toàn thể nhân loại chúng sinh.
Trân trọng,
365 anh chị em sắc tộc được gia nhập Giáo hội tại giáo xứ Quảng Đà
Dao Thưởng
11:28 13/12/2009
BAN MÊ THUỘT - Vào ngày 10 tháng 12 năm 2009 vừa qua, ở Giáo họ Quảng Phú, Giáo xứ Quảng Đà, Giáo Phận Bamêthuột, đã tổ chức Thánh lễ cầu nguyện cho 365 anh chị em sắc tộc nhận lãnh bí tích Rửa Tội, là ngày vui mừng hạnh phúc nhất trong đời được làm con cái Chúa. Thật là một niềm hạnh phúc khó diễn tả được là sự quan phòng chở che của Thiên Chúa. Nhưng hạnh phúc lớn lao đó, cũng là nhờ sự chăm lo của Cha Quản xứ Antôn Nguyễn Phi Hùng, mặc dù Cha rất bận rộn trăm công nghìn việc, cha vẫn luôn quan tâm đến bà con có được như ngày hôm nay.
Trong Thánh lễ có sự hiện diện Cha Quản Hạt Dak lak II, Cha Cựu Bề trên Tỉnh dòng Đaminh và Cha Quản xứ đã dâng Thánh lễ cầu nguyện và ban các Bí tích cho anh em đồng bào sắc tộc thuộc Giáo xứ Quảng Đà. Cùng tham dự trong Thánh lễ trên hai ngàn người, có sự hiện diện quý ân nhân xa gần đến chia sẻ cách này hay bằng cách khác. Vì tình thương mến thương, quý ân nhân vượt qua bốn năm trăm cây số cùng chung chia với đồng bào sắc tộc. Sau Thánh lễ mỗi người tham dự nhận được một phần quà và ở lại dùng bữa cơm agapê thân mật.
Trước những ngày đó, các anh chị em đồng bào sắc tộc đã được học hỏi Giáo lý, mặc dù anh chị em ở rất xa, nhưng anh em vẫn hăng say chu toàn bổn phận là một người Kitô hữu. Nhìn những nét mặt anh chị em đồng bào rất đơn sơ và bao mến thương. Vì đây là ngày trọng đại trong đời anh chị em đồng bào sắc tộc.
Từ đường quốc lộ 14 đi vào đến Giáo họ Quảng Phú xa hơn 75 km, là trung tâm của các Giáo họ là Giáo họ Đức Xuyên, Dăk Nang, EarBin, Nam Ka và Tân Hương. Hơn nữa đường đi lầy lội, dốc dác khá nguy hiểm. Cuộc sống giáo dân nơi đây rất nghèo khổ, khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần. Ngay tại Quảng Phú, từ ngày Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời năm 2001 Cha đã đến truyền giáo và rửa tội tại Giáo xứ Phúc Lộc 150 anh chị em đồng bào sắc tộc, lần thứ hai vào ngày Lễ Giáng Sinh năm 2006 Cha đã rửa tội 250 anh chị em, lần thứ ba vào ngày Lễ Các Thánh Nam Nữ năm 2007 Cha đã rửa tội 353 anh chị em, hôm nay ngày Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 2009 cha rửa tội 365 anh em và còn rất nhiều anh chị em đã và đang học hỏi giáo lý.
Nhìn lại 9 năm thụ phong linh mục, từ khi cha làm phó xứ Phúc Lộc cho đến khi về làm Quản xứ Quảng Đà, hành trình truyền giáo, cha đã Rửa Tội được trên 6500 người. Đây cũng là một con số rất khiêm tốn, mà cha đã Rửa tội trong những năm qua. Cha luôn gần gủi và quan tâm chia sẻ với anh em đồng bào Kinh, Thượng. Hơn nữa, cha phải phụ trách 1 Giáo xứ đầu tiên có ở Huyện KrôngNô, gồm 13 Giáo họ trong đó: 11 Giáo họ nằm rải rác trong Huyện KrôngNô và 2 Giáo họ ở Huyện Lak, dài trên 100km, địa bàn quá rộng và quá phức tạp, đi lại rất khó khăn. Suốt 34 năm nay bà con khao khát được đi Lễ, học hỏi giáo lý… Mặc dù chưa có nơi thờ phượng, bấy lâu nay phải nhờ vào địa điểm nhà ở ông Trùm. Nay chính quyền công nhận cho thành lập Giáo họ Quảng Phú, vì nhu cầu sinh hoạt Tôn giáo của bà con giáo dân nơi đây, ước mơ sớm có một Ngôi nhà nguyện rất khiêm tốn, nhưng so với khả năng của anh em đồng bào dân tộc thuộc vùng kinh tế mới nghèo đói, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, thiên tai lũ lụt hàng năm, thì đây chỉ là một giấc mơ nếu không được quý ân nhân rộng tình giúp đỡ.
Với chủ đề Năm Thánh “Chính anh em là muối cho đời, ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 13). Như thế, sứ vụ truyền giáo là biết đem Tin Mừng đến cho mọi người. Với thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh, từ biết cho đi, phục vụ vô vị lợi. Và Chúa sẽ biến đổi ta một cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở thành con người mới thực thụ. Để giúp ích cho Giáo Hội cũng như xã hội hôm nay.
Trong Thánh lễ có sự hiện diện Cha Quản Hạt Dak lak II, Cha Cựu Bề trên Tỉnh dòng Đaminh và Cha Quản xứ đã dâng Thánh lễ cầu nguyện và ban các Bí tích cho anh em đồng bào sắc tộc thuộc Giáo xứ Quảng Đà. Cùng tham dự trong Thánh lễ trên hai ngàn người, có sự hiện diện quý ân nhân xa gần đến chia sẻ cách này hay bằng cách khác. Vì tình thương mến thương, quý ân nhân vượt qua bốn năm trăm cây số cùng chung chia với đồng bào sắc tộc. Sau Thánh lễ mỗi người tham dự nhận được một phần quà và ở lại dùng bữa cơm agapê thân mật.
Trước những ngày đó, các anh chị em đồng bào sắc tộc đã được học hỏi Giáo lý, mặc dù anh chị em ở rất xa, nhưng anh em vẫn hăng say chu toàn bổn phận là một người Kitô hữu. Nhìn những nét mặt anh chị em đồng bào rất đơn sơ và bao mến thương. Vì đây là ngày trọng đại trong đời anh chị em đồng bào sắc tộc.
Từ đường quốc lộ 14 đi vào đến Giáo họ Quảng Phú xa hơn 75 km, là trung tâm của các Giáo họ là Giáo họ Đức Xuyên, Dăk Nang, EarBin, Nam Ka và Tân Hương. Hơn nữa đường đi lầy lội, dốc dác khá nguy hiểm. Cuộc sống giáo dân nơi đây rất nghèo khổ, khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần. Ngay tại Quảng Phú, từ ngày Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời năm 2001 Cha đã đến truyền giáo và rửa tội tại Giáo xứ Phúc Lộc 150 anh chị em đồng bào sắc tộc, lần thứ hai vào ngày Lễ Giáng Sinh năm 2006 Cha đã rửa tội 250 anh chị em, lần thứ ba vào ngày Lễ Các Thánh Nam Nữ năm 2007 Cha đã rửa tội 353 anh chị em, hôm nay ngày Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 2009 cha rửa tội 365 anh em và còn rất nhiều anh chị em đã và đang học hỏi giáo lý.
Nhìn lại 9 năm thụ phong linh mục, từ khi cha làm phó xứ Phúc Lộc cho đến khi về làm Quản xứ Quảng Đà, hành trình truyền giáo, cha đã Rửa Tội được trên 6500 người. Đây cũng là một con số rất khiêm tốn, mà cha đã Rửa tội trong những năm qua. Cha luôn gần gủi và quan tâm chia sẻ với anh em đồng bào Kinh, Thượng. Hơn nữa, cha phải phụ trách 1 Giáo xứ đầu tiên có ở Huyện KrôngNô, gồm 13 Giáo họ trong đó: 11 Giáo họ nằm rải rác trong Huyện KrôngNô và 2 Giáo họ ở Huyện Lak, dài trên 100km, địa bàn quá rộng và quá phức tạp, đi lại rất khó khăn. Suốt 34 năm nay bà con khao khát được đi Lễ, học hỏi giáo lý… Mặc dù chưa có nơi thờ phượng, bấy lâu nay phải nhờ vào địa điểm nhà ở ông Trùm. Nay chính quyền công nhận cho thành lập Giáo họ Quảng Phú, vì nhu cầu sinh hoạt Tôn giáo của bà con giáo dân nơi đây, ước mơ sớm có một Ngôi nhà nguyện rất khiêm tốn, nhưng so với khả năng của anh em đồng bào dân tộc thuộc vùng kinh tế mới nghèo đói, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, thiên tai lũ lụt hàng năm, thì đây chỉ là một giấc mơ nếu không được quý ân nhân rộng tình giúp đỡ.
Với chủ đề Năm Thánh “Chính anh em là muối cho đời, ánh sáng cho trần gian” (Mt 5, 13). Như thế, sứ vụ truyền giáo là biết đem Tin Mừng đến cho mọi người. Với thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh, từ biết cho đi, phục vụ vô vị lợi. Và Chúa sẽ biến đổi ta một cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở thành con người mới thực thụ. Để giúp ích cho Giáo Hội cũng như xã hội hôm nay.
Thiếu nhi giáo xứ Phú Bình thi làm hang đá mừng lễ Giáng sinh
Martin Lê Hoàng Vũ
11:33 13/12/2009
SAIGÒN - Ngày 13.12.2009, vào Chúa nhật III Mùa Vọng, đoàn thiếu nhi giáo xứ Phú Bình, hạt Phú Thọ, giáo phận Sài gòn đã có một cuộc thi làm hang đá để mừng đại lễ Giáng sinh và chào mừng Năm hồng ân 2010 của Giáo hội Việt Nam. Mỗi lớp giáo lý trong giáo xứ đã dành cả ngày hôm nay, dưới sự hướng dẫn của các anh chị Huynh Trưởng phụ trách lớp, thực hiện một kiểu hang đá riêng của lớp mình. Trong suy nghĩ đơn sơ của các em, Chúa Giêsu giáng sinh đã đến trong thế giới để chia sẻ với hoàn cảnh riêng của mỗi người.
Hình ảnh cuộc thi đua hang đá
Mỗi kiểu hang đá có một ý nghĩa và những tâm tình các em gửi gắm trong đó qua việc chuẩn bị những chỗ ở cho Chúa Giêsu hài đồng chào đời. Nhìn từng kiểu hang đa của từng lớp giáo lý, chúng ta thấy Chúa Giêsu không những chỉ sinh ra nơi hang bò lừa cổ điển mà còn sinh ra nơi đồng vắng, nơi một môi trường trong sạch không ô nhiễm, và Chúa đến để mang ơn cứu độ cho con người. Chúa đã mở ra nhịp cầu nối liền đất trời. Và với hang đá của lớp lớn nhất trong đoàn thiếu nhi thì đơn giản hơn: các em đặt Chúa Giêsu làm trung tâm ở giữa tất cả mọi sự trong đời sống. Và các em quyết tâm sống như Chúa Giêsu trở nên dễ thương dễ mến với mọi người và làm chứng tá cho Tin mừng. Đó cũng là một trong những ý nghĩa của năm thánh 2010: Giáo hội: Mầu nhiệm – Hiệp thông - Sứ vụ. Một Sứ vu được sai đi trong yêu thương và phục vụ. Chất liệu của hang đá thì vô cùng phong phú, có lớp làm bằng một khúc gỗ, có lớp làm bằng những ly nhựa, vỏ sò…
Đến khoảng 3 giờ chiều, cha Giuse Nguyễn Văn Niệm, chính xứ Phú Bình và ban điều hành Huynh Trưởng đã đến từng kiểu hang đá của mỗi lớp để chấm điểm và nhận xét cho ý kiến.Mở đầu cho phần chấm điểm, với tư cách là ban giám khảo, cha đã nói đến ba tiêu chí để một kiểu hang đá có thể đạt được điểm cao. Kiểu hang đá nào có ý nghĩa nhất. Lời trinh bày giới thiệu phải có tâm tình với Chúa Giêsu hài đồng. Tinh thần đồng đội nề nếp trật tự của một lớp giáo lý khi thực hiện hang đá. Hơn nữa, Cha cũng nhấn mạnh rằng: qua việc làm hang đá chuẩn bị Chúa đến bên ngoài,là một nhắc nhở chúng ta biết ý thức hơn để dọn tâm hồn mình sao cho xứng đáng là nơi Chúa ngự, điều đó mới là quan trọng
Được biết, hằng năm giáo xứ Phú Bình đều tổ chức cho các em thiếu nhi ở các lớp giáo lý thi làm hang đá. Tuy nhiên, năm nay có một điểm mới là các kiểu hang đá này sẽ được mang ra đấu giá để những mạnh thường quân và mọi người trong giáo xứ mua ủng hộ cho quỹ hoạt động của thiếu nhi.
Hình ảnh cuộc thi đua hang đá
Mỗi kiểu hang đá có một ý nghĩa và những tâm tình các em gửi gắm trong đó qua việc chuẩn bị những chỗ ở cho Chúa Giêsu hài đồng chào đời. Nhìn từng kiểu hang đa của từng lớp giáo lý, chúng ta thấy Chúa Giêsu không những chỉ sinh ra nơi hang bò lừa cổ điển mà còn sinh ra nơi đồng vắng, nơi một môi trường trong sạch không ô nhiễm, và Chúa đến để mang ơn cứu độ cho con người. Chúa đã mở ra nhịp cầu nối liền đất trời. Và với hang đá của lớp lớn nhất trong đoàn thiếu nhi thì đơn giản hơn: các em đặt Chúa Giêsu làm trung tâm ở giữa tất cả mọi sự trong đời sống. Và các em quyết tâm sống như Chúa Giêsu trở nên dễ thương dễ mến với mọi người và làm chứng tá cho Tin mừng. Đó cũng là một trong những ý nghĩa của năm thánh 2010: Giáo hội: Mầu nhiệm – Hiệp thông - Sứ vụ. Một Sứ vu được sai đi trong yêu thương và phục vụ. Chất liệu của hang đá thì vô cùng phong phú, có lớp làm bằng một khúc gỗ, có lớp làm bằng những ly nhựa, vỏ sò…
Đến khoảng 3 giờ chiều, cha Giuse Nguyễn Văn Niệm, chính xứ Phú Bình và ban điều hành Huynh Trưởng đã đến từng kiểu hang đá của mỗi lớp để chấm điểm và nhận xét cho ý kiến.Mở đầu cho phần chấm điểm, với tư cách là ban giám khảo, cha đã nói đến ba tiêu chí để một kiểu hang đá có thể đạt được điểm cao. Kiểu hang đá nào có ý nghĩa nhất. Lời trinh bày giới thiệu phải có tâm tình với Chúa Giêsu hài đồng. Tinh thần đồng đội nề nếp trật tự của một lớp giáo lý khi thực hiện hang đá. Hơn nữa, Cha cũng nhấn mạnh rằng: qua việc làm hang đá chuẩn bị Chúa đến bên ngoài,là một nhắc nhở chúng ta biết ý thức hơn để dọn tâm hồn mình sao cho xứng đáng là nơi Chúa ngự, điều đó mới là quan trọng
Được biết, hằng năm giáo xứ Phú Bình đều tổ chức cho các em thiếu nhi ở các lớp giáo lý thi làm hang đá. Tuy nhiên, năm nay có một điểm mới là các kiểu hang đá này sẽ được mang ra đấu giá để những mạnh thường quân và mọi người trong giáo xứ mua ủng hộ cho quỹ hoạt động của thiếu nhi.
Đại Hội Giáo Lý Thiếu Nhi Thánh Thể Sydney
Diệp Hải Dung
11:37 13/12/2009
Đại Hội Giáo Lý Thiếu Nhi Thánh Thể Sydney Sáng Chúa Nhật 13/12/2009 Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Nữ Vương Hòa Bình Sydney đã tổ chức ngày Đại Hội Giáo Lý tại trường La Salle Catholic College Bankstown Sydney.
Xem hình ảnh Đại HộI Giáo Lý
9 giờ tất cả 8 Xứ đoàn Bankstown, Cabramatta, Granville, Lakemba, Marrickville, Miller, Mt. Pritchard và Plumpton tập trung trước sân trường để chào cờ Liên đoàn khai mạc cho ngày Đại Hội Giáo Lý. Sau đó là câu chuyện dưới cờ của Cha Nguyễn Văn Tuyết Tuyên úy Đặc trách Liên đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Nữ Vương Hòa Bình Sydney. Cha ngỏ lời chào mừng tất cả các em đã đến đây tham dự ngày Đại Hội Giáo Lý, Cha chúc các em gặt hái nhiều kết quả trong ngày hôm nay và đồng thời Cha long trọng tuyên bố ngày Đại Hội Giáo Lý chính thức khai mạc. Kế tiếp Sơ Bernadette Đoàn Thị Phục Trợ úy Liên đoàn tuyên đọc Nội Quy của ngày Đại Hội và chương trình thể thức cuộc dự thi, sau đó các em chia ra từng ngành để sinh hoạt, điểm tâm ăn sáng và vào hội trường để dự thi. Chương trình thi Giáo Lý bắt đầu, gồm các ngành Tuổi Thơ, Ấu Nhi, Thiếu Nhi và Nghĩa Sĩ của từng Xứ đoàn lên dự thi. Xứ đoàn Bankstown, XĐ Cabramatta, XĐ Granville, XĐ Lakemba, XĐ Marrickville, XĐ Mt. Pritchard, XĐ Plumpton và XĐ Miller. Cuộc thi rất là hào hứng và vui tươi, với những câu hỏi về Kinh Thánh, Giáo Hội và Phụng Vụ. Các em tỏ ra rất xuất sắc trả lời rất chính xác qua những câu hỏi do Ban Giám Khảo nêu ra. Có những em rất nhạy bén thông minh, đã bấm chuông trước khi câu hỏi nêu ra chưa hết và trả lời rất đúng. Các bậc phụ huynh tán thưởng nồng nhiệt và ngạc nhiên về sự học hiểu của các con em mình. Có những em ngành Ấu Nhi tiếng Việt chưa rành, trả lờI những câu hỏi rất đúng và dí dỏm “ Chúa Giêsu kêu Abba là Bố” làm cả hội trường cùng cười và vỗ tay khen ngợi. Có những bậc phụ huynh nói Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể tổ chức thi Giáo Lý như vầy rất lợi ích và giúp cho các em được sống thánh thiện nhiều hơn.
Sau giờ nghỉ dùng cơm trưa, các em lai tiếp tục cuộc thi và sau đó Cha Nguyễn Văn Tuyết dâng Thánh lễ tạ ơn. Trong bài giảng Cha Tuyết có hỏi trắc nghiệm các em trả rất xuất sắc và Cha cũng nhắc nhở các em Thiếu Nhi luôn cố gắng học hiểu và noi gương theo Chúa Giêsu để sống xứng đáng là Thiếu Nhi Thánh Thể của Chúa. Sau đó Trưởng Hà Kim Ly trong Ban Chấp Hành Liên Đoàn thỉnh đạt thăng cấp cho 17 Dự Trưởng qua nghi thức tuyên thệ trước bàn thờ và được cấp Khăn Quàng và Còi lãnh đạo và đồng thời ra mắt Tân Ban Chấp Hành mới của Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Nữ Vương Hòa Bình TGP Sydney nhiệm kỳ 2009 - 2012.
Trước khi kết thúc Thánh lễ, ông Giang Hoan Chủ tịch CĐCGVN TGP Sydney lên ngỏ lời chúc mừng và khen ngợi các em Thiếu Nhi tỏ ra xuất sắc trong cuộc thi Giáo Lý của Đại Hội, ông chúc mừng các em và khuyến khích các bậc phụ huynh nên dìu dắt nâng đỡ các em. Sơ Trợ uý Miriam Vũ Lành Hải ngỏ lời cám ơn Cha, quý vị Giảng Viên Giáo Lý, quý Quan Khách, quý Phụ Huynh và các Huynh Trưởng đã dành nhiều thời gian quý báu đến tham dự ngày Đại Hội Giáo Lý do LĐ TNTT Nữ Vương Hòa Bình Sydney tổ chức đúc kết cuối năm. Sơ cũng cám ơn quý vị ân nhân đã trợ giúp cho các em về phương tiện di chuyển và nấu ẩm thực. Kế tiếp Cựu Liên Đoàn Trưởng Nguyễn Ngọc Khiêm lên cám ơn quý Cha, quý Sơ, quý Huynh Trưởng và tất cả mọi người đã đến tham dự ngày Đại Hội Giáo Lý rất đông đủ để khuyến khích tinh thần cho các con em, và Trưởng Khiêm bàn giao Tù Và và Ấn Tín của Liên Đoàn cho Tân Liên Đoàn Trưởng, TrưởngGiuse Phùng Hải Sơn. Sau cùng là phần phát Bằng Khen cho các em dự thi và qùa cho các Xứ đoàn. Đặc biệt năm nay Xứ đoàn Thánh Tử Đạo Giuse Tuấn Giáo Đoàn Plumpton nhận giải thưởng xuất sắc nhất Cup Liên Đoàn.
Sau khi kết thúc Thánh lễ là nghi thức bế mạc kết thúc ngày Đại Hội Giáo Lý 2009. Cha Nguyễn Văn Tuyết chúc các em Mùa Giáng Sinh và Năm Mới vui tươi, tràn đầy hồng ân của Chúa Hài Nhi. Diệp Hải Dung
Xem hình ảnh Đại HộI Giáo Lý
9 giờ tất cả 8 Xứ đoàn Bankstown, Cabramatta, Granville, Lakemba, Marrickville, Miller, Mt. Pritchard và Plumpton tập trung trước sân trường để chào cờ Liên đoàn khai mạc cho ngày Đại Hội Giáo Lý. Sau đó là câu chuyện dưới cờ của Cha Nguyễn Văn Tuyết Tuyên úy Đặc trách Liên đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Nữ Vương Hòa Bình Sydney. Cha ngỏ lời chào mừng tất cả các em đã đến đây tham dự ngày Đại Hội Giáo Lý, Cha chúc các em gặt hái nhiều kết quả trong ngày hôm nay và đồng thời Cha long trọng tuyên bố ngày Đại Hội Giáo Lý chính thức khai mạc. Kế tiếp Sơ Bernadette Đoàn Thị Phục Trợ úy Liên đoàn tuyên đọc Nội Quy của ngày Đại Hội và chương trình thể thức cuộc dự thi, sau đó các em chia ra từng ngành để sinh hoạt, điểm tâm ăn sáng và vào hội trường để dự thi. Chương trình thi Giáo Lý bắt đầu, gồm các ngành Tuổi Thơ, Ấu Nhi, Thiếu Nhi và Nghĩa Sĩ của từng Xứ đoàn lên dự thi. Xứ đoàn Bankstown, XĐ Cabramatta, XĐ Granville, XĐ Lakemba, XĐ Marrickville, XĐ Mt. Pritchard, XĐ Plumpton và XĐ Miller. Cuộc thi rất là hào hứng và vui tươi, với những câu hỏi về Kinh Thánh, Giáo Hội và Phụng Vụ. Các em tỏ ra rất xuất sắc trả lời rất chính xác qua những câu hỏi do Ban Giám Khảo nêu ra. Có những em rất nhạy bén thông minh, đã bấm chuông trước khi câu hỏi nêu ra chưa hết và trả lời rất đúng. Các bậc phụ huynh tán thưởng nồng nhiệt và ngạc nhiên về sự học hiểu của các con em mình. Có những em ngành Ấu Nhi tiếng Việt chưa rành, trả lờI những câu hỏi rất đúng và dí dỏm “ Chúa Giêsu kêu Abba là Bố” làm cả hội trường cùng cười và vỗ tay khen ngợi. Có những bậc phụ huynh nói Phong Trào Thiếu Nhi Thánh Thể tổ chức thi Giáo Lý như vầy rất lợi ích và giúp cho các em được sống thánh thiện nhiều hơn.
Sau giờ nghỉ dùng cơm trưa, các em lai tiếp tục cuộc thi và sau đó Cha Nguyễn Văn Tuyết dâng Thánh lễ tạ ơn. Trong bài giảng Cha Tuyết có hỏi trắc nghiệm các em trả rất xuất sắc và Cha cũng nhắc nhở các em Thiếu Nhi luôn cố gắng học hiểu và noi gương theo Chúa Giêsu để sống xứng đáng là Thiếu Nhi Thánh Thể của Chúa. Sau đó Trưởng Hà Kim Ly trong Ban Chấp Hành Liên Đoàn thỉnh đạt thăng cấp cho 17 Dự Trưởng qua nghi thức tuyên thệ trước bàn thờ và được cấp Khăn Quàng và Còi lãnh đạo và đồng thời ra mắt Tân Ban Chấp Hành mới của Liên Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Nữ Vương Hòa Bình TGP Sydney nhiệm kỳ 2009 - 2012.
Trước khi kết thúc Thánh lễ, ông Giang Hoan Chủ tịch CĐCGVN TGP Sydney lên ngỏ lời chúc mừng và khen ngợi các em Thiếu Nhi tỏ ra xuất sắc trong cuộc thi Giáo Lý của Đại Hội, ông chúc mừng các em và khuyến khích các bậc phụ huynh nên dìu dắt nâng đỡ các em. Sơ Trợ uý Miriam Vũ Lành Hải ngỏ lời cám ơn Cha, quý vị Giảng Viên Giáo Lý, quý Quan Khách, quý Phụ Huynh và các Huynh Trưởng đã dành nhiều thời gian quý báu đến tham dự ngày Đại Hội Giáo Lý do LĐ TNTT Nữ Vương Hòa Bình Sydney tổ chức đúc kết cuối năm. Sơ cũng cám ơn quý vị ân nhân đã trợ giúp cho các em về phương tiện di chuyển và nấu ẩm thực. Kế tiếp Cựu Liên Đoàn Trưởng Nguyễn Ngọc Khiêm lên cám ơn quý Cha, quý Sơ, quý Huynh Trưởng và tất cả mọi người đã đến tham dự ngày Đại Hội Giáo Lý rất đông đủ để khuyến khích tinh thần cho các con em, và Trưởng Khiêm bàn giao Tù Và và Ấn Tín của Liên Đoàn cho Tân Liên Đoàn Trưởng, TrưởngGiuse Phùng Hải Sơn. Sau cùng là phần phát Bằng Khen cho các em dự thi và qùa cho các Xứ đoàn. Đặc biệt năm nay Xứ đoàn Thánh Tử Đạo Giuse Tuấn Giáo Đoàn Plumpton nhận giải thưởng xuất sắc nhất Cup Liên Đoàn.
Sau khi kết thúc Thánh lễ là nghi thức bế mạc kết thúc ngày Đại Hội Giáo Lý 2009. Cha Nguyễn Văn Tuyết chúc các em Mùa Giáng Sinh và Năm Mới vui tươi, tràn đầy hồng ân của Chúa Hài Nhi. Diệp Hải Dung
Đức Cha Thái Bình viếng thăm mục vụ giáo xứ Võng Phan
Trường Giang
11:41 13/12/2009
THÁI BÌNH - Sáng nay, Chúa Nhật 13/12/2009, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ viếng thăm mục vụ và ban bí tích thêm sức cho 69 em thuộc ba giáo xứ Võng Phan, Thụy Lôi và An Vỹ, tại nhà thờ Võng Phan nhân ngày chầu lượt của giáo xứ.
Võng Phan là một giáo xứ nằm ven sông Hồng, thuộc xã Tống Trân, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Võng Phan có 4 giáo họ: họ Nhà Xứ, họ Điềm Xá, họ Mai Xá và họ An Cầu, với tổng số giáo dân là 800 người, cha Giuse Trịnh Tiến Thành đang trực tiếp coi sóc và làm mục vụ tại đây.
Qua một tiến trình học giáo lý trong nhiều năm, đến nay các em ở ba giáo xứ Võng Phan, Thụy Lôi và An Vỹ đã hội đủ điều kiện để lãnh nhận bí tích thêm sức, trong dịp thăm viếng đoàn chiên Võng Phan nhằm vào ngày chầu lượt của giáo xứ, Đức cha giáo phận đã ban bí tích thêm sức cho các em.
Vượt chặng đường dài gần 70km, 8h45 Đức cha về tới giáo xứ, ra đón vị chủ chăn có cha Giuse Thành và cha Giuse Nguyễn Thanh Ngư, phó xứ Thụy Lôi, đoàn kèn nữ giáo xứ Thượng Phúc, Cam Châu, đội trống xứ Võng Phan và nhiều đoàn hội trong giáo xứ hân hoan đón mừng người cha kính yêu của mình.
Trong bài giảng thánh lễ hôm nay Đức cha đặt câu hỏi như chất vấn mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận, Giám mục, linh mục, tu sỹ và giáo dân đã chuẩn bị tiếp đón Chúa Cứu Thế đến trần gian như thế nào? Đức cha trích lời rao giảng của thánh Gioan Tiền Hô: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3,11), và ngài quảng diễn thêm “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống…” (Mt 25,35). Chúng ta đã quảng đại chia sẻ cho những người nghèo khó được những gì chưa, ta có thoát ra khỏi sự ích kỷ của chính ta để bác ái với người khác chưa? Nếu chưa đạt tới đức bác ái thì hãy sống sao cho công bằng, đừng làm thiệt hại ai, đừng nói xấu ai. Cuối bài giảng Đức cha khuyên và động viên khích lệ các em lãnh nhận bí tích thêm sức hôm nay, các con là những người đang độ khôn lớn, các con hãy can đảm đững vững để vượt thắng những thử thách, những cám dỗ ở đời đang rình rập các con. Ngoài sự trợ giúp của cha mẹ, các con hãy tin vào Chúa Thánh Thần, Người là bạn tri kỷ luôn ở và đồng hành với các con và dạy bảo các con mọi điều.
Các em lãnh nhận bí tích thêm sức hôm nay, các em đã có một thời gian chuẩn bị tâm hồn và tinh thần đón nhận Chúa Thánh Thần cách kỹ lưỡng và sốt sáng, thể hiện qua việc các em tuyên xưng thật xác tín những điều Giáo Hội dạy khi Đức cha chủ tế thẩm vấn các em. Khi cha xứ đại diện cho các em và cha mẹ các em cám ơn Đức cha giáo phận, tất cả các em đứng dậy nghiêm trang hiệp trong lời tạ ơn và xin hứa sẽ sống xứng đáng là người kitô hữu đích thực, dấn thân phục vụ Chúa và Giáo Hội cách nhiệt thành, để Nước Chúa mỗi ngày một lan rộng tới hết tất cả mọi người trên thế giới.
![]() |
Qua một tiến trình học giáo lý trong nhiều năm, đến nay các em ở ba giáo xứ Võng Phan, Thụy Lôi và An Vỹ đã hội đủ điều kiện để lãnh nhận bí tích thêm sức, trong dịp thăm viếng đoàn chiên Võng Phan nhằm vào ngày chầu lượt của giáo xứ, Đức cha giáo phận đã ban bí tích thêm sức cho các em.
Vượt chặng đường dài gần 70km, 8h45 Đức cha về tới giáo xứ, ra đón vị chủ chăn có cha Giuse Thành và cha Giuse Nguyễn Thanh Ngư, phó xứ Thụy Lôi, đoàn kèn nữ giáo xứ Thượng Phúc, Cam Châu, đội trống xứ Võng Phan và nhiều đoàn hội trong giáo xứ hân hoan đón mừng người cha kính yêu của mình.
Trong bài giảng thánh lễ hôm nay Đức cha đặt câu hỏi như chất vấn mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận, Giám mục, linh mục, tu sỹ và giáo dân đã chuẩn bị tiếp đón Chúa Cứu Thế đến trần gian như thế nào? Đức cha trích lời rao giảng của thánh Gioan Tiền Hô: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy” (Lc 3,11), và ngài quảng diễn thêm “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống…” (Mt 25,35). Chúng ta đã quảng đại chia sẻ cho những người nghèo khó được những gì chưa, ta có thoát ra khỏi sự ích kỷ của chính ta để bác ái với người khác chưa? Nếu chưa đạt tới đức bác ái thì hãy sống sao cho công bằng, đừng làm thiệt hại ai, đừng nói xấu ai. Cuối bài giảng Đức cha khuyên và động viên khích lệ các em lãnh nhận bí tích thêm sức hôm nay, các con là những người đang độ khôn lớn, các con hãy can đảm đững vững để vượt thắng những thử thách, những cám dỗ ở đời đang rình rập các con. Ngoài sự trợ giúp của cha mẹ, các con hãy tin vào Chúa Thánh Thần, Người là bạn tri kỷ luôn ở và đồng hành với các con và dạy bảo các con mọi điều.
Các em lãnh nhận bí tích thêm sức hôm nay, các em đã có một thời gian chuẩn bị tâm hồn và tinh thần đón nhận Chúa Thánh Thần cách kỹ lưỡng và sốt sáng, thể hiện qua việc các em tuyên xưng thật xác tín những điều Giáo Hội dạy khi Đức cha chủ tế thẩm vấn các em. Khi cha xứ đại diện cho các em và cha mẹ các em cám ơn Đức cha giáo phận, tất cả các em đứng dậy nghiêm trang hiệp trong lời tạ ơn và xin hứa sẽ sống xứng đáng là người kitô hữu đích thực, dấn thân phục vụ Chúa và Giáo Hội cách nhiệt thành, để Nước Chúa mỗi ngày một lan rộng tới hết tất cả mọi người trên thế giới.
Liên tu sĩ Việt Nam tại Paris tĩnh tâm mùa Vọng 2009
Ánh Minh Đăng
11:53 13/12/2009
PARIS - thứ bảy, 12/12/2009, tiết trời se lạnh, gió đông tràn về, nhưng cũng không ngăn nổi những bước chân rộn ràng của linh mục tu sĩ Việt Nam đang du học, làm viêc tại Paris hướng về giáo xứ Vinh Sơn, Clichy, ngoại ô thành phố để tĩnh tâm mùa Vọng.
Từ sáng sớm tinh sương, cha chủ tịch hội liên tu sĩ Pr Phạm Ðình Thắng và cha chủ nhà cũng là cha giảng phòng lần này, là cha Giuse Nguyên Văn Diên, cùng các anh chị trong ban tổ chức đã dọn dẹp phòng ốc và công tác chuẩn bị đón tiếp anh chị em.
Hình ảnh ấn tượng đầu tiên của buổi tiếp đón, đó là ban tiếp tân tươi cười đón chào quý linh mục, tu sĩ ngay trước khuôn viên nhà thờ, gần bằng tên trên ngực áo mọi người và hướng dẫn vào phòng khánh tiết để cùng nhau nhâm nhi ly trà, tách café ấm nóng. Tuy đơn sơ nhưng rộn rã tiếng cươi vui chào hỏi, đã làm ấm lên trong tim mọi người tình thân nơi viễn xứ, anh chị em con cùng một cha chung một mái nhà và cùng một cội nguồn quê hương đất Việt.
Buổi tĩnh tâm hôm nay được khai mạc bằng giờ kinh phụng vụ. « Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con, muôn lạy Chúa xin mau phù trợ… ». Lời cầu xin của Giáo hội tha thiết vang lên trên môi miệng của quý anh chị em như làm sống lại khung trời kỷ niệm ngày nào nơi quê nhà Việt Nam xa xôi. Những giờ phút kinh nguyện trầm lắng, linh thiêng với cộng đoàn, chủng viện, dòng tu…mà mỗi người đã từng trải nghiệm và gắn bó.
Lời cha giảng phòng nhẹ nhàng mà tha thiết, đơn sơ mà dí dỏm, cứ chậm rãi đều đều đưa người nghe khám phá ơn gọi huyền nhiệm với ba hành trình: Hành trình niềm tin, hành trình yêu thương và hành trình hy vọng.
Hành trình niềm tin: một niềm tin vào Thiên Chúa là Cha, đã tuyển chọn và trao phó cho ta một ơn gọi đặc biệt, nên thánh giữa dòng đời, chẳng phải ta đã chọn Chúa nhưng chính Ngài đã chọn ta. Cũng chẳng phải cha đi tu để hoán cải người khác, nhưng trước tiên phải là sửa đổi chính mình.
Hành trình yêu thương: từ niềm tin đã có đưa đến một hành trình lan tỏa tình yêu. Yêu nhiều, yêu mãi, yêu nữa, yêu thêm và yêu đến cùng. Yêu thương là dấu chỉ và bằng chứng rõ ràng nhất cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa trần gian.
Hành trình hy vọng: hy vọng và phó thác, tin tưởng và cậy trông. Không biết ngày mai ra sao nhưng hoàn toàn phó thác và hy vọng trong tay Chúa, vì chính Ngài biết rõ mọi nẻo đường ta đi, chính Ngài sẽ dẫn đưa và dìu ta bước tới. Ði bên Ngài ta không sợ hãi chi và không lo lắng gì.
Ai cũng cảm thấy thích thú với cách nói chuyện hiền lành và dễ thương của cha. Hơn 50 năm tuổi đời, đã qua 25 năm linh mục, nhưng cha vẫn giữ được tâm hồn đơn sơ, vui tươi và khiêm tốn.
Sau bài giảng, là giờ chầu Thánh Thể. Những giây phút thầm lặng bên Chúa như lấy thêm sức mạnh và hơi ấm cho tâm hồn. Mọi người nhìn lại hành trang cuộc đời với biết bao ơn Thánh được ban với tâm tình tri ân cảm mến.
Kết thúc giờ chầu Chúa, cũng là lúc giờ ăn trưa đã điểm. Anh chị em quây quần bên nhau trong bữa cơm thân mật với những món ăn bình dân mà đậm đà tình quê hương. Bữa cơm càng rôm rả hơn với những màn đối đáp hài hước, vui tươi thật thân tình.
Buổi tĩnh tâm được tiếp nối với phần chia sẻ thảo luận nhóm. Các thành viên hào hứng chia sẻ cho nhau những kinh nghiệm và những thao thức trong cuộc sống hàng ngày. Ai ai cũng cảm thấy ấm áp, được quan tâm, được yêu thương, được kêu gọi và tuyển chọn cách đặc biệt huyền nhiệm.
Ðỉnh cao của ngày hôm nay là thánh lễ. Anh chị em cùng hiệp thông dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ. Ðặc biệt hướng về Giáo Hội mẹ Việt Nam nhân dịp năm thánh kỷ niệm 350 năm Tin Mừng được đón nhận và 60 năm thành lập hàng giáo phẩm, cũng như cầu nguyện cho toàn thể các linh mục trên thế giới.
Những tâm tình cầu nguyện sốt sắng vang lên trong ngôi nguyện đường nhỏ bé như truyền cho nhau hơi ấm và tiếp thêm sức mạnh cho bước chân người lữ khách.
Trong bài giảng, cha Ðaminh Tuấn Anh đã chia sẻ về cuộc đời của các vị Tiên Tri trong Cựu Ước. Dù cuộc đời không phải lúc nào cũng dễ dàng bằng phẳng, nhưng với một lòng tín thác và trung thành với ơn gọi, các ngài đã can đảm vượt qua mọi khó khăn thử thách để làm chứng cho Chúa. Ðó mãi là những mẫu gương cho tất cả chúng ta
Thời gian chầm chậm trôi đi. Trời đã về chiều. Ngày tĩnh tâm đã kết thúc. Mọi người chia tay nhau ra về trong tâm tình gắn bó yêu thương và hiệp nhất. Không cần nói nhưng ai cũng biết rằng, mọi người vừa có được những giây phút tuyệt vời bên Chúa và bên nhau, những giây phút ấy tuy ngắn ngủi không nhiều, nhưng cũng đủ làm cho tâm hồn và con tim của anh chi em linh mục tu sĩ Việt Nam tại Paris ấm lên giữa trời đông lạnh giá.
Anh chị em ơi, xa mặt nhưng không cách lòng, xin tạm biệt và hẹn gặp lại lần sau nhé!
Từ sáng sớm tinh sương, cha chủ tịch hội liên tu sĩ Pr Phạm Ðình Thắng và cha chủ nhà cũng là cha giảng phòng lần này, là cha Giuse Nguyên Văn Diên, cùng các anh chị trong ban tổ chức đã dọn dẹp phòng ốc và công tác chuẩn bị đón tiếp anh chị em.
Hình ảnh ấn tượng đầu tiên của buổi tiếp đón, đó là ban tiếp tân tươi cười đón chào quý linh mục, tu sĩ ngay trước khuôn viên nhà thờ, gần bằng tên trên ngực áo mọi người và hướng dẫn vào phòng khánh tiết để cùng nhau nhâm nhi ly trà, tách café ấm nóng. Tuy đơn sơ nhưng rộn rã tiếng cươi vui chào hỏi, đã làm ấm lên trong tim mọi người tình thân nơi viễn xứ, anh chị em con cùng một cha chung một mái nhà và cùng một cội nguồn quê hương đất Việt.
Buổi tĩnh tâm hôm nay được khai mạc bằng giờ kinh phụng vụ. « Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con, muôn lạy Chúa xin mau phù trợ… ». Lời cầu xin của Giáo hội tha thiết vang lên trên môi miệng của quý anh chị em như làm sống lại khung trời kỷ niệm ngày nào nơi quê nhà Việt Nam xa xôi. Những giờ phút kinh nguyện trầm lắng, linh thiêng với cộng đoàn, chủng viện, dòng tu…mà mỗi người đã từng trải nghiệm và gắn bó.
Lời cha giảng phòng nhẹ nhàng mà tha thiết, đơn sơ mà dí dỏm, cứ chậm rãi đều đều đưa người nghe khám phá ơn gọi huyền nhiệm với ba hành trình: Hành trình niềm tin, hành trình yêu thương và hành trình hy vọng.
Hành trình niềm tin: một niềm tin vào Thiên Chúa là Cha, đã tuyển chọn và trao phó cho ta một ơn gọi đặc biệt, nên thánh giữa dòng đời, chẳng phải ta đã chọn Chúa nhưng chính Ngài đã chọn ta. Cũng chẳng phải cha đi tu để hoán cải người khác, nhưng trước tiên phải là sửa đổi chính mình.
Hành trình yêu thương: từ niềm tin đã có đưa đến một hành trình lan tỏa tình yêu. Yêu nhiều, yêu mãi, yêu nữa, yêu thêm và yêu đến cùng. Yêu thương là dấu chỉ và bằng chứng rõ ràng nhất cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa trần gian.
Hành trình hy vọng: hy vọng và phó thác, tin tưởng và cậy trông. Không biết ngày mai ra sao nhưng hoàn toàn phó thác và hy vọng trong tay Chúa, vì chính Ngài biết rõ mọi nẻo đường ta đi, chính Ngài sẽ dẫn đưa và dìu ta bước tới. Ði bên Ngài ta không sợ hãi chi và không lo lắng gì.
Ai cũng cảm thấy thích thú với cách nói chuyện hiền lành và dễ thương của cha. Hơn 50 năm tuổi đời, đã qua 25 năm linh mục, nhưng cha vẫn giữ được tâm hồn đơn sơ, vui tươi và khiêm tốn.
Sau bài giảng, là giờ chầu Thánh Thể. Những giây phút thầm lặng bên Chúa như lấy thêm sức mạnh và hơi ấm cho tâm hồn. Mọi người nhìn lại hành trang cuộc đời với biết bao ơn Thánh được ban với tâm tình tri ân cảm mến.
Kết thúc giờ chầu Chúa, cũng là lúc giờ ăn trưa đã điểm. Anh chị em quây quần bên nhau trong bữa cơm thân mật với những món ăn bình dân mà đậm đà tình quê hương. Bữa cơm càng rôm rả hơn với những màn đối đáp hài hước, vui tươi thật thân tình.
Buổi tĩnh tâm được tiếp nối với phần chia sẻ thảo luận nhóm. Các thành viên hào hứng chia sẻ cho nhau những kinh nghiệm và những thao thức trong cuộc sống hàng ngày. Ai ai cũng cảm thấy ấm áp, được quan tâm, được yêu thương, được kêu gọi và tuyển chọn cách đặc biệt huyền nhiệm.
Ðỉnh cao của ngày hôm nay là thánh lễ. Anh chị em cùng hiệp thông dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ. Ðặc biệt hướng về Giáo Hội mẹ Việt Nam nhân dịp năm thánh kỷ niệm 350 năm Tin Mừng được đón nhận và 60 năm thành lập hàng giáo phẩm, cũng như cầu nguyện cho toàn thể các linh mục trên thế giới.
Những tâm tình cầu nguyện sốt sắng vang lên trong ngôi nguyện đường nhỏ bé như truyền cho nhau hơi ấm và tiếp thêm sức mạnh cho bước chân người lữ khách.
Trong bài giảng, cha Ðaminh Tuấn Anh đã chia sẻ về cuộc đời của các vị Tiên Tri trong Cựu Ước. Dù cuộc đời không phải lúc nào cũng dễ dàng bằng phẳng, nhưng với một lòng tín thác và trung thành với ơn gọi, các ngài đã can đảm vượt qua mọi khó khăn thử thách để làm chứng cho Chúa. Ðó mãi là những mẫu gương cho tất cả chúng ta
Thời gian chầm chậm trôi đi. Trời đã về chiều. Ngày tĩnh tâm đã kết thúc. Mọi người chia tay nhau ra về trong tâm tình gắn bó yêu thương và hiệp nhất. Không cần nói nhưng ai cũng biết rằng, mọi người vừa có được những giây phút tuyệt vời bên Chúa và bên nhau, những giây phút ấy tuy ngắn ngủi không nhiều, nhưng cũng đủ làm cho tâm hồn và con tim của anh chi em linh mục tu sĩ Việt Nam tại Paris ấm lên giữa trời đông lạnh giá.
Anh chị em ơi, xa mặt nhưng không cách lòng, xin tạm biệt và hẹn gặp lại lần sau nhé!
Thánh Lễ Ban Bí tích Thêm Sức và Rước Lễ Lần Đầu tại giáo xứ Thánh Tịnh, Sài Gòn
Phêrô Nguyễn Quang Ngọc
13:02 13/12/2009
SAIGÒN - Sáng Chúa Nhật vào lúc 6h30 ngày 13.12.2009, tại Giáo xứ Thánh Tịnh (số 47/57 Nguyễn Văn Đậu, Phường 6, Quận Bình Thạnh) hạt Gia Định, Tổng Giáo Phận Sài Gòn. Đức Cha Phụ Tá Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã đến dâng Thánh Lễ Ban Bí Tích Thêm Sức và Rước Lễ Lần Đầu. Các em Thiếu Nhi, các anh chị Giáo Lý Viên, cá bà mẹ Công giáo,quý Hội Đồng Mục Vụ, quý phụ huynh cùng cộng đoàn đã xếp hàng đón Đức Cha Phụ tá từ cổng vào tiền sảnh nhà thờ. Tiếng vỗ tay, tiếng chiêng âm vang cùng tiếng chuông nhà thờ đổ liên hồi, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Các nữ tu cùng cộng đoàn dân Chúa trong Giáo xứ dự Lễ, ngồi chật kín nhà thờ.
Hình ảnh Thánh lễ
Trước Thánh Lễ, chị Giáo Lý Viên đọc bài dẫn Lễ: Hôm nay, Giáo xứ Thánh Tịnh chúng ta họp nhau nơi đây, để cùng với Đức Giám Mục dâng Lễ Tạ Ơn, vì Chúa đã thương ban cho Giáo xứ chúng ta hôm nay được: 25 em Rước Lễ Lần Đầu, 48 em Lãnh Nhận Bí Tích Thêm Sức.
Với các em Rước Lễ Lần Đầu.
Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích tình yêu, vì Người yêu thương chúng ta, nên trong Bữa Tiệc Ly vào buổi chiều thứ Năm Tuần Thánh, Chúa Giêsu đã thực hiện một phép lạ kỳ diệu là: làm cho bánh, rượu trở thành Mình và Máu Thánh Chúa, để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta, như lời Chúa phán: “ Thịt ta Thật Là Của Ăn, Máu Ta Thật Là Của Uống, Ai Ăn Thịt và Uống Máu Ta sẽ được sống đời đời.”
Hôm nay, 25 em sẽ được diễm phúc Rước Mình Thánh Chúa lần đầu tiên, sau bao ngày thánh học hỏi, khao khát, đợi chờ.
Hiệp với tâm tình khát khao, yêu mến, đơn sơ của các em, chúng ta hãy cầu nguyện thật nhiều cho các em.Ước gì nhờ lời cầu nguyện và gương sáng của chúng ta, cách riêng của các bậc phụ huynh, sẽ giúp các em được thêm lòng yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, yêu mến Thánh Lễ, siêng năng đi Lễ hằng ngày, để nhờ Chúa Giêsu, với Chúa Giêsu và trong Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến.
Với các em Lãnh Bí Tích Thêm Sức
Chúa Thánh Thần mà các Thánh Tông Đồ lãnh nhận trong ngày Lễ Hiện Xuống và chúng ta lãnh nhận trong Bí Tích Thêm Sức chính là Đấng Chúa Giêsu đã hứa: “ Thầy sẽ xin với Cha Thầy và Ngài sẽ ban cho chúng con một Đấng phù hộ khác, để ở với chúng con luôn mãi, đó là Thần Chân Lý.”(Gioan 14,16).
48 em Lãnh Nhận Bí Tích Thêm Sức, sau nhiều ngày tháng chuyên can học hỏi, chuan bị, trông đợi. Trông đợi như xưa kia các Thánh Tông Đồ cùng với Mẹ Maria khao khát chờ đón Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần vào Đền Thờ Tâm Hồn của mình, để con người của mình được canh tân, được đổi mới.
Hiệp với tâm tình khao khát của các em, chúng ta cùng nhau sốt sắng cầu nguyện cho các em được lãnh nhận dồi dào bảy ơn Chúa Thánh Thần.
Ước gì nhờ lời cầu nguyện và gương sáng Đức Tin sống động của chúng ta và nhất là của các bậc phụ huynh và các vị đỡ đầu, giúp các em càng ngày càng trở nên Men, Muối và Ánh Sáng để làm chứng nhân cho Chúa Giêsu, giữa lòng Xã Hội.
Thánh Lễ bắt đầu vào lúc 7giờ sáng, Cả cộng đoàn dân Chúa cùng sốt sắng hiệp dângThánh Lễ trong tâm tình tạ ơn Chúa và cầu nguyện cho các em trong ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức và Rước Lễ Lần Đầu.để các em trở thành những chứng nhân trung kiên cho Đức Kitô.
Trong bài giảng, Đức Cha Phụ tá đã nhấn mạnh Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và Chúa sai chúng ta đi loan báo tin mừng bằng cách chúng con yêu thương hiệp nhất với nhau.
Cuối Thánh Lễ, Ông Chánh trương Giuse Nguyễn Văn Huấn thay mặt cho Hội Đồng Mục Vụ cám ơn Đức Cha Phụ tá, quý Soeurs … đã về hiệp dâng Thánh Lễ long trọng hôm nay và một em Thiếu nhi dâng lên Đức Cha bó hoa tươi thắm và những tràn pháo tay với cả tâm tình tri ân.
Hình ảnh Thánh lễ
Trước Thánh Lễ, chị Giáo Lý Viên đọc bài dẫn Lễ: Hôm nay, Giáo xứ Thánh Tịnh chúng ta họp nhau nơi đây, để cùng với Đức Giám Mục dâng Lễ Tạ Ơn, vì Chúa đã thương ban cho Giáo xứ chúng ta hôm nay được: 25 em Rước Lễ Lần Đầu, 48 em Lãnh Nhận Bí Tích Thêm Sức.
Với các em Rước Lễ Lần Đầu.
Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích tình yêu, vì Người yêu thương chúng ta, nên trong Bữa Tiệc Ly vào buổi chiều thứ Năm Tuần Thánh, Chúa Giêsu đã thực hiện một phép lạ kỳ diệu là: làm cho bánh, rượu trở thành Mình và Máu Thánh Chúa, để làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta, như lời Chúa phán: “ Thịt ta Thật Là Của Ăn, Máu Ta Thật Là Của Uống, Ai Ăn Thịt và Uống Máu Ta sẽ được sống đời đời.”
Hôm nay, 25 em sẽ được diễm phúc Rước Mình Thánh Chúa lần đầu tiên, sau bao ngày thánh học hỏi, khao khát, đợi chờ.
Hiệp với tâm tình khát khao, yêu mến, đơn sơ của các em, chúng ta hãy cầu nguyện thật nhiều cho các em.Ước gì nhờ lời cầu nguyện và gương sáng của chúng ta, cách riêng của các bậc phụ huynh, sẽ giúp các em được thêm lòng yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, yêu mến Thánh Lễ, siêng năng đi Lễ hằng ngày, để nhờ Chúa Giêsu, với Chúa Giêsu và trong Đức Tin, Đức Cậy, Đức Mến.
Với các em Lãnh Bí Tích Thêm Sức
Chúa Thánh Thần mà các Thánh Tông Đồ lãnh nhận trong ngày Lễ Hiện Xuống và chúng ta lãnh nhận trong Bí Tích Thêm Sức chính là Đấng Chúa Giêsu đã hứa: “ Thầy sẽ xin với Cha Thầy và Ngài sẽ ban cho chúng con một Đấng phù hộ khác, để ở với chúng con luôn mãi, đó là Thần Chân Lý.”(Gioan 14,16).
48 em Lãnh Nhận Bí Tích Thêm Sức, sau nhiều ngày tháng chuyên can học hỏi, chuan bị, trông đợi. Trông đợi như xưa kia các Thánh Tông Đồ cùng với Mẹ Maria khao khát chờ đón Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần vào Đền Thờ Tâm Hồn của mình, để con người của mình được canh tân, được đổi mới.
Hiệp với tâm tình khao khát của các em, chúng ta cùng nhau sốt sắng cầu nguyện cho các em được lãnh nhận dồi dào bảy ơn Chúa Thánh Thần.
Ước gì nhờ lời cầu nguyện và gương sáng Đức Tin sống động của chúng ta và nhất là của các bậc phụ huynh và các vị đỡ đầu, giúp các em càng ngày càng trở nên Men, Muối và Ánh Sáng để làm chứng nhân cho Chúa Giêsu, giữa lòng Xã Hội.
Thánh Lễ bắt đầu vào lúc 7giờ sáng, Cả cộng đoàn dân Chúa cùng sốt sắng hiệp dângThánh Lễ trong tâm tình tạ ơn Chúa và cầu nguyện cho các em trong ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức và Rước Lễ Lần Đầu.để các em trở thành những chứng nhân trung kiên cho Đức Kitô.
Trong bài giảng, Đức Cha Phụ tá đã nhấn mạnh Chúa Thánh Thần ngự xuống trên chúng ta và Chúa sai chúng ta đi loan báo tin mừng bằng cách chúng con yêu thương hiệp nhất với nhau.
Cuối Thánh Lễ, Ông Chánh trương Giuse Nguyễn Văn Huấn thay mặt cho Hội Đồng Mục Vụ cám ơn Đức Cha Phụ tá, quý Soeurs … đã về hiệp dâng Thánh Lễ long trọng hôm nay và một em Thiếu nhi dâng lên Đức Cha bó hoa tươi thắm và những tràn pháo tay với cả tâm tình tri ân.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Đức Maria Qua Các Thời Đại (6)
Vũ Văn An
23:57 13/12/2009
Chương năm: Nữ Anh Thư Trong Kô-răng Và Đức Bà Đen
Em đen và em đẹp
- Diễm Ca 1:5 (theo cách dịch của Marvin Pope)
Một trong các vai trò sâu sắc và lâu bền nhất của Trinh Nữ Ma-ri-a trong lịch sử là chức phận bắc cầu qua các truyền thống, cá nền văn hóa và tôn giáo khác của Ngài. Người bắc cầu là kiểu nói pontifex của tiếng Latinh, một tước hiệu tư tế trong tôn giáo La Mã ngày xưa. Và trong việc thần hóa các hoàng đế, người La Mã dành tước hiệu pontifex maximus cho các vị này. Vì thế, tước hiệu ấy bị các hoàng đế Kitô Giáo từ khước từ thế kỷ thứ tư. Nhưng chẳng bao lâu sau, nó được các giám mục và tổng giám mục Kitô Giáo tiếp nhận. Mãi sau này nó mới trở thành tước hiệu dành riêng cho Giám Mục Rô Ma (1). Tuy nhiên quan niệm pontifex có một hàm ý rộng rãi hơn nhiều. Vì tựu trung, nó áp dụng cho mọi quan niệm và nhân vật mà sứ điệp cũng như tầm ý nghĩa căn bản chỉ được diễn tả tốt hơn bằng mô thức cả/và (both/and) hơn là mô thức hoặc là/hay là (either/or). Một trong những quan niệm ấy là phong trào đơn tu, từng có mặt trong khá nhiều truyền thống riêng rẽ và từng cho thấy những tương đồng kỳ diệu cũng như những dị biệt lịch sử đáng kể (2). Trong mấy thập niên qua, các cố gắng để vun trồng các trao đổi, nhất là giữa phong trào đơn tu Kitô Giáo và Phật giáo đã thực hiện được những khai phá đáng kể và Thomas Merton, một đan sĩ dòng Trappist và là một tác giả linh đạo, là người đang dấn thân vào “cuộc hành trình vượt biên” ấy lúc ông qua đời năm 1968 (3). Bất cứ khi nào các phản đề hoặc là/hay là ở mọi bình diện có nguy cơ bùng nổ thành những lò sát sinh tập thể (holocaust), người ta lại thấy một nhu cầu cấp thiết phải nhận dạng và vun sưới cho được những quan niệm và nhân cách bắc cầu kia.
Có lẽ không có phản đề nào có hệ quả tầm xa bằng liên hệ giữa mọi thành phần khác của thế giới và cái được mệnh danh là “thế giới Hồi Giáo” (một đối tác của Thế giới Kitô Giáo), là thế giới hiện có hơn một tỉ tín đồ. Chính vì thế cái nhu cầu cần phải có những người bắc cầu kia đang trở nên hết sức khẩn trương và nhói tim để hiểu cho được cái tôn giáo của tiên tri Muhammad và cái sứ điệp quan trọng của Kô-răng, trong khi sự mù mờ căn bản của các giới học thức Tây Phương đối với tôn giáo và sứ điệp này không những thẳm sâu mà còn quá kinh hãi nữa. Nền tảng của đức tin Hồi Giáo là một loạt những mạc khải của Thiên Chúa bắt đầu từ năm 610 và tiếp diễn đến gần cuối đời của vị tiên tri vào năm 632 (4). Ðối với người Hồi Giáo chính thống, những mạc khải này là tiếng nói của chính Thiên Chúa. Trong đó, Muhammad được nhắc đến như là: “lòng từ nhân đối với tạo vật trần gian”, với sứ điệp phải nói rằng: “Ðây là điều đã được mạc khải cho tôi: ‘Thiên Chúa của ngươi là một và duy nhất’ “(5). Muhammad học thuộc lòng nhiều mạc khải như thế, và các đồ đệ của ông sau này cũng vậy; nhiều điều khác được viết xuống ngay, bằng bất cứ phương tiện nào có sẵn. Thu thập bộ Kô-răng được kể là công của Abu Bakr, đệ nhất khalíp (kế vị), còn việc tiêu chuẩn hóa bản văn là công của Uthman, đệ tam khalíp, người đã lập bản văn của Medina thành bản qui phạm, đồng thời cũng ấn định thứ tự của 114 chương hay surah, ít nhiều theo thứ tự từ dài nhất đến ngắn nhất. Nhiều học giả Tây Phương thường nghĩ rằng Kô-răng, trong hình thức như hiện nay, bắt đầu thành hình khoảng năm 650 nhưng mãi đến thế kỷ thứ 10, bản văn mới có hình thức nhất định; dù vậy, học lý qui phạm của Hồi Giáo vẫn dạy rằng nó đã được viết ra ngay một lần tức khắc.
Ðối với các độc giả Phương Tây lần đầu đến với Kô-răng, một trong những phần ngạc nhiên nhất thường lại là chương đánh số 19 trong bộ chính thức, mang tựa đề là “Maryam: Mary” (6). Vì mặc dù mang số 19 trong số 114 chương, chương này lại là một trong những chương dài nhất của Kô-răng. Hơn nữa, nó cũng là chương duy nhất mang tên một người đàn bà, dù chương 4 cũng có hàng chữ bên trên viết là “An-Nisa: Phụ Nữ” và chương 60 được gọi là “Al-Mumtahanah: Người Ðàn Bà Bị thử Thách”. Nhưng nhất định không có chương mang tên E-và (người vốn là “mẹ mọi sự sống” trong truyền thống Hồi Giáo, Do Thái Giáo và Kitô Giáo), cũng không có chương nào mang danh Ha-ga, mẹ của Ít-ma-ên, con trai Áp-ra-ham và, do đó theo nghĩa đen, là tổ mẫu người Hồi Giáo. Theo phán đoán của nhiều học giả, chương 19 xuất hiện trong giai đoạn Muhammad sống tại Mecca, là giai đoạn “nhắc đến Ma-ri-a để nhấn mạnh sự kiện ngài là mẹ đồng trinh của đức Giê-su”; trái lại, chương 3 thường được coi thuộc giai đoạn ông sống tại Medina, là giai đoạn nhắc đến Ma-ri-a để “chú tâm đến việc bác khước thần tính của đức Giê-su”(8). Chương 19 gồm các trích đoạn, diễn giải hay phỏng theo các sách Phúc Âm của Tân Ước, nhất là Phúc Âm thánh Lu-ca là sách mô tả chi tiết nhất về Trinh Nữ Ma-ri-a trong bộ Thánh Kinh Kitô Giáo (9). Những song hành tự chúng đã quan trọng rồi, nhưng chúng càng quan trọng hơn nữa khi nhìn trong tương quan với những dị biệt giữa học lý Kitô Giáo về đức Ma-ri-a như đã được triển khai vào thời Muhammad đầu thế kỷ thứ 7, và chân dung Hồi Giáo về Ngài trong Kô-răng cũng như trong các chú giải của Hồi Giáo sau này (10). Vì, như Neal Robinson từng nhận xét, các song hành thực sự không những chỉ được rút ra giữa Muhammad và đức Giê-su trong truyền thống tiên tri, mà còn giữa Muhammad và đức Ma-ri-a như những người mang lời Thiên Chúa (11). Như chính Kô-răng nói sau này: “Và về Ma-ri-a, ái nữ Imran, người đã giữ khiết trinh, để Ta thổi sự sống từ Ta vào Ngài, và Ngài đã tin lời Chúa của mình và Sách của Người, và ở trong số những người tuân phục” (12). Do đó, liên quan đến những tư liệu khác về lịch sử đức Ma-ri-a qua các thế kỷ và dựa vào các nhà chú giải cả Hồi Giáo lẫn Tây Phương, sau đây là phần bình luận về một phần trong chương 19 đặc biệt nói đến đức Ma-ri-a (13):
16. Hãy Tưởng niệm Ma-ri-a trong Sách. Những lời mở đầu này tiếp liền sau việc diễn giải trình thuật trong chương đầu Phúc Âm Lu-ca về việc ra đời của Gio-an Tẩy Giả, là một diễn giải xem ra đã được thực hiện để nhấn mạnh đến những nét song hành giữa việc ra đời của Gio-an Tẩy Giả và việc ra đời của Chúa Giê-su qua các biến cố truyền tin, can thiệp lạ lùng của Thiên Chúa, và sứ mệnh đặc biệt của con trẻ sắp sinh (14). Nhưng trong cả Tân Ước lẫn Kô-răng, điều đáng lưu ý là: việc báo tin Gio-an sẽ sinh ra cách mầu nhiệm đã được thiên thần của Chúa ngỏ với cha của ông là Da-ca-ri-a, trong khi, việc báo tin Chúa Giê-su sẽ sinh ra lại được thiên thần ngỏ với mẹ của Người là Đức Ma-ri-a. Hơn nữa, trong Kô-răng, tên của Ê-li-sa-bét, mẹ Gio-an, không được nhắc đến. Bởi thế, trong khi lời Chúa ngỏ với Gio-an Tẩy Giả là: “Hỡi Gio-an, hãy bám chặt lấy Sách” (15), thì phần này, mở đầu với công thức “Hãy tưởng niệm Ma-ri-a trong Sách”, rõ ràng đã gán cho Ma-ri-a một vị trí đặc biệt trong kế hoạch có tính lịch sử của “Allah, đấng nhân hậu, từ bi hơn hết”. Rất có thể đây là một suy tư của nền linh đạo thánh mẫu thời hậu Thánh Kinh nên chi tiết trình thuật đầu tiên trong việc tưởng niệm Đức Ma-ri-a này, tức câu: “Khi bà lìa khỏi gia đình tới một nơi tại Phương Đông và trốn khỏi họ”, không có trong Phúc Âm Lu-ca hay trong bất cứ phúc âm nào. Nhưng phần đúng hơn có lẽ là: chi tiết ấy được dùng để nhắc người ta nhớ đến Ha-ga, thân mẫu Ít-ma-ên, người đã được nói tới trong chương 16 và chương 21 của Sách Sáng Thế, là hai trình thuật nói về việc bà bị xua đuổi nhưng có nhiều điểm ít ăn khớp với nhau; bởi vì Ha-ga quả có “đi ẩn khỏi” gia đình bà, tức Xa-ra và Áp-ra-ham. Hồi giáo coi Ít-ma-ên, con trai Áp-ra-ham, là vị sáng lập ra mình, một vị sáng lập được Thiên Chúa sủng ái, Ðấng, cả trong Thánh Kinh Do Thái lẫn Thánh Kinh Kitô Giáo và do đó cả trong truyền thống Do Thái lẫn truyền thống Kitô Giáo, khi nói tới Ít-ma-ên, đã đoan hứa rằng “Ta sẽ làm nó trở nên một dân tộc lớn” (16).
17. Ta sai một thần trời của Ta đến với bà, thần trời này xuất hiện trước mặt bà dưới hình thức cụ thể của một người đàn ông. 18. Bà nói: “Tôi sẽ ẩn cư trong Ðấng Từ Bi để tránh khỏi ông, nếu ông kính sợ Người,”. Thiên thần đáp: “tôi chỉ là người được Chúa của bà sai đến để ban cho bà một con trai tốt lành”. Và trước đó: “Thiên thần nói: ‘Hỡi Ma-ri-a, quả thật Thiên Chúa sủng ái bà và làm bà sạch trong, và đã chọn bà trong mọi người đàn bà trên thế gian. Bởi thế hỡi Ma-ri-a, bà hãy thờ lạy Thiên Chúa và hãy ca tụng và cúi đầu với những người cúi đầu cầu nguyện” (17). Ðây là cách tường thuật của Kô-răng về việc truyền tin. Trong các nét căn bản, nó khá giống trình thuật trong Phúc Âm Lu-ca. Cũng có một thiên thần, mà Tân Ước nhận dạng là Ga-bri-en, nhưng ở đây không được nêu danh mà chỉ là “thiên thần” hay “thần trời của Ta”. Vị này tự xưng mình “chỉ là người được Chúa của bà sai đến”. Nội dung việc công bố của thiên thần cho bà, cả trong Kô-răng lẫn Tân Uớc, là bà sẽ có một con trai. Nhưng ở đây ta thấy có sự khác biệt khá lý thú. Trong Phúc Âm, Ga-bri-en nói với Ma-ri-a: “Người sẽ nên cao trọng, và sẽ được gọi là Con Ðấng Tối Cao: và Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của cha Người là Đa-vít: Và Người sẽ trị vì trên nhà Gia-cóp mãi mãi; và nước Người sẽ không bao giờ chấm dứt” (18). Những lời này phản ánh và tạo nền tảng Thánh Kinh cho giáo huấn Kitô Giáo khi dạy rằng: trong tư cách “Con Ðấng Tối Cao”, người con trai của Ma-ri-a chiếm một địa vị duy nhất không những trong lịch sử nhân loại mà còn trong cả chính sự sống của Thiên Chúa, và do đó trong Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì tôn giáo trong Kô-răng chỉ chú tâm vào đặc tính duy nhất tuyệt đối của Thiên Chúa, nên đã loại bỏ bất cứ ngôn từ nào cho thấy Thiên Chúa có một người Con và do đó có Ba Ngôi, không lạ gì câu nói của Ga-bri-en đã được rút gọn, vỏn vẹn còn một nhóm từ đơn giản: “một con trai tốt lành”. Các thiên thần nói với Ma-ri-a: “Hỡi Ma-ri-a, Thiên Chúa cho bà tin tức về một sự việc từ nơi Người, để mà vui mừng, (đó là tin về đấng) mà tên gọi sẽ là Đấng Được Xức Dầu (Mêxia), tức đức Giê-su, con trai Ma-ri-a, lẫy lừng ở đời này và đời sau, là một trong những người được tôn vinh, đấng sẽ nói với dân chúng khi còn nằm trong nôi và khi còn thơ dại, và sẽ ở giữa những người công chính và làm điều thiện” (19). Nghĩa là con trẻ sắp sinh sẽ là con trai của Ma-ri-a, chứ không phải là Con Thiên Chúa. Ðàng khác, sứ điệp thiên thần trong Lu-ca còn tiếp tục nói tiên tri về một điều mà các nhà chú giải Kitô Giáo sau này cho là gây nên nhiều vấn nạn. Ðó là việc “ngôi Đa-vít, cha của Người” sẽ thuộc về Người và từ ngôi báu ấy Người sẽ cai trị đời đời. Lời tiên tri ấy cũng như những lời khác trong Cựu và Tân Ước nổi bật qua cuộc tranh luận trong các thế kỷ thứ hai và thứ ba liên quan đến vấn đề liệu khi trở lại, đức Kitô có thiết lập vương quốc trần gian cho một ngàn năm sau hay không, một cuộc tranh luận vẫn còn tiếp tục được lặp lại trong lịch sử Kitô Giáo, cả cuối thời Trung Cổ lẫn trong thế kỷ 20 (20). Tất cả những điều ấy đều không có trong các trình thuật của Kô-răng. Vì thế, trong đó, Ma-ri-a không phải là Mẹ của Vua và do đó cũng không có quyền có tước hiệu Nữ Vương, như trong truyền thống Công Giáo.
20. Bà nói: “Làm thế nào tôi có thể có con trai được, khi không có người đàn ông nào đụng đến tôi, mà tôi cũng đâu phải là kẻ tội lỗi?” 21. Thiên thần nói: “Nhất định bà sẽ có con trai. Chúa của bà cho hay: ‘Ðối với Ta điều ấy rất dễ’, Ngài còn cho hay: ‘Ta sẽ làm cho người con trai ấy nên dấu chỉ cho con người và là một ơn phúc từ Ta’. Ðó là điều đã được phán định”. Một lần nữa, ta cần ghi nhận ngay tính trung thực của Kô-răng đối với bản văn Tân Ước thuật lại các lời nói của đức Ma-ri-a: ”Chuyện này xẩy ra sao được, vì tôi không biết đến đàn ông?” (21) - những lời nói hoàn toàn phỏng theo ngôn ngữ tiêu chuẩn của Thánh Kinh Do Thái, bắt đầu từ những chương đầu của sách Sáng Thế, khi dùng động từ “biết” như một uyển ngữ thay thế cho giao hợp tính dục (22). Tính trung thực đối với Tân Ước này có nghĩa là đối với Kô-răng và các tín hữu trung thành của nó, cũng như đối với Tân Ước và các tín hữu trung thành, Ma-ri-a đã được nhận dạng đúng đắn qua tước hiệu bề ngoài xem ra mâu thuẫn là Mẹ Ðồng Trinh. Khía cạnh ấy trong thánh mẫu học của Hồi Giáo liên tiếp tạo được cả ca ngợi lẫn kinh ngạc trong các đáp ứng của Kitô Giáo đối với Hồi Giáo, cả Phương Ðông thời Byzantine lẫn Phương Tây thời Trung Cổ. Cũng thế, các mệnh đề “Chúa của bà cho hay: ‘Ðối với ta điều ấy rất dễ’” và “Ðây là cách Thiên Chúa tạo nên những gì Người muốn. Khi Người ra lệnh điều gì, Người chỉ nói: ‘Hãy có’ và thế là nó có,” (23) quả tương ứng với lời của Ga-bri-en trong Lu-ca: “Với Thiên Chúa, chẳng có chi là không làm được” (24). Nhưng lại một lần nữa, những gì bỏ qua không nói tới khiến ta càng chú ý hơn và càng liên quan hơn đến việc xem sét chân dung đức Ma-ri-a. Vì trong Phúc Âm, Ga-bri-en trả lời câu Ma-ri-a hỏi bằng các giải thích rằng: “Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên bà, và quyền lực của Ðấng Tối Cao sẽ bao phủ bà: chính vì thế đấng thánh sinh ra bởi bà sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (25). Các giải thích như thế đều hiển nhiên bị loại khỏi Kô-răng. Ở đây, con trẻ sẽ sinh ra chỉ là “con trai tốt lành”, con trai tốt lành của Ma-ri-a, chứ không thể “được gọi là Con Thiên Chúa” như truyền thống Kitô Giáo, bởi điều này hàm nghĩa Ba Ngôi và dưới con mắt Hồi Giáo, là loại bỏ chủ nghĩa độc thần trong Thánh Kinh. Có lẽ cũng vì lý do này, lời của Ga-bri-en với Ma-ri-a: “Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên bà, và quyền lực của Ðấng Tối Cao sẽ bao phủ bà,” cũng biến mất; vì nếu đã không có Ba Ngôi, thì làm sao có Chúa Thánh Thần trong nghĩa Ba Ngôi chính thống của hạn từ cho được.
22. Khi bà đã thụ thai, bà đi đến một nơi xa. 23. Cơn đau đẻ dẫn bà tới một thân cây chà là. Bà nói: “Ước chi ta chết trước cây này và trở thành quên lãng, không được ai tưởng nhớ”. 24. Nhưng (một tiếng nói) gọi bà từ phía dưới: “Ðừng đau buồn; Chúa của bà đã khiến dòng suối nhỏ vụt lên ngay dưới chân bà. Bà hãy lay thân cây chà là, và những trái chà là chín sẽ rụng xuống cho bà. 26. Hãy ăn uống và bình an. Nếu thấy người đàn ông nào, bà hãy nói với ông ta: ‘Tôi đã khấn ăn chay kính Ar-Rahman nên không thể nói chuyện với bất cứ ai hôm nay”. Tất cả những điều này hoàn toàn mới lạ so với Tân Ước. Mặt khác, hình loại học (typology) đã nhắc trên đây giữa đức Ma-ri-a, mẹ Chúa Giê-su, và Ha-ga, mẹ Ít-ma-ên, càng rõ nét hơn là ở đoạn đầu chương này. Trong hai chương khác nhau của Sáng Thế, có thể vì đã từ hai truyền thống khác nhau mà có nhưng đã cùng được đưa vào sách như ta có hiện nay, Ha-ga đã đi đến “một nơi xa”: lần đầu lúc việc bà mang thai khiến Xa-ra nổi cơn ghen và lần thứ hai sau khi Xa-ra sinh I-xa-ác (26). Tiếng than tuyệt vọng của bà khiến Thiên Chúa phải đáp trả bằng một can thiệp nhiệm mầu. Theo định nghĩa, Kô-răng là một mạc khải mới, xuất hiện tức khắc qua một loạt những hành động của Thiên Chúa, nên ta chỉ có thề suy đoán về những giai đoạn trước đó của hình loại học giữa đức Ma-ri-a và Ha-ga. Nhưng dường như chẳng cần phải ráng lắm về phương diện lịch sử và văn bản, ta vẫn có thể rút ra sự giống nhau với hình loại học giữa E-và và đức Ma-ri-a mà ta đã bàn trên đây (27). Cũng như E-và, Ha-ga là một tổ mẫu, vì Ít-ma-ên vốn là khởi điểm tạo danh cho một dân tộc được biết dưới tên Người Ít-ma-ên (Ishmaelites). Bởi thế, toàn bộ cấu trúc này có thể coi như cách thế Hồi Giáo dành một địa vị đặc biệt cho Trinh Nữ Ma-ri-a trong lịch sử hành động của đức “Alla rất nhân hậu, vô cùng từ bi” đối với trần gian. Trong tư cách “người con trai tốt lành” của đức Ma-ri-a, Chúa Giê-su đứng trong kế tục những người được gọi là tôi tớ Thiên Chúa – sau Áp-ra-ham, cha của Ít-ma-ên, và Mô-sê; và trước Muhammad. Bởi thế, những lời mở đầu của phần này trong chương 19, “Hãy Tưởng Niệm Ma-ri-a trong Sách” sẽ được nối tiếp trong các phần sau bằng “Hãy Tưởng Niệm Áp-ra-ham trong Sách” và rồi “Hãy Tưởng Niệm Mô-sê trong Sách”. “Sách” đây là hạn từ tiêu chuẩn trong Kô-răng chỉ Thánh Kinh Do thái (28).
Liên hệ giữa đức Ma-ri-a và kế tục trên có một khúc rẽ rất ngạc nhiên qua các câu sau đây: 27. Rồi bà đem con trẻ tới dân bà. Họ hô lớn: “Hỡi Ma-ri-a, chị đã thực hiện được điều kỳ diệu! 28. Hỡi chị gái A-ha-ron, thân phụ chị quả không phải là một ác nhân, và thân mẫu chị không phải là một ác phụ!”. Qua đó, ta thấy bản văn đã gọi Ma-ri-a (nguyên bản là Maryam) là “chị A-ha-ron” và do đó là chị của Mô-sê, người vốn được gọi là “Miriam” trong sách Xuất Hành; cũng cùng cách này, cuốn Nizzahon Vetus, một sách tranh luận chống Kitô Giáo của người Do Thái thế kỷ 13, qua danh hiệu Miriam m’gaddela nashaia, đã đồng hóa đức Ma-ri-a với Ma-ri-a Ma-đa-lê-na, có lẽ chủ ý muốn chứng tỏ rằng thay vì là Mẹ Thánh Ðồng Trinh Thiên Chúa như đang được cử hành trong sùng kính và học thuyết Kitô Giáo, Ma-ri-a Mẹ Chúa Giê-su chỉ là một con điếm và kẻ tội lỗi (29). Khởi đầu với các văn sĩ thời Byzantine, các nhà phê bình Hồi Giáo và kinh Kô-răng người Tây Phương, những người vốn cho Muhammad chỉ là một tên lái lạc đà vô học, đầy hão tượng làm lớn, đã nhân dịp này tố cáo ông lầm lẫn coi hai người đàn bà sống cách nhau hàng ngàn năm là một, chỉ vì cùng có một tên như nhau. Giải thích có tính tiêu chuẩn về câu này thường là như thế này: Muhammad nghe người Do Thái nói về Miriam và người Kitô hữu nói về đức Ma-ri-a - cả hai được coi là Maryam – và vì ngu dốt ông coi cả hai là một. Tuy nhiên, một nhà biên tập và dịch thuật kinh Kô-răng qua tiếng Anh đã giải thích như sau: “Các nhà chú giải Hồi Giáo bác bỏ lời kết án cho là có lẫn lộn ở đây giữa Miriam, chị A-ha-ron, và Maryam (Ma-ri-a), thân mẫu Chúa Giê-su. Họ biện luận rằng: trong ngữ cảnh, ‘chị A-ha-ron’ chỉ có nghĩa là ‘người phụ nữ đạo hạnh’” (30). Nhưng cách sử dụng hình loại học về Ha-ga khi thuật lại chuyện Mô-sê trong Kô-răng có thể cho ta thấy điều này là: ngay cả khi không chấp nhận học lý linh hứng của Kô-răng, một học lý vốn được Hồi Giáo chính thống chủ trương, ta cũng có thể thấy một điều gì đó chứ không hoàn toàn là một lầm lẫn. Vì ngay từ thời Do Thái Giáo hậu Thánh Kinh, người ta vốn suy đoán và chờ đợi không những sự trở lại của tiên tri Êlia, người mà bữa tiệc Seder luôn luôn dành cho một chỗ ngồi, mà còn cả vai trò lịch sử sau này của Mô-sê nữa. Kitô Giáo từng tiếp nối sự suy đóan này, cả khi mang Mô-sê ra tương phản với Chúa Kitô trong các đoạn văn như: “Luật đã được Mô-sê đưa ra, nhưng ơn thánh và chân lý là do Chúa Giê-su Kitô”(31), lẫn khi sắp xếp chỗ đứng cho Mô-sê và Chúa Giê-su (cả Êlia nữa) trên Núi Ta-bo Hiển Dung, nơi cả hai nhân vật Cựu Ước này đều cùng hiện diện với Chúa Kitô (32). Vì, Kinh Kô-răng, từ căn bản, vốn quyết tâm phục hồi sự kế tục tiên tri của đức Giê-su, trước Muhammad và sau Mô-sê, một quyết tâm được người Hồi Giáo coi như để sửa chữa lại một sai lầm, nên tính song hành giữa Mô-sê và Chúa Giê-su được coi như một nhấn mạnh chính. Do đó, thay vì phê phán một cách theo tiêu chuẩn như Tây Phương đối với Muhammad, ta nên coi thuật ngữ “chị A-ha-ron” chỉ về Ma-ri-a, Mẹ Chúa Giê-su, trong ngữ cảnh song hành này.
34. Ðây là Giê-su, con trai Ma-ri-a: Một trình thuật chân thực mà người ta thường tranh luận về. 35. Không có chuyện Thiên Chúa có con trai được. Người Hết sức tinh tuyền! Khi Người muốn truyền lệnh điều chi Người chỉ cần nói: “Hãy có”, và thế là nó có. 36. (Ðức Giê-su chỉ nói)”Thiên Chúa là Chúa ta và là Chúa các ngươi, hãy thờ lạy Người. Ðó là con đường ngay thẳng”. 37. Thế mà các phe phái lại nói ngược nhau”. Tập hợp các đoạn văn này rõ ràng tạo ra tranh cãi. Chúng minh nhiên khẳng định một đoạn từ (disjunction) trong khi Kitô Giáo chính thống truyền dạy một liên từ (conjunction): “Ðây là Giê-su, con trai Ma-ri-a” - “không có chuyện Thiên Chúa có con trai được. Người hết sức tinh tuyền!” Lúc tiên tri Muhammad xuất hiện, thì nền thần học hậu Tân Ước đã trải qua hơn 500 năm rồi, trong thời gian đó, theo lời Kô-răng, “các phe phái nói ngược nhau” và ngược nhau rất nhiều. Năm công đồng chung đã nhóm họp và đưa ra nhiều sắc lệnh tín lý: Nixêa năm 325, Constantinốp I năm 381, Êphêsô năm 431, Canxêđoan năm 451, Constantinốp II năm 553. Như vậy đến lúc đó, đã có cả một khối lượng khổng lồ các tư liệu trong “kho tàng đức tin” Kitô Giáo chính thống. Và vì mối liên hệ giữa bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại trong một ngôi vị của Chúa Giê-su Kitô vốn là một trong các trọng điểm của những sắc lệnh trên, nên đức Ma-ri-a được nhắc đến rất nhiều trong các sắc lệnh ấy, như tước hiệu Theotokos, Mẹ Thiên Chúa, đã chứng tỏ: Chúa Giê-su Kitô là Con Thiên Chúa và là con trai đức Ma-ri-a, và vấn đề chỉ còn là làm sao nói lên được sự khác nhau này mà không gây chia rẽ. Do đó, phản ứng của Hồi Giáo đối với diễn biến mà nền tín lý chính thống trong Giáo Hội Kitô Giáo đã chấp nhận, đặc biệt trong vấn đề ngôi vị của Chúa Giê-su Kitô, là phải theo cách khai triển của Kitô Giáo bằng cách chú mục vào Ma-ri-a, không phải trong tư cách Theotokos, Mẹ Thiên Chúa, mà trong tước hiệu là Mẹ Chúa Giê-su. Bởi thế, trong các câu văn của chương 19, trọng điểm nằm giữa hai khẳng định mở đầu: “Ðây là Giê-su, con trai Ma-ri-a” và “Không có chuyện Thiên Chúa có con trai được”. Và cũng như đối với Kitô Giáo chính thống, và theo một phản đề trực tiếp của Hồi Giáo chính thống, chìa khóa để hiểu cách đúng đắn Chúa Giê-su là ai và Người đã làm gì là Ma-ri-a, mẹ của Người.
Trong Kô-răng, chân dung đức Ma-ri-a, mẹ đồng trinh của Chúa Giê-su, không những giữ một chỗ quan trọng trong chính kinh ấy, và do đó trong đức tin Hồi Giáo, mà nó còn mang theo mình những hệ quả “bắc cầu” theo nhiều định hướng. Một trong những điều này chắc chắn là các hệ quả của Đức Ma-ri-a đối với mối liên hệ giữa Do Thái Giáo và Hồi Giáo. Ðối với một số người thật khó mà tin, nhưng chân dung Do Thái Giáo trong Kô-răng là một khẳng định sâu sắc từ trong tim óc. “Dân của Sách” là một tước hiệu danh dự được nhắc đến thường xuyên để chỉ dân Do Thái và ngay cả thuật ngữ Bani Isra’il, “Con cái Israel”, ít có tính tán tụng hơn trong chương 17, chủ yếu cũng để nhắc lại kiểu nói chính Thiên Chúa đã dùng tới dùng lui để gọi dân Do thái trong chính Thánh Kinh của Dân này. Có thể cho rằng Kô-răng là một cố gắng to lớn nhằm sửa lại thế cân bằng sau sáu thế kỷ bài Do Thái của Kitô Giáo. Ðiều ấy trở nên hiển nhiên cách đặc biệt qua việc nhận Áp-ra-ham làm tổ phụ và cha đẻ đức tin chung, khi ông được nhắc đến trong chương 14: “Ngượi khen Thiên Chúa, Ðấng đã ban cho con Ít-ma-ên và I-xa-ác trong lúc tuổi già” là lời cầu nguyện của Áp-ra-ham ngỏ với Thiên Chúa (33), qua đó hai người con ông, và do đó hai dân tộc do hai người con ấy mà ra, đã được liên kết với nhau, trong tình liên đới với nhau chứ không bắt Ít-ma-ên phải tùng phục I-xa-ác. Nếu xét tới tầm quan trọng sau này của Ai Cập trong nền văn hóa và chính trị Hồi Giáo, quả thích thú khi ta nhận thấy câu truyện về tổ phụ Giu-se, như được truyền thống tư tế sau này triển khai sâu rộng, đã được kể lại trong surah 12 từ phía Do Thái chứ không từ phía Ai Cập. Và Mô-sê xuất hiện trong Kô-răng như người ban bố lề luật và là tiền nhiệm của tiên tri Muhammad. Nhưng trong số những liên kết giữa Do Thái Giáo và Hồi Giáo này, đức Ma-ri-a giữ một chỗ đứng đặc biệt. Vì Kô-răng có thể được đọc như một cố gắng nhằm phục hồi Chúa Giê-su trong lịch sử Israel, nên đức Ma-ri-a phải là cái bản lề quyết định trong chiến dịch này, bởi vì cũng như đối với các Kitô hữu, Ngài vốn là điểm nối kết giữa Chúa Giê-su và lịch sử Israel. Và ngay trong ngôn từ tiêu cực của Kô-răng đối với Do Thái Giáo, Ngài vẫn giữ được thể diện: “Chớ gì những kẻ bất tín trong hàng ngũ con cái Israel bị Đa-vít và Giê-su, con trai Ma-ri-a, nguyền rủa vì chúng nổi loạn và vi phạm những điều trói buộc”, Thiên Chúa nói thế qua miệng tiên tri Muhammad (34).
Song song với những hệ quả trên, từ đức Ma-ri-a trong mối liên hệ giữa Do Thái Giáo và Hồi Giáo, là các hệ quả từ nơi Ngài trong mối liên hệ giữa Hồi Giáo và Kitô Giáo. Chân dung đức Trinh Nữ Ma-ri-a trong Kô-răng là một chân dung có những nét hết sức ngạc nhiên đối với cả các tác giả Kitô Giáo đầu tiên từng lên tiếng trả lời Hồi Giáo. Tác giả một thiên khảo luận chống Hồi Giáo, Ba-tô-lô-mê-ô thành Edessa, có lẽ sống trong thế kỷ thứ 9, viết như thế này: “trong trọn bộ kinh Kô-răng, không hề có lời khen nào đối với Muhammad hoặc mẹ ông là Aminah, bằng những lời khen đối với Chúa Giê-su Kitô, Chúa chúng ta và đối với Trinh Nữ chí thánh Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa” (35). Vì, như Norman Daniel từng nói, “không có điều gì khác trong tất cả bộ Kô-răng có thể so sánh với sự nồng ấm dùng để nói về Chúa Kitô và mẹ của Người. Ðức Kitô được trình bày như một người duy nhất, nhưng nhân cách của mẹ Người còn sống động hơn thế nữa. Kinh Kô-răng gợi hứng cho việc sùng kính đức Ma-ri-a, một việc sùng kính mà người Hồi Giáo còn có thể làm hơn thế nữa” (36). Ta chỉ có thể thêm rằng cả người Kitô hữu nữa cũng có thể làm hơn điều họ đã làm. Hai điểm chống đối chính của Hồi Giáo trước thái độ của Kitô Giáo đối với đức Ma-ri-a là quan niệm và tước hiệu Theotokos, và cách diễn tả Ngài trong các ảnh tượng. Vì quan tâm chủ yếu đến tính siêu việt và tính khác biệt của Thiên Chúa, nên Hồi Giáo coi tước hiệu Mẹ Thiên Chúa là tước hiệu xúc phạm – “không có chuyện Thiên Chúa lại có con trai được. Người hết sức tinh tuyền!” (37) – và ít nhất cũng có một số nhà hộ giáo Hồi Giáo cho rằng người Kitô hữu đã bao gồm Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, vào chính bản vị Thiên Chúa. Mặc dù nhiều giới Kitô Giáo phủ nhận điều ấy, nhất là các giới Kitô Giáo thời Byzantine, lời chỉ trích của Hồi Giáo vẫn cho thấy một vài mù mờ nào đó về đức Ma-ri-a trên bình diện tôn giáo đại chúng, là tôn giáo vốn muốn biến Ma-ri-a thành một thứ nữ thần, một sự mù mờ không phải không có song hành trong lịch sử Kitô Giáo, như các chương khác trong sách này có nhắc đến. Thế đứng đặc biệt của hình ảnh Ngài trong ảnh tượng Byzantine và Slavic (38) đã khiến Ngài được chú ý đặc biệt kể cả nơi các phát ngôn viên Hồi Giáo vốn đả kích việc sùng kính ảnh tượng mà họ coi là ngẫu tượng. Tuy nhiên, như đáp ứng từ Kitô Giáo đã chứng tỏ, đức tin Kitô Giáo không bao giờ đặt đức Ma-ri-a ngang hàng Thiên Chúa nhưng chỉ tán tụng Ngài như mẫu mực tối cao của điều bản nhiên con người có thể vươn tới - và của điều thực sự Ngài đã vươn tới nhờ chính thiên ý tối cao và lệnh truyền của Thiên Chúa, mà thiên sứ đã nhắc đến khi nói với Ma-ri-a trong Kô-răng rằng: “Chúa của bà cho hay: ‘Ta sẽ làm cho người con trai ấy nên dấu chỉ cho con người và là một ơn phúc từ Ta’. Ðó là điều đã được phán định”(39). Như một surah trước đó có nhấn mạnh, đối với Hồi giáo, điều này có nghĩa là “đức Kitô, con trai Ma-ri-a, chỉ là một tông đồ, và trước Ngài đã có nhiều tông đồ đến rồi đi; và mẹ Ngài là một người phụ nữ của chân lý” (40).
Nhưng trên tất cả những hệ quả ấy, vẫn là những hệ quả do hình ảnh đức Ma-ri-a trong Kô-răng tác động trên cái hiểu đa văn hóa của Kitô Giáo đối với Hồi Giáo và bên kia Hồi Giáo nữa. Nhu cầu khẩn thiết phải tìm cho ra những biểu tượng và quan niệm trong các truyền thống văn hóa của chúng ta, những biểu tượng và quan niệm có thể đảm nhiệm chức năng pontifex, một chức năng trung gian tư tế và bắc cầu, cho thấy trong thế giới Kitô Giáo có lẽ chưa có một biểu tượng hay quan niệm nào có thể chu toàn cái ơn gọi làm trung gian “bắc cầu” ấy một cách thành công và tròn đầy bằng đức Ma-ri-a (41). Và bằng chứng hạng nhất hỗ trợ cho nhận định trên chính là hình ảnh đức Ma-ri-a trong Kô-răng, trong đó, theo giải thích được Daniel trưng dẫn, “nhân cách của Ngài còn sống động hơn” cả nhân cách của con trai Ngài và của cả chính tiên tri Muhammad nữa.
Có điều, dù không muốn xúc phạm tới chủ nghĩa bài tượng ảnh của Hồi Giáo, cũng cần nói rằng: nhận định trên cần phải được nới rộng, nhất là phải chú tâm đến các ảnh tượng thánh về đức Ma-ri-a trong các nền văn hóa khác nhau (42). Nó cũng cần được áp dụng vào các hội hè ngày lễ dâng kính Ngài và vào các đền thánh từng mọc lên khắp nơi để tôn kính Ngài, những nơi như Lộ Ðức, Fatima, Marpingen, và Guadalupe (43). Và ở đây, một đóng góp quan trọng đối với điều có thể gọi là “đức Ma-ri-a đa văn hóa” phát xuất từ một nguồn đã bàn trên đây, tức những lời của Tân Giai Nhân trong Diễm Ca rằng: “Em đen và em đẹp” (44) cùng với các bức chân dung về đức Ma-ri-a mà ta có thể gom chung vào loại “Ðức Bà Ðen” (45). Trong cùng một lời bình luận trong đó ông sửa lại lối dịch quen thuộc câu văn trên, Marvin Pope, khi trưng dẫn chuyên khảo quan trọng nhất có tính sử học và nghệ thuật về chủ đề này (46), đã trình bày nhiều giả thuyết nhằm giải thích các bức tranh Ðức Bà Ðen. Ông kết luận rằng chắc chắn chúng có nguồn gốc Tiểu Á. Ông cũng đưa ra nhiều song hành có ý nghĩa qua các bức tranh vẽ Demeter Ðen, Isis, và các nữ thần khác của ngoại giáo (47). Lịch sử tiên khởi của lòng tôn kính Trinh Nữ Ma-ri-a ở Phi Châu dự ứng trước các phát triển như thế (48).
Tước hiệu “Ðức Bà Ðen” có một ý nghĩa đặc biệt khi áp dụng vào bức ảnh thời danh của Ðức Ma-ri-a tại Jasna Góra thuộc thành phố Ba-lan Czestochowa mà người ta vốn gán cho thánh Lu-ca là tác giả. Đây là một bức ảnh thánh được tôn kính nhiều nhất tại Trung Âu và là đối tượng của vô số cuộc hành hương (49). Ông hoàng Ladislaus Opolszyk đem ảnh thánh này tới Czestochowa năm 1382, và ông hoàng Jagiello xây ngôi thánh đường có bàn thờ tôn kính ảnh thánh sau khi ông cưới Hoàng Hậu Jadwiga của Ba-lan và sau lễ đăng quang năm 1386. Sau khi sống trọn đời trong nền văn hóa Ba-lan trong đó bức ảnh kia là biểu tượng hàng đầu, năm 1976, Henryk Górecki sáng tác Tác Phẩm số 36, Symphonia piésni zalosnych (giao hưởng trường ca than vãn), một giao hưởng đứng chung với War Requiem (Cầu Hồn Thời Chiến) của Benjamin Britten và Leningrad Symphony (giao hưởng Lenigrad) của Dmitry Shostakovich thành một tưởng niệm đối với các nạn nhân Thế Chiến Thứ Hai. Nhưng nó cũng nói lên, nhất là trong phần đơn ca giọng nữ cao, điều truyền thống Ba-lan vẫn nhìn thấy trước ảnh Ðức Bà Ðen tại Czestochowa (50). Khuôn mặt đen sậm của Đức Trinh Nữ trong bức ảnh là do bị khói nám, tuy nhiên nó vẫn có hiệu quả của điều được đức giáo hoàng Gio-an Phaolô Ðệ Nhị, một người sùng kính đặc biệt Ðức Trinh Nữ Czestochowa, gọi là “tháp nhập văn hóa” (acculturation), nhất là tháp nhập về phương diện phụng vụ và nghệ thuật. Tuy nhiên, nhờ một nghịch lý, một nghịch lý không hẳn không có song hành lịch sử, lời công bố mạnh mẽ nhất ủng hộ cho diễn trình trên đối với các tranh ảnh đa văn hóa này lại phát xuất từ một nguồn từng lên án mọi thứ tượng ảnh, đó là Kinh Kô-răng của Hồi giáo.
___________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Ghi Chú
1. LTK 8:613 (Max Bierbaum)
2. Xem chương 8 ở bên dưới.
3. Elisabeth Ott, Thomas Merton, Granzganger zwischen Christentum und Buddismus: Uber das Verhaltnis von Selbsterfahrung und Gottesbegegnung (Wurzburg: Echter Verlag, 1977).
4. Câu này và trọn phần còn lại của đoạn này được phóng tác từ lời “dẫn nhập” vào Kinh Koran trong Sacred Writings, 6 cuốn, do Jaroslav Pelikan chủ biên, với cuốn dùng kèm On Searching The Scriptures – Your Own or Someone Else’s (New York: Book of the Month Club, 1992), 3:xiv.
5. Koran 21:107-8.
6. Suốt chương này, tác giả theo bản dịch kinh Kô-răng do thi sĩ và học giả quá cố người Pakistan là Ahmed Ali, mà ông vốn được phép cho vào bộ Sacred Writings.
7. St 3:20.
8. Yvonne Y. Haddad & Jane I. Smith, “The Virgin Mary in Islamic Tradition and Commentary” trong Muslim World 79 (1989): 162.
9. Xem chương 1 ở trên.
10. Ludwig Hagemann, Maria, die Mutter Jesu, in Bibel und Koran (Wurzburg: Echter Verlag, 1992).
11. Neal Robinson, “Jesus and Mary in the Qur’an: Some Neglected Affinities” trong Religion 20 (1990): 169-71.
12. Qur’an 66:12.
13. Cũng nên xem Nilo Geagea, Mary of the Koran, bản dịch của Lawrence T. Farnes (New York: Philosophical Library, 1984); C.H. Becker, Christianity and Islam, bản dịch của H.J. Chytor (New York: Burt Franklin Reprints, 1974), 22.
14. ADB 3:889 (Paul W. Hollenbach).
15. Qur’an 19:12.
16. St 21:18.
17. Qur’an 3:42-43.
18. Lc 1:34.
19. Qur’an 3:45-46.
20. Norman Cohn, The Pursuit of the Millennium (New York: Academy Library, 1969).
21. Lc 1:34.
22. St 4:1, 25.
23. Qur’an 3:47.
24. Lc 1:37.
25. Lc 1:35.
26. St 16;6, 21:9-21.
27. Xem chương 3 ở trên.
28. Qur’an 19:16, 41, 51.
29. R. Travers Herford, Christianity in Talmud and Midras (New York: Ktav Publishing House, 1975), 358.
30. N.J. Dawood chủ biên và dịch, The Koran, ấn bản thứ 5 (London: Penguin Books, 1996), 215, n.1.
31. Ga 1:17.
32. Mt 17:3.
33. Qur’an 14:39.
34. Qur’an 5:78.
35. Bartholomew thành Edessa Refutation of the Hagarene (PG 104: 1397).
36. Norman Daniel, Islam and the West: The Making of an Image (Edinburgh: Edinburgh University Press, 1960), 175.
37. Qur’an 19:35.
38. Xem chương 6 ở dưới.
39. Qur’an 19:21.
40. Qur’an 5:75.
41. Placid J. Podipara, Mariology of the East (Kerala, India: Oriental Institute of Religious Studies, 1985).
42. Xem Charles Belmonte, Aba ginoong Maria: The Virgin Mary in Philippine Art (Manila: Aba Ginoong Maria Foundation, 1990).
43. Xem chương 13 ở dưới.
44. Diễm Ca 1:5 (bản dịch của Marvin Pope); cũng nên xem chương 2 ở trên.
45. Xem nghiên cứu có minh họa rất đồ sộ của Stanislaw Chojnacki, Major Themes in Ethiopian Painting: Indigenous Developments, the Influence of Foreign Models, and Their Adaptation from the Thirteenth to the Nineteenth Century (Wiesbaden:F. Steiner, 1983).
46. Marie Durand-Lefèbre, Etude sur l’origine des Vierges noires (Paris: G. Durassié, 1937).
47. Marvin H. Hope, Song of Songs: A new Translation with Introduction and Commentary (New York: Doubleday, 1977), 307-18.
48. A.J. Delattre, Le Culte de la Sainte Vierge en Afrique: d’après les monuments archéologiques (Paris: Société St-Augustin, 1907).
49. Maria Tarnawsha, Poland the Kingdom of Mary, bản dịch của Rosamund Batchelor (Lower Bullingham, Hereford: Zgromazdenie Ksiezy Ma-ri-anow, 1982).
50. Xem chương 9 ở dưới.
Em đen và em đẹp
- Diễm Ca 1:5 (theo cách dịch của Marvin Pope)
Một trong các vai trò sâu sắc và lâu bền nhất của Trinh Nữ Ma-ri-a trong lịch sử là chức phận bắc cầu qua các truyền thống, cá nền văn hóa và tôn giáo khác của Ngài. Người bắc cầu là kiểu nói pontifex của tiếng Latinh, một tước hiệu tư tế trong tôn giáo La Mã ngày xưa. Và trong việc thần hóa các hoàng đế, người La Mã dành tước hiệu pontifex maximus cho các vị này. Vì thế, tước hiệu ấy bị các hoàng đế Kitô Giáo từ khước từ thế kỷ thứ tư. Nhưng chẳng bao lâu sau, nó được các giám mục và tổng giám mục Kitô Giáo tiếp nhận. Mãi sau này nó mới trở thành tước hiệu dành riêng cho Giám Mục Rô Ma (1). Tuy nhiên quan niệm pontifex có một hàm ý rộng rãi hơn nhiều. Vì tựu trung, nó áp dụng cho mọi quan niệm và nhân vật mà sứ điệp cũng như tầm ý nghĩa căn bản chỉ được diễn tả tốt hơn bằng mô thức cả/và (both/and) hơn là mô thức hoặc là/hay là (either/or). Một trong những quan niệm ấy là phong trào đơn tu, từng có mặt trong khá nhiều truyền thống riêng rẽ và từng cho thấy những tương đồng kỳ diệu cũng như những dị biệt lịch sử đáng kể (2). Trong mấy thập niên qua, các cố gắng để vun trồng các trao đổi, nhất là giữa phong trào đơn tu Kitô Giáo và Phật giáo đã thực hiện được những khai phá đáng kể và Thomas Merton, một đan sĩ dòng Trappist và là một tác giả linh đạo, là người đang dấn thân vào “cuộc hành trình vượt biên” ấy lúc ông qua đời năm 1968 (3). Bất cứ khi nào các phản đề hoặc là/hay là ở mọi bình diện có nguy cơ bùng nổ thành những lò sát sinh tập thể (holocaust), người ta lại thấy một nhu cầu cấp thiết phải nhận dạng và vun sưới cho được những quan niệm và nhân cách bắc cầu kia.
Có lẽ không có phản đề nào có hệ quả tầm xa bằng liên hệ giữa mọi thành phần khác của thế giới và cái được mệnh danh là “thế giới Hồi Giáo” (một đối tác của Thế giới Kitô Giáo), là thế giới hiện có hơn một tỉ tín đồ. Chính vì thế cái nhu cầu cần phải có những người bắc cầu kia đang trở nên hết sức khẩn trương và nhói tim để hiểu cho được cái tôn giáo của tiên tri Muhammad và cái sứ điệp quan trọng của Kô-răng, trong khi sự mù mờ căn bản của các giới học thức Tây Phương đối với tôn giáo và sứ điệp này không những thẳm sâu mà còn quá kinh hãi nữa. Nền tảng của đức tin Hồi Giáo là một loạt những mạc khải của Thiên Chúa bắt đầu từ năm 610 và tiếp diễn đến gần cuối đời của vị tiên tri vào năm 632 (4). Ðối với người Hồi Giáo chính thống, những mạc khải này là tiếng nói của chính Thiên Chúa. Trong đó, Muhammad được nhắc đến như là: “lòng từ nhân đối với tạo vật trần gian”, với sứ điệp phải nói rằng: “Ðây là điều đã được mạc khải cho tôi: ‘Thiên Chúa của ngươi là một và duy nhất’ “(5). Muhammad học thuộc lòng nhiều mạc khải như thế, và các đồ đệ của ông sau này cũng vậy; nhiều điều khác được viết xuống ngay, bằng bất cứ phương tiện nào có sẵn. Thu thập bộ Kô-răng được kể là công của Abu Bakr, đệ nhất khalíp (kế vị), còn việc tiêu chuẩn hóa bản văn là công của Uthman, đệ tam khalíp, người đã lập bản văn của Medina thành bản qui phạm, đồng thời cũng ấn định thứ tự của 114 chương hay surah, ít nhiều theo thứ tự từ dài nhất đến ngắn nhất. Nhiều học giả Tây Phương thường nghĩ rằng Kô-răng, trong hình thức như hiện nay, bắt đầu thành hình khoảng năm 650 nhưng mãi đến thế kỷ thứ 10, bản văn mới có hình thức nhất định; dù vậy, học lý qui phạm của Hồi Giáo vẫn dạy rằng nó đã được viết ra ngay một lần tức khắc.
Ðối với các độc giả Phương Tây lần đầu đến với Kô-răng, một trong những phần ngạc nhiên nhất thường lại là chương đánh số 19 trong bộ chính thức, mang tựa đề là “Maryam: Mary” (6). Vì mặc dù mang số 19 trong số 114 chương, chương này lại là một trong những chương dài nhất của Kô-răng. Hơn nữa, nó cũng là chương duy nhất mang tên một người đàn bà, dù chương 4 cũng có hàng chữ bên trên viết là “An-Nisa: Phụ Nữ” và chương 60 được gọi là “Al-Mumtahanah: Người Ðàn Bà Bị thử Thách”. Nhưng nhất định không có chương mang tên E-và (người vốn là “mẹ mọi sự sống” trong truyền thống Hồi Giáo, Do Thái Giáo và Kitô Giáo), cũng không có chương nào mang danh Ha-ga, mẹ của Ít-ma-ên, con trai Áp-ra-ham và, do đó theo nghĩa đen, là tổ mẫu người Hồi Giáo. Theo phán đoán của nhiều học giả, chương 19 xuất hiện trong giai đoạn Muhammad sống tại Mecca, là giai đoạn “nhắc đến Ma-ri-a để nhấn mạnh sự kiện ngài là mẹ đồng trinh của đức Giê-su”; trái lại, chương 3 thường được coi thuộc giai đoạn ông sống tại Medina, là giai đoạn nhắc đến Ma-ri-a để “chú tâm đến việc bác khước thần tính của đức Giê-su”(8). Chương 19 gồm các trích đoạn, diễn giải hay phỏng theo các sách Phúc Âm của Tân Ước, nhất là Phúc Âm thánh Lu-ca là sách mô tả chi tiết nhất về Trinh Nữ Ma-ri-a trong bộ Thánh Kinh Kitô Giáo (9). Những song hành tự chúng đã quan trọng rồi, nhưng chúng càng quan trọng hơn nữa khi nhìn trong tương quan với những dị biệt giữa học lý Kitô Giáo về đức Ma-ri-a như đã được triển khai vào thời Muhammad đầu thế kỷ thứ 7, và chân dung Hồi Giáo về Ngài trong Kô-răng cũng như trong các chú giải của Hồi Giáo sau này (10). Vì, như Neal Robinson từng nhận xét, các song hành thực sự không những chỉ được rút ra giữa Muhammad và đức Giê-su trong truyền thống tiên tri, mà còn giữa Muhammad và đức Ma-ri-a như những người mang lời Thiên Chúa (11). Như chính Kô-răng nói sau này: “Và về Ma-ri-a, ái nữ Imran, người đã giữ khiết trinh, để Ta thổi sự sống từ Ta vào Ngài, và Ngài đã tin lời Chúa của mình và Sách của Người, và ở trong số những người tuân phục” (12). Do đó, liên quan đến những tư liệu khác về lịch sử đức Ma-ri-a qua các thế kỷ và dựa vào các nhà chú giải cả Hồi Giáo lẫn Tây Phương, sau đây là phần bình luận về một phần trong chương 19 đặc biệt nói đến đức Ma-ri-a (13):
16. Hãy Tưởng niệm Ma-ri-a trong Sách. Những lời mở đầu này tiếp liền sau việc diễn giải trình thuật trong chương đầu Phúc Âm Lu-ca về việc ra đời của Gio-an Tẩy Giả, là một diễn giải xem ra đã được thực hiện để nhấn mạnh đến những nét song hành giữa việc ra đời của Gio-an Tẩy Giả và việc ra đời của Chúa Giê-su qua các biến cố truyền tin, can thiệp lạ lùng của Thiên Chúa, và sứ mệnh đặc biệt của con trẻ sắp sinh (14). Nhưng trong cả Tân Ước lẫn Kô-răng, điều đáng lưu ý là: việc báo tin Gio-an sẽ sinh ra cách mầu nhiệm đã được thiên thần của Chúa ngỏ với cha của ông là Da-ca-ri-a, trong khi, việc báo tin Chúa Giê-su sẽ sinh ra lại được thiên thần ngỏ với mẹ của Người là Đức Ma-ri-a. Hơn nữa, trong Kô-răng, tên của Ê-li-sa-bét, mẹ Gio-an, không được nhắc đến. Bởi thế, trong khi lời Chúa ngỏ với Gio-an Tẩy Giả là: “Hỡi Gio-an, hãy bám chặt lấy Sách” (15), thì phần này, mở đầu với công thức “Hãy tưởng niệm Ma-ri-a trong Sách”, rõ ràng đã gán cho Ma-ri-a một vị trí đặc biệt trong kế hoạch có tính lịch sử của “Allah, đấng nhân hậu, từ bi hơn hết”. Rất có thể đây là một suy tư của nền linh đạo thánh mẫu thời hậu Thánh Kinh nên chi tiết trình thuật đầu tiên trong việc tưởng niệm Đức Ma-ri-a này, tức câu: “Khi bà lìa khỏi gia đình tới một nơi tại Phương Đông và trốn khỏi họ”, không có trong Phúc Âm Lu-ca hay trong bất cứ phúc âm nào. Nhưng phần đúng hơn có lẽ là: chi tiết ấy được dùng để nhắc người ta nhớ đến Ha-ga, thân mẫu Ít-ma-ên, người đã được nói tới trong chương 16 và chương 21 của Sách Sáng Thế, là hai trình thuật nói về việc bà bị xua đuổi nhưng có nhiều điểm ít ăn khớp với nhau; bởi vì Ha-ga quả có “đi ẩn khỏi” gia đình bà, tức Xa-ra và Áp-ra-ham. Hồi giáo coi Ít-ma-ên, con trai Áp-ra-ham, là vị sáng lập ra mình, một vị sáng lập được Thiên Chúa sủng ái, Ðấng, cả trong Thánh Kinh Do Thái lẫn Thánh Kinh Kitô Giáo và do đó cả trong truyền thống Do Thái lẫn truyền thống Kitô Giáo, khi nói tới Ít-ma-ên, đã đoan hứa rằng “Ta sẽ làm nó trở nên một dân tộc lớn” (16).
17. Ta sai một thần trời của Ta đến với bà, thần trời này xuất hiện trước mặt bà dưới hình thức cụ thể của một người đàn ông. 18. Bà nói: “Tôi sẽ ẩn cư trong Ðấng Từ Bi để tránh khỏi ông, nếu ông kính sợ Người,”. Thiên thần đáp: “tôi chỉ là người được Chúa của bà sai đến để ban cho bà một con trai tốt lành”. Và trước đó: “Thiên thần nói: ‘Hỡi Ma-ri-a, quả thật Thiên Chúa sủng ái bà và làm bà sạch trong, và đã chọn bà trong mọi người đàn bà trên thế gian. Bởi thế hỡi Ma-ri-a, bà hãy thờ lạy Thiên Chúa và hãy ca tụng và cúi đầu với những người cúi đầu cầu nguyện” (17). Ðây là cách tường thuật của Kô-răng về việc truyền tin. Trong các nét căn bản, nó khá giống trình thuật trong Phúc Âm Lu-ca. Cũng có một thiên thần, mà Tân Ước nhận dạng là Ga-bri-en, nhưng ở đây không được nêu danh mà chỉ là “thiên thần” hay “thần trời của Ta”. Vị này tự xưng mình “chỉ là người được Chúa của bà sai đến”. Nội dung việc công bố của thiên thần cho bà, cả trong Kô-răng lẫn Tân Uớc, là bà sẽ có một con trai. Nhưng ở đây ta thấy có sự khác biệt khá lý thú. Trong Phúc Âm, Ga-bri-en nói với Ma-ri-a: “Người sẽ nên cao trọng, và sẽ được gọi là Con Ðấng Tối Cao: và Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu của cha Người là Đa-vít: Và Người sẽ trị vì trên nhà Gia-cóp mãi mãi; và nước Người sẽ không bao giờ chấm dứt” (18). Những lời này phản ánh và tạo nền tảng Thánh Kinh cho giáo huấn Kitô Giáo khi dạy rằng: trong tư cách “Con Ðấng Tối Cao”, người con trai của Ma-ri-a chiếm một địa vị duy nhất không những trong lịch sử nhân loại mà còn trong cả chính sự sống của Thiên Chúa, và do đó trong Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì tôn giáo trong Kô-răng chỉ chú tâm vào đặc tính duy nhất tuyệt đối của Thiên Chúa, nên đã loại bỏ bất cứ ngôn từ nào cho thấy Thiên Chúa có một người Con và do đó có Ba Ngôi, không lạ gì câu nói của Ga-bri-en đã được rút gọn, vỏn vẹn còn một nhóm từ đơn giản: “một con trai tốt lành”. Các thiên thần nói với Ma-ri-a: “Hỡi Ma-ri-a, Thiên Chúa cho bà tin tức về một sự việc từ nơi Người, để mà vui mừng, (đó là tin về đấng) mà tên gọi sẽ là Đấng Được Xức Dầu (Mêxia), tức đức Giê-su, con trai Ma-ri-a, lẫy lừng ở đời này và đời sau, là một trong những người được tôn vinh, đấng sẽ nói với dân chúng khi còn nằm trong nôi và khi còn thơ dại, và sẽ ở giữa những người công chính và làm điều thiện” (19). Nghĩa là con trẻ sắp sinh sẽ là con trai của Ma-ri-a, chứ không phải là Con Thiên Chúa. Ðàng khác, sứ điệp thiên thần trong Lu-ca còn tiếp tục nói tiên tri về một điều mà các nhà chú giải Kitô Giáo sau này cho là gây nên nhiều vấn nạn. Ðó là việc “ngôi Đa-vít, cha của Người” sẽ thuộc về Người và từ ngôi báu ấy Người sẽ cai trị đời đời. Lời tiên tri ấy cũng như những lời khác trong Cựu và Tân Ước nổi bật qua cuộc tranh luận trong các thế kỷ thứ hai và thứ ba liên quan đến vấn đề liệu khi trở lại, đức Kitô có thiết lập vương quốc trần gian cho một ngàn năm sau hay không, một cuộc tranh luận vẫn còn tiếp tục được lặp lại trong lịch sử Kitô Giáo, cả cuối thời Trung Cổ lẫn trong thế kỷ 20 (20). Tất cả những điều ấy đều không có trong các trình thuật của Kô-răng. Vì thế, trong đó, Ma-ri-a không phải là Mẹ của Vua và do đó cũng không có quyền có tước hiệu Nữ Vương, như trong truyền thống Công Giáo.
20. Bà nói: “Làm thế nào tôi có thể có con trai được, khi không có người đàn ông nào đụng đến tôi, mà tôi cũng đâu phải là kẻ tội lỗi?” 21. Thiên thần nói: “Nhất định bà sẽ có con trai. Chúa của bà cho hay: ‘Ðối với Ta điều ấy rất dễ’, Ngài còn cho hay: ‘Ta sẽ làm cho người con trai ấy nên dấu chỉ cho con người và là một ơn phúc từ Ta’. Ðó là điều đã được phán định”. Một lần nữa, ta cần ghi nhận ngay tính trung thực của Kô-răng đối với bản văn Tân Ước thuật lại các lời nói của đức Ma-ri-a: ”Chuyện này xẩy ra sao được, vì tôi không biết đến đàn ông?” (21) - những lời nói hoàn toàn phỏng theo ngôn ngữ tiêu chuẩn của Thánh Kinh Do Thái, bắt đầu từ những chương đầu của sách Sáng Thế, khi dùng động từ “biết” như một uyển ngữ thay thế cho giao hợp tính dục (22). Tính trung thực đối với Tân Ước này có nghĩa là đối với Kô-răng và các tín hữu trung thành của nó, cũng như đối với Tân Ước và các tín hữu trung thành, Ma-ri-a đã được nhận dạng đúng đắn qua tước hiệu bề ngoài xem ra mâu thuẫn là Mẹ Ðồng Trinh. Khía cạnh ấy trong thánh mẫu học của Hồi Giáo liên tiếp tạo được cả ca ngợi lẫn kinh ngạc trong các đáp ứng của Kitô Giáo đối với Hồi Giáo, cả Phương Ðông thời Byzantine lẫn Phương Tây thời Trung Cổ. Cũng thế, các mệnh đề “Chúa của bà cho hay: ‘Ðối với ta điều ấy rất dễ’” và “Ðây là cách Thiên Chúa tạo nên những gì Người muốn. Khi Người ra lệnh điều gì, Người chỉ nói: ‘Hãy có’ và thế là nó có,” (23) quả tương ứng với lời của Ga-bri-en trong Lu-ca: “Với Thiên Chúa, chẳng có chi là không làm được” (24). Nhưng lại một lần nữa, những gì bỏ qua không nói tới khiến ta càng chú ý hơn và càng liên quan hơn đến việc xem sét chân dung đức Ma-ri-a. Vì trong Phúc Âm, Ga-bri-en trả lời câu Ma-ri-a hỏi bằng các giải thích rằng: “Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên bà, và quyền lực của Ðấng Tối Cao sẽ bao phủ bà: chính vì thế đấng thánh sinh ra bởi bà sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (25). Các giải thích như thế đều hiển nhiên bị loại khỏi Kô-răng. Ở đây, con trẻ sẽ sinh ra chỉ là “con trai tốt lành”, con trai tốt lành của Ma-ri-a, chứ không thể “được gọi là Con Thiên Chúa” như truyền thống Kitô Giáo, bởi điều này hàm nghĩa Ba Ngôi và dưới con mắt Hồi Giáo, là loại bỏ chủ nghĩa độc thần trong Thánh Kinh. Có lẽ cũng vì lý do này, lời của Ga-bri-en với Ma-ri-a: “Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên bà, và quyền lực của Ðấng Tối Cao sẽ bao phủ bà,” cũng biến mất; vì nếu đã không có Ba Ngôi, thì làm sao có Chúa Thánh Thần trong nghĩa Ba Ngôi chính thống của hạn từ cho được.
22. Khi bà đã thụ thai, bà đi đến một nơi xa. 23. Cơn đau đẻ dẫn bà tới một thân cây chà là. Bà nói: “Ước chi ta chết trước cây này và trở thành quên lãng, không được ai tưởng nhớ”. 24. Nhưng (một tiếng nói) gọi bà từ phía dưới: “Ðừng đau buồn; Chúa của bà đã khiến dòng suối nhỏ vụt lên ngay dưới chân bà. Bà hãy lay thân cây chà là, và những trái chà là chín sẽ rụng xuống cho bà. 26. Hãy ăn uống và bình an. Nếu thấy người đàn ông nào, bà hãy nói với ông ta: ‘Tôi đã khấn ăn chay kính Ar-Rahman nên không thể nói chuyện với bất cứ ai hôm nay”. Tất cả những điều này hoàn toàn mới lạ so với Tân Ước. Mặt khác, hình loại học (typology) đã nhắc trên đây giữa đức Ma-ri-a, mẹ Chúa Giê-su, và Ha-ga, mẹ Ít-ma-ên, càng rõ nét hơn là ở đoạn đầu chương này. Trong hai chương khác nhau của Sáng Thế, có thể vì đã từ hai truyền thống khác nhau mà có nhưng đã cùng được đưa vào sách như ta có hiện nay, Ha-ga đã đi đến “một nơi xa”: lần đầu lúc việc bà mang thai khiến Xa-ra nổi cơn ghen và lần thứ hai sau khi Xa-ra sinh I-xa-ác (26). Tiếng than tuyệt vọng của bà khiến Thiên Chúa phải đáp trả bằng một can thiệp nhiệm mầu. Theo định nghĩa, Kô-răng là một mạc khải mới, xuất hiện tức khắc qua một loạt những hành động của Thiên Chúa, nên ta chỉ có thề suy đoán về những giai đoạn trước đó của hình loại học giữa đức Ma-ri-a và Ha-ga. Nhưng dường như chẳng cần phải ráng lắm về phương diện lịch sử và văn bản, ta vẫn có thể rút ra sự giống nhau với hình loại học giữa E-và và đức Ma-ri-a mà ta đã bàn trên đây (27). Cũng như E-và, Ha-ga là một tổ mẫu, vì Ít-ma-ên vốn là khởi điểm tạo danh cho một dân tộc được biết dưới tên Người Ít-ma-ên (Ishmaelites). Bởi thế, toàn bộ cấu trúc này có thể coi như cách thế Hồi Giáo dành một địa vị đặc biệt cho Trinh Nữ Ma-ri-a trong lịch sử hành động của đức “Alla rất nhân hậu, vô cùng từ bi” đối với trần gian. Trong tư cách “người con trai tốt lành” của đức Ma-ri-a, Chúa Giê-su đứng trong kế tục những người được gọi là tôi tớ Thiên Chúa – sau Áp-ra-ham, cha của Ít-ma-ên, và Mô-sê; và trước Muhammad. Bởi thế, những lời mở đầu của phần này trong chương 19, “Hãy Tưởng Niệm Ma-ri-a trong Sách” sẽ được nối tiếp trong các phần sau bằng “Hãy Tưởng Niệm Áp-ra-ham trong Sách” và rồi “Hãy Tưởng Niệm Mô-sê trong Sách”. “Sách” đây là hạn từ tiêu chuẩn trong Kô-răng chỉ Thánh Kinh Do thái (28).
Liên hệ giữa đức Ma-ri-a và kế tục trên có một khúc rẽ rất ngạc nhiên qua các câu sau đây: 27. Rồi bà đem con trẻ tới dân bà. Họ hô lớn: “Hỡi Ma-ri-a, chị đã thực hiện được điều kỳ diệu! 28. Hỡi chị gái A-ha-ron, thân phụ chị quả không phải là một ác nhân, và thân mẫu chị không phải là một ác phụ!”. Qua đó, ta thấy bản văn đã gọi Ma-ri-a (nguyên bản là Maryam) là “chị A-ha-ron” và do đó là chị của Mô-sê, người vốn được gọi là “Miriam” trong sách Xuất Hành; cũng cùng cách này, cuốn Nizzahon Vetus, một sách tranh luận chống Kitô Giáo của người Do Thái thế kỷ 13, qua danh hiệu Miriam m’gaddela nashaia, đã đồng hóa đức Ma-ri-a với Ma-ri-a Ma-đa-lê-na, có lẽ chủ ý muốn chứng tỏ rằng thay vì là Mẹ Thánh Ðồng Trinh Thiên Chúa như đang được cử hành trong sùng kính và học thuyết Kitô Giáo, Ma-ri-a Mẹ Chúa Giê-su chỉ là một con điếm và kẻ tội lỗi (29). Khởi đầu với các văn sĩ thời Byzantine, các nhà phê bình Hồi Giáo và kinh Kô-răng người Tây Phương, những người vốn cho Muhammad chỉ là một tên lái lạc đà vô học, đầy hão tượng làm lớn, đã nhân dịp này tố cáo ông lầm lẫn coi hai người đàn bà sống cách nhau hàng ngàn năm là một, chỉ vì cùng có một tên như nhau. Giải thích có tính tiêu chuẩn về câu này thường là như thế này: Muhammad nghe người Do Thái nói về Miriam và người Kitô hữu nói về đức Ma-ri-a - cả hai được coi là Maryam – và vì ngu dốt ông coi cả hai là một. Tuy nhiên, một nhà biên tập và dịch thuật kinh Kô-răng qua tiếng Anh đã giải thích như sau: “Các nhà chú giải Hồi Giáo bác bỏ lời kết án cho là có lẫn lộn ở đây giữa Miriam, chị A-ha-ron, và Maryam (Ma-ri-a), thân mẫu Chúa Giê-su. Họ biện luận rằng: trong ngữ cảnh, ‘chị A-ha-ron’ chỉ có nghĩa là ‘người phụ nữ đạo hạnh’” (30). Nhưng cách sử dụng hình loại học về Ha-ga khi thuật lại chuyện Mô-sê trong Kô-răng có thể cho ta thấy điều này là: ngay cả khi không chấp nhận học lý linh hứng của Kô-răng, một học lý vốn được Hồi Giáo chính thống chủ trương, ta cũng có thể thấy một điều gì đó chứ không hoàn toàn là một lầm lẫn. Vì ngay từ thời Do Thái Giáo hậu Thánh Kinh, người ta vốn suy đoán và chờ đợi không những sự trở lại của tiên tri Êlia, người mà bữa tiệc Seder luôn luôn dành cho một chỗ ngồi, mà còn cả vai trò lịch sử sau này của Mô-sê nữa. Kitô Giáo từng tiếp nối sự suy đóan này, cả khi mang Mô-sê ra tương phản với Chúa Kitô trong các đoạn văn như: “Luật đã được Mô-sê đưa ra, nhưng ơn thánh và chân lý là do Chúa Giê-su Kitô”(31), lẫn khi sắp xếp chỗ đứng cho Mô-sê và Chúa Giê-su (cả Êlia nữa) trên Núi Ta-bo Hiển Dung, nơi cả hai nhân vật Cựu Ước này đều cùng hiện diện với Chúa Kitô (32). Vì, Kinh Kô-răng, từ căn bản, vốn quyết tâm phục hồi sự kế tục tiên tri của đức Giê-su, trước Muhammad và sau Mô-sê, một quyết tâm được người Hồi Giáo coi như để sửa chữa lại một sai lầm, nên tính song hành giữa Mô-sê và Chúa Giê-su được coi như một nhấn mạnh chính. Do đó, thay vì phê phán một cách theo tiêu chuẩn như Tây Phương đối với Muhammad, ta nên coi thuật ngữ “chị A-ha-ron” chỉ về Ma-ri-a, Mẹ Chúa Giê-su, trong ngữ cảnh song hành này.
34. Ðây là Giê-su, con trai Ma-ri-a: Một trình thuật chân thực mà người ta thường tranh luận về. 35. Không có chuyện Thiên Chúa có con trai được. Người Hết sức tinh tuyền! Khi Người muốn truyền lệnh điều chi Người chỉ cần nói: “Hãy có”, và thế là nó có. 36. (Ðức Giê-su chỉ nói)”Thiên Chúa là Chúa ta và là Chúa các ngươi, hãy thờ lạy Người. Ðó là con đường ngay thẳng”. 37. Thế mà các phe phái lại nói ngược nhau”. Tập hợp các đoạn văn này rõ ràng tạo ra tranh cãi. Chúng minh nhiên khẳng định một đoạn từ (disjunction) trong khi Kitô Giáo chính thống truyền dạy một liên từ (conjunction): “Ðây là Giê-su, con trai Ma-ri-a” - “không có chuyện Thiên Chúa có con trai được. Người hết sức tinh tuyền!” Lúc tiên tri Muhammad xuất hiện, thì nền thần học hậu Tân Ước đã trải qua hơn 500 năm rồi, trong thời gian đó, theo lời Kô-răng, “các phe phái nói ngược nhau” và ngược nhau rất nhiều. Năm công đồng chung đã nhóm họp và đưa ra nhiều sắc lệnh tín lý: Nixêa năm 325, Constantinốp I năm 381, Êphêsô năm 431, Canxêđoan năm 451, Constantinốp II năm 553. Như vậy đến lúc đó, đã có cả một khối lượng khổng lồ các tư liệu trong “kho tàng đức tin” Kitô Giáo chính thống. Và vì mối liên hệ giữa bản tính Thiên Chúa và bản tính nhân loại trong một ngôi vị của Chúa Giê-su Kitô vốn là một trong các trọng điểm của những sắc lệnh trên, nên đức Ma-ri-a được nhắc đến rất nhiều trong các sắc lệnh ấy, như tước hiệu Theotokos, Mẹ Thiên Chúa, đã chứng tỏ: Chúa Giê-su Kitô là Con Thiên Chúa và là con trai đức Ma-ri-a, và vấn đề chỉ còn là làm sao nói lên được sự khác nhau này mà không gây chia rẽ. Do đó, phản ứng của Hồi Giáo đối với diễn biến mà nền tín lý chính thống trong Giáo Hội Kitô Giáo đã chấp nhận, đặc biệt trong vấn đề ngôi vị của Chúa Giê-su Kitô, là phải theo cách khai triển của Kitô Giáo bằng cách chú mục vào Ma-ri-a, không phải trong tư cách Theotokos, Mẹ Thiên Chúa, mà trong tước hiệu là Mẹ Chúa Giê-su. Bởi thế, trong các câu văn của chương 19, trọng điểm nằm giữa hai khẳng định mở đầu: “Ðây là Giê-su, con trai Ma-ri-a” và “Không có chuyện Thiên Chúa có con trai được”. Và cũng như đối với Kitô Giáo chính thống, và theo một phản đề trực tiếp của Hồi Giáo chính thống, chìa khóa để hiểu cách đúng đắn Chúa Giê-su là ai và Người đã làm gì là Ma-ri-a, mẹ của Người.
Trong Kô-răng, chân dung đức Ma-ri-a, mẹ đồng trinh của Chúa Giê-su, không những giữ một chỗ quan trọng trong chính kinh ấy, và do đó trong đức tin Hồi Giáo, mà nó còn mang theo mình những hệ quả “bắc cầu” theo nhiều định hướng. Một trong những điều này chắc chắn là các hệ quả của Đức Ma-ri-a đối với mối liên hệ giữa Do Thái Giáo và Hồi Giáo. Ðối với một số người thật khó mà tin, nhưng chân dung Do Thái Giáo trong Kô-răng là một khẳng định sâu sắc từ trong tim óc. “Dân của Sách” là một tước hiệu danh dự được nhắc đến thường xuyên để chỉ dân Do Thái và ngay cả thuật ngữ Bani Isra’il, “Con cái Israel”, ít có tính tán tụng hơn trong chương 17, chủ yếu cũng để nhắc lại kiểu nói chính Thiên Chúa đã dùng tới dùng lui để gọi dân Do thái trong chính Thánh Kinh của Dân này. Có thể cho rằng Kô-răng là một cố gắng to lớn nhằm sửa lại thế cân bằng sau sáu thế kỷ bài Do Thái của Kitô Giáo. Ðiều ấy trở nên hiển nhiên cách đặc biệt qua việc nhận Áp-ra-ham làm tổ phụ và cha đẻ đức tin chung, khi ông được nhắc đến trong chương 14: “Ngượi khen Thiên Chúa, Ðấng đã ban cho con Ít-ma-ên và I-xa-ác trong lúc tuổi già” là lời cầu nguyện của Áp-ra-ham ngỏ với Thiên Chúa (33), qua đó hai người con ông, và do đó hai dân tộc do hai người con ấy mà ra, đã được liên kết với nhau, trong tình liên đới với nhau chứ không bắt Ít-ma-ên phải tùng phục I-xa-ác. Nếu xét tới tầm quan trọng sau này của Ai Cập trong nền văn hóa và chính trị Hồi Giáo, quả thích thú khi ta nhận thấy câu truyện về tổ phụ Giu-se, như được truyền thống tư tế sau này triển khai sâu rộng, đã được kể lại trong surah 12 từ phía Do Thái chứ không từ phía Ai Cập. Và Mô-sê xuất hiện trong Kô-răng như người ban bố lề luật và là tiền nhiệm của tiên tri Muhammad. Nhưng trong số những liên kết giữa Do Thái Giáo và Hồi Giáo này, đức Ma-ri-a giữ một chỗ đứng đặc biệt. Vì Kô-răng có thể được đọc như một cố gắng nhằm phục hồi Chúa Giê-su trong lịch sử Israel, nên đức Ma-ri-a phải là cái bản lề quyết định trong chiến dịch này, bởi vì cũng như đối với các Kitô hữu, Ngài vốn là điểm nối kết giữa Chúa Giê-su và lịch sử Israel. Và ngay trong ngôn từ tiêu cực của Kô-răng đối với Do Thái Giáo, Ngài vẫn giữ được thể diện: “Chớ gì những kẻ bất tín trong hàng ngũ con cái Israel bị Đa-vít và Giê-su, con trai Ma-ri-a, nguyền rủa vì chúng nổi loạn và vi phạm những điều trói buộc”, Thiên Chúa nói thế qua miệng tiên tri Muhammad (34).
Song song với những hệ quả trên, từ đức Ma-ri-a trong mối liên hệ giữa Do Thái Giáo và Hồi Giáo, là các hệ quả từ nơi Ngài trong mối liên hệ giữa Hồi Giáo và Kitô Giáo. Chân dung đức Trinh Nữ Ma-ri-a trong Kô-răng là một chân dung có những nét hết sức ngạc nhiên đối với cả các tác giả Kitô Giáo đầu tiên từng lên tiếng trả lời Hồi Giáo. Tác giả một thiên khảo luận chống Hồi Giáo, Ba-tô-lô-mê-ô thành Edessa, có lẽ sống trong thế kỷ thứ 9, viết như thế này: “trong trọn bộ kinh Kô-răng, không hề có lời khen nào đối với Muhammad hoặc mẹ ông là Aminah, bằng những lời khen đối với Chúa Giê-su Kitô, Chúa chúng ta và đối với Trinh Nữ chí thánh Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa” (35). Vì, như Norman Daniel từng nói, “không có điều gì khác trong tất cả bộ Kô-răng có thể so sánh với sự nồng ấm dùng để nói về Chúa Kitô và mẹ của Người. Ðức Kitô được trình bày như một người duy nhất, nhưng nhân cách của mẹ Người còn sống động hơn thế nữa. Kinh Kô-răng gợi hứng cho việc sùng kính đức Ma-ri-a, một việc sùng kính mà người Hồi Giáo còn có thể làm hơn thế nữa” (36). Ta chỉ có thể thêm rằng cả người Kitô hữu nữa cũng có thể làm hơn điều họ đã làm. Hai điểm chống đối chính của Hồi Giáo trước thái độ của Kitô Giáo đối với đức Ma-ri-a là quan niệm và tước hiệu Theotokos, và cách diễn tả Ngài trong các ảnh tượng. Vì quan tâm chủ yếu đến tính siêu việt và tính khác biệt của Thiên Chúa, nên Hồi Giáo coi tước hiệu Mẹ Thiên Chúa là tước hiệu xúc phạm – “không có chuyện Thiên Chúa lại có con trai được. Người hết sức tinh tuyền!” (37) – và ít nhất cũng có một số nhà hộ giáo Hồi Giáo cho rằng người Kitô hữu đã bao gồm Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, vào chính bản vị Thiên Chúa. Mặc dù nhiều giới Kitô Giáo phủ nhận điều ấy, nhất là các giới Kitô Giáo thời Byzantine, lời chỉ trích của Hồi Giáo vẫn cho thấy một vài mù mờ nào đó về đức Ma-ri-a trên bình diện tôn giáo đại chúng, là tôn giáo vốn muốn biến Ma-ri-a thành một thứ nữ thần, một sự mù mờ không phải không có song hành trong lịch sử Kitô Giáo, như các chương khác trong sách này có nhắc đến. Thế đứng đặc biệt của hình ảnh Ngài trong ảnh tượng Byzantine và Slavic (38) đã khiến Ngài được chú ý đặc biệt kể cả nơi các phát ngôn viên Hồi Giáo vốn đả kích việc sùng kính ảnh tượng mà họ coi là ngẫu tượng. Tuy nhiên, như đáp ứng từ Kitô Giáo đã chứng tỏ, đức tin Kitô Giáo không bao giờ đặt đức Ma-ri-a ngang hàng Thiên Chúa nhưng chỉ tán tụng Ngài như mẫu mực tối cao của điều bản nhiên con người có thể vươn tới - và của điều thực sự Ngài đã vươn tới nhờ chính thiên ý tối cao và lệnh truyền của Thiên Chúa, mà thiên sứ đã nhắc đến khi nói với Ma-ri-a trong Kô-răng rằng: “Chúa của bà cho hay: ‘Ta sẽ làm cho người con trai ấy nên dấu chỉ cho con người và là một ơn phúc từ Ta’. Ðó là điều đã được phán định”(39). Như một surah trước đó có nhấn mạnh, đối với Hồi giáo, điều này có nghĩa là “đức Kitô, con trai Ma-ri-a, chỉ là một tông đồ, và trước Ngài đã có nhiều tông đồ đến rồi đi; và mẹ Ngài là một người phụ nữ của chân lý” (40).
Nhưng trên tất cả những hệ quả ấy, vẫn là những hệ quả do hình ảnh đức Ma-ri-a trong Kô-răng tác động trên cái hiểu đa văn hóa của Kitô Giáo đối với Hồi Giáo và bên kia Hồi Giáo nữa. Nhu cầu khẩn thiết phải tìm cho ra những biểu tượng và quan niệm trong các truyền thống văn hóa của chúng ta, những biểu tượng và quan niệm có thể đảm nhiệm chức năng pontifex, một chức năng trung gian tư tế và bắc cầu, cho thấy trong thế giới Kitô Giáo có lẽ chưa có một biểu tượng hay quan niệm nào có thể chu toàn cái ơn gọi làm trung gian “bắc cầu” ấy một cách thành công và tròn đầy bằng đức Ma-ri-a (41). Và bằng chứng hạng nhất hỗ trợ cho nhận định trên chính là hình ảnh đức Ma-ri-a trong Kô-răng, trong đó, theo giải thích được Daniel trưng dẫn, “nhân cách của Ngài còn sống động hơn” cả nhân cách của con trai Ngài và của cả chính tiên tri Muhammad nữa.
Có điều, dù không muốn xúc phạm tới chủ nghĩa bài tượng ảnh của Hồi Giáo, cũng cần nói rằng: nhận định trên cần phải được nới rộng, nhất là phải chú tâm đến các ảnh tượng thánh về đức Ma-ri-a trong các nền văn hóa khác nhau (42). Nó cũng cần được áp dụng vào các hội hè ngày lễ dâng kính Ngài và vào các đền thánh từng mọc lên khắp nơi để tôn kính Ngài, những nơi như Lộ Ðức, Fatima, Marpingen, và Guadalupe (43). Và ở đây, một đóng góp quan trọng đối với điều có thể gọi là “đức Ma-ri-a đa văn hóa” phát xuất từ một nguồn đã bàn trên đây, tức những lời của Tân Giai Nhân trong Diễm Ca rằng: “Em đen và em đẹp” (44) cùng với các bức chân dung về đức Ma-ri-a mà ta có thể gom chung vào loại “Ðức Bà Ðen” (45). Trong cùng một lời bình luận trong đó ông sửa lại lối dịch quen thuộc câu văn trên, Marvin Pope, khi trưng dẫn chuyên khảo quan trọng nhất có tính sử học và nghệ thuật về chủ đề này (46), đã trình bày nhiều giả thuyết nhằm giải thích các bức tranh Ðức Bà Ðen. Ông kết luận rằng chắc chắn chúng có nguồn gốc Tiểu Á. Ông cũng đưa ra nhiều song hành có ý nghĩa qua các bức tranh vẽ Demeter Ðen, Isis, và các nữ thần khác của ngoại giáo (47). Lịch sử tiên khởi của lòng tôn kính Trinh Nữ Ma-ri-a ở Phi Châu dự ứng trước các phát triển như thế (48).
Tước hiệu “Ðức Bà Ðen” có một ý nghĩa đặc biệt khi áp dụng vào bức ảnh thời danh của Ðức Ma-ri-a tại Jasna Góra thuộc thành phố Ba-lan Czestochowa mà người ta vốn gán cho thánh Lu-ca là tác giả. Đây là một bức ảnh thánh được tôn kính nhiều nhất tại Trung Âu và là đối tượng của vô số cuộc hành hương (49). Ông hoàng Ladislaus Opolszyk đem ảnh thánh này tới Czestochowa năm 1382, và ông hoàng Jagiello xây ngôi thánh đường có bàn thờ tôn kính ảnh thánh sau khi ông cưới Hoàng Hậu Jadwiga của Ba-lan và sau lễ đăng quang năm 1386. Sau khi sống trọn đời trong nền văn hóa Ba-lan trong đó bức ảnh kia là biểu tượng hàng đầu, năm 1976, Henryk Górecki sáng tác Tác Phẩm số 36, Symphonia piésni zalosnych (giao hưởng trường ca than vãn), một giao hưởng đứng chung với War Requiem (Cầu Hồn Thời Chiến) của Benjamin Britten và Leningrad Symphony (giao hưởng Lenigrad) của Dmitry Shostakovich thành một tưởng niệm đối với các nạn nhân Thế Chiến Thứ Hai. Nhưng nó cũng nói lên, nhất là trong phần đơn ca giọng nữ cao, điều truyền thống Ba-lan vẫn nhìn thấy trước ảnh Ðức Bà Ðen tại Czestochowa (50). Khuôn mặt đen sậm của Đức Trinh Nữ trong bức ảnh là do bị khói nám, tuy nhiên nó vẫn có hiệu quả của điều được đức giáo hoàng Gio-an Phaolô Ðệ Nhị, một người sùng kính đặc biệt Ðức Trinh Nữ Czestochowa, gọi là “tháp nhập văn hóa” (acculturation), nhất là tháp nhập về phương diện phụng vụ và nghệ thuật. Tuy nhiên, nhờ một nghịch lý, một nghịch lý không hẳn không có song hành lịch sử, lời công bố mạnh mẽ nhất ủng hộ cho diễn trình trên đối với các tranh ảnh đa văn hóa này lại phát xuất từ một nguồn từng lên án mọi thứ tượng ảnh, đó là Kinh Kô-răng của Hồi giáo.
___________________________________________________________________________________________________________________________________________________________________
Ghi Chú
1. LTK 8:613 (Max Bierbaum)
2. Xem chương 8 ở bên dưới.
3. Elisabeth Ott, Thomas Merton, Granzganger zwischen Christentum und Buddismus: Uber das Verhaltnis von Selbsterfahrung und Gottesbegegnung (Wurzburg: Echter Verlag, 1977).
4. Câu này và trọn phần còn lại của đoạn này được phóng tác từ lời “dẫn nhập” vào Kinh Koran trong Sacred Writings, 6 cuốn, do Jaroslav Pelikan chủ biên, với cuốn dùng kèm On Searching The Scriptures – Your Own or Someone Else’s (New York: Book of the Month Club, 1992), 3:xiv.
5. Koran 21:107-8.
6. Suốt chương này, tác giả theo bản dịch kinh Kô-răng do thi sĩ và học giả quá cố người Pakistan là Ahmed Ali, mà ông vốn được phép cho vào bộ Sacred Writings.
7. St 3:20.
8. Yvonne Y. Haddad & Jane I. Smith, “The Virgin Mary in Islamic Tradition and Commentary” trong Muslim World 79 (1989): 162.
9. Xem chương 1 ở trên.
10. Ludwig Hagemann, Maria, die Mutter Jesu, in Bibel und Koran (Wurzburg: Echter Verlag, 1992).
11. Neal Robinson, “Jesus and Mary in the Qur’an: Some Neglected Affinities” trong Religion 20 (1990): 169-71.
12. Qur’an 66:12.
13. Cũng nên xem Nilo Geagea, Mary of the Koran, bản dịch của Lawrence T. Farnes (New York: Philosophical Library, 1984); C.H. Becker, Christianity and Islam, bản dịch của H.J. Chytor (New York: Burt Franklin Reprints, 1974), 22.
14. ADB 3:889 (Paul W. Hollenbach).
15. Qur’an 19:12.
16. St 21:18.
17. Qur’an 3:42-43.
18. Lc 1:34.
19. Qur’an 3:45-46.
20. Norman Cohn, The Pursuit of the Millennium (New York: Academy Library, 1969).
21. Lc 1:34.
22. St 4:1, 25.
23. Qur’an 3:47.
24. Lc 1:37.
25. Lc 1:35.
26. St 16;6, 21:9-21.
27. Xem chương 3 ở trên.
28. Qur’an 19:16, 41, 51.
29. R. Travers Herford, Christianity in Talmud and Midras (New York: Ktav Publishing House, 1975), 358.
30. N.J. Dawood chủ biên và dịch, The Koran, ấn bản thứ 5 (London: Penguin Books, 1996), 215, n.1.
31. Ga 1:17.
32. Mt 17:3.
33. Qur’an 14:39.
34. Qur’an 5:78.
35. Bartholomew thành Edessa Refutation of the Hagarene (PG 104: 1397).
36. Norman Daniel, Islam and the West: The Making of an Image (Edinburgh: Edinburgh University Press, 1960), 175.
37. Qur’an 19:35.
38. Xem chương 6 ở dưới.
39. Qur’an 19:21.
40. Qur’an 5:75.
41. Placid J. Podipara, Mariology of the East (Kerala, India: Oriental Institute of Religious Studies, 1985).
42. Xem Charles Belmonte, Aba ginoong Maria: The Virgin Mary in Philippine Art (Manila: Aba Ginoong Maria Foundation, 1990).
43. Xem chương 13 ở dưới.
44. Diễm Ca 1:5 (bản dịch của Marvin Pope); cũng nên xem chương 2 ở trên.
45. Xem nghiên cứu có minh họa rất đồ sộ của Stanislaw Chojnacki, Major Themes in Ethiopian Painting: Indigenous Developments, the Influence of Foreign Models, and Their Adaptation from the Thirteenth to the Nineteenth Century (Wiesbaden:F. Steiner, 1983).
46. Marie Durand-Lefèbre, Etude sur l’origine des Vierges noires (Paris: G. Durassié, 1937).
47. Marvin H. Hope, Song of Songs: A new Translation with Introduction and Commentary (New York: Doubleday, 1977), 307-18.
48. A.J. Delattre, Le Culte de la Sainte Vierge en Afrique: d’après les monuments archéologiques (Paris: Société St-Augustin, 1907).
49. Maria Tarnawsha, Poland the Kingdom of Mary, bản dịch của Rosamund Batchelor (Lower Bullingham, Hereford: Zgromazdenie Ksiezy Ma-ri-anow, 1982).
50. Xem chương 9 ở dưới.
Tin Đáng Chú Ý
Lo ngại về nợ quốc gia của Việt Nam
Trần Vinh Dự
19:16 13/12/2009
VOA 09/12/2009 - Trong một báo cáo được công bố vào ngày 8 tháng 12 vừa qua, tập đoàn đầu tư Nomura đã đưa ra những nhận định u ám về triển vọng kinh tế ở Việt Nam. Bloomberg trích lại nguồn này cho biết “ Việt Nam đang có những đặc điểm kinh điển của khủng hoảng ở thị trường mới nổi và các nhà đầu tư phải mua bảo hiểm chống lại một cuộc vỡ nợ quốc gia.”
Nomura cũng nhận định Việt Nam đang đứng trước rủi ro bị hạ thấp hạng đối với các khoản nợ quốc gia. Hiện nay các khoản nợ quốc gia của Việt Nam được Moody xếp hạng Ba3 và Standard & Poor’s xếp hạng BB. Hồi giữa năm 2008 vừa qua, Standard & Poor’s đã hạ thấp mức xếp hạng chỉ số tín dụng quốc gia của Việt Nam từ “ổn định” (stable) xuống “tiêu cực” (negative).
Gần đây hơn, hồi cuối tháng 6 năm 2009, Fitch Ratings đã đánh tụt một bậc xếp hạng định mức tín nhiệm nợ dài hạn bằng đồng nội tệ của Việt Nam xuống mức BB-. Theo VNeconomy, với mức xếp hạng BB-, Việt Nam đang có chung định mức tín nhiệm nợ đồng nội tệ với Kenya và Serbia. Trong số 18 nền kinh tế châu Á mà Fitch theo dõi, Việt Nam có mức xếp hạng tín nhiệm nợ nội tệ đứng thứ 4 từ dưới lên, cao hơn so với Sri Lanka, Papua New Guinea và Mông Cổ.
Nomura cũng cho rằng chi phí bảo hiểm nợ quốc gia của Việt Nam khỏi vỡ nợ có thể sẽ tăng vọt lên mức 400 điểm cơ bản nếu vấn đề mất cân đối cán cân vãng lai tiếp tục xấu đi. Mức chi phí bảo hiểm này hiện nay là vào khoảng 231 điểm.
Quan ngại về khả năng vỡ nợ hàng loạt ở các nước đang phát triển được hâm nóng lên gần đây sau sự kiện tập đoàn Dubai World tìm cách hoãn nợ hồi cuối tháng trước.
Phản ứng trước báo cáo mới nhất này, ông Nguyễn Ngọc Anh của Bộ Tài chính đã phủ nhận đánh giá của Nomura và cho rằng báo cáo này đã cường điệu khi nói Việt Nam đang có cuộc khủng hoảng cán cân vãng lai. Ông Anh nhìn nhận Việt Nam đang phải đối mặt với một số khó khăn nhưng đó chỉ là nhất thời.
Sự thực Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với vấn đề thâm hụt mậu dịch lớn và dai dẳng, áp lực phá giá VND ở mức ghê gớm, cùng với các dấu hiệu kinh tế quá nóng như bùng nổ tăng trưởng tín dụng và lạm phát.
Gần đây, Ngân hàng Nhà Nước (NHNN) của Việt Nam đã đột ngột tuyên bố phá giá 5.3% giá trị đồng VND mặc cho trước đó không lâu các quan chức cấp cao vẫn một mực phủ nhận khả năng này.
Tuy nhiên, ngay cả sau khi đã phá giá 5.3% thì áp lực phá giá tiếp tục đồng VND vẫn ở mức rất cao.
Chính quyền Việt Nam có vẻ như đang nỗ lực bằng mọi cách để dập tắt các mầm mống của một cuộc khủng hoảng mới. Các doanh nghiệp nhà nước hiện nay bị ép phải bán 50% số ngoại tệ mà họ giữ, bộ Công thương đang áp dụng các biện pháp hành chính nhằm giảm nhập khẩu, NHNN đang tấn công vào kinh doanh vàng và đe dọa những người kinh doanh tiền tệ ở chợ đen. Ngoài ra, NHNN cũng được dự báo sẽ tiếp tục tăng lãi suất (sau đợt tăng lãi suất cơ bản hồi cuối tháng trước) và dự trữ bắt buộc vào năm tới để làm giảm đà tăng trưởng tín dụng và kiềm chế lạm phát.
Mặc cho các đánh giá bi quan trong ngắn hạn, các dự báo trung và dài hạn nói chung vẫn tương đối lạc quan. Ngay cả báo cáo trên của Nomura cũng nhận định Việt Nam có “tiềm năng hứa hẹn” trong trung và dài hạn.
(Source: http://www.voanews.com/vietnamese/2009-12-09-voa13.cfm)
![]() |
Gần đây hơn, hồi cuối tháng 6 năm 2009, Fitch Ratings đã đánh tụt một bậc xếp hạng định mức tín nhiệm nợ dài hạn bằng đồng nội tệ của Việt Nam xuống mức BB-. Theo VNeconomy, với mức xếp hạng BB-, Việt Nam đang có chung định mức tín nhiệm nợ đồng nội tệ với Kenya và Serbia. Trong số 18 nền kinh tế châu Á mà Fitch theo dõi, Việt Nam có mức xếp hạng tín nhiệm nợ nội tệ đứng thứ 4 từ dưới lên, cao hơn so với Sri Lanka, Papua New Guinea và Mông Cổ.
Nomura cũng cho rằng chi phí bảo hiểm nợ quốc gia của Việt Nam khỏi vỡ nợ có thể sẽ tăng vọt lên mức 400 điểm cơ bản nếu vấn đề mất cân đối cán cân vãng lai tiếp tục xấu đi. Mức chi phí bảo hiểm này hiện nay là vào khoảng 231 điểm.
Quan ngại về khả năng vỡ nợ hàng loạt ở các nước đang phát triển được hâm nóng lên gần đây sau sự kiện tập đoàn Dubai World tìm cách hoãn nợ hồi cuối tháng trước.
Phản ứng trước báo cáo mới nhất này, ông Nguyễn Ngọc Anh của Bộ Tài chính đã phủ nhận đánh giá của Nomura và cho rằng báo cáo này đã cường điệu khi nói Việt Nam đang có cuộc khủng hoảng cán cân vãng lai. Ông Anh nhìn nhận Việt Nam đang phải đối mặt với một số khó khăn nhưng đó chỉ là nhất thời.
Sự thực Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với vấn đề thâm hụt mậu dịch lớn và dai dẳng, áp lực phá giá VND ở mức ghê gớm, cùng với các dấu hiệu kinh tế quá nóng như bùng nổ tăng trưởng tín dụng và lạm phát.
Gần đây, Ngân hàng Nhà Nước (NHNN) của Việt Nam đã đột ngột tuyên bố phá giá 5.3% giá trị đồng VND mặc cho trước đó không lâu các quan chức cấp cao vẫn một mực phủ nhận khả năng này.
Tuy nhiên, ngay cả sau khi đã phá giá 5.3% thì áp lực phá giá tiếp tục đồng VND vẫn ở mức rất cao.
Chính quyền Việt Nam có vẻ như đang nỗ lực bằng mọi cách để dập tắt các mầm mống của một cuộc khủng hoảng mới. Các doanh nghiệp nhà nước hiện nay bị ép phải bán 50% số ngoại tệ mà họ giữ, bộ Công thương đang áp dụng các biện pháp hành chính nhằm giảm nhập khẩu, NHNN đang tấn công vào kinh doanh vàng và đe dọa những người kinh doanh tiền tệ ở chợ đen. Ngoài ra, NHNN cũng được dự báo sẽ tiếp tục tăng lãi suất (sau đợt tăng lãi suất cơ bản hồi cuối tháng trước) và dự trữ bắt buộc vào năm tới để làm giảm đà tăng trưởng tín dụng và kiềm chế lạm phát.
Mặc cho các đánh giá bi quan trong ngắn hạn, các dự báo trung và dài hạn nói chung vẫn tương đối lạc quan. Ngay cả báo cáo trên của Nomura cũng nhận định Việt Nam có “tiềm năng hứa hẹn” trong trung và dài hạn.
(Source: http://www.voanews.com/vietnamese/2009-12-09-voa13.cfm)
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Đường Xưa Yêu Dấu
Diệp Hải Dung
23:15 13/12/2009
ĐƯỜNG XƯA YÊU DẤU
Ảnh của Diệp Hải Dung, Australia (Hình chụp tại Waterfalls National Park NSW)

Vết bước chân em qua bao nhiêu lần...
Hàng cây mơ bóng bên đường
Gọi người khi nắng phai tàn
Gọi tình yêu vào lãng quên...
(Trích nhạc phẩm Dấu Tình Sầu của Ngô Thụy Miên)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền