Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. ·
01:13 01/10/2025
12. Dung mạo bên ngoài nhiều khiêm tốn mà tâm bên trong ít khiêm tốn, thì nên biết rằng, khiêm tốn thật tâm bên trong thì tỏ lộ ra nơi dung mạo bên ngoài, nên coi họ nhẫn nại như thế nào khi có người khác nhục mạ khinh thị họ, thì lúc đó họ mới thật là khiêm tốn.
(Thánh Jerome)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb..
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb. ·
01:17 01/10/2025
57. ĐÁNH NÓ BA LÍT
Có một huyện quan suốt ngày say rượu.
Sau buổi trưa nọ, sau khi uống xong một bình rượu, và trong khi kêu công sai đi mua cho ông ta vài hủ rượu, thì đột nhiên nghe phía bên ngoài có người than oán.
Ông ta rất bực bội và ra lệnh thăng đường, quát công sai lấy thước đánh người than oán, công sai hỏi:
- “Đánh bao nhiêu hèo?”
Vì ông ta quá say nên đưa ra ba ngón tay, nói:
- “Đánh nó ba lít !”
(Tiếu tiếu lục)
Suy tư 57:
Làm quan say xỉn cả ngày thì có ba hậu quả:
- một là trí nhớ ngày càng dưới trung bình,
- hai là hành xử không công bằng
- ba là năng lực càng lúc càng kém.
Quan say xỉn nên nói “đánh ba lít” thì chắc chắn cuộc thăng đường của ông sẽ có nhiều tác hại cho người dân, và nhất là xét án không công minh.
Làm người Ki-tô hữu mà suốt ngày cứ lo nghĩ đến lấy gì ăn lấy gì sống, mà không nghĩ đến mình có một người Cha rất yêu thương mình ở trên trời, thì có ba hậu quả sau:
- một là đức tin càng ngày càng yếu,
- hai là cuộc sống ngày càng giống người ngoại giáo,
- ba là không trở nên chứng nhân cho Đức Chúa Giê-su trong cách sống của mình.
Chim bay trên trời Chúa vẫn nuôi và hoa huệ ngoài đồng Chúa vẫn cho mặc đẹp, thì huống gì là con cái của Ngài !
Quan say và quan tỉnh khác nhau là ở chỗ đó vậy...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Có một huyện quan suốt ngày say rượu.
Sau buổi trưa nọ, sau khi uống xong một bình rượu, và trong khi kêu công sai đi mua cho ông ta vài hủ rượu, thì đột nhiên nghe phía bên ngoài có người than oán.
Ông ta rất bực bội và ra lệnh thăng đường, quát công sai lấy thước đánh người than oán, công sai hỏi:
- “Đánh bao nhiêu hèo?”
Vì ông ta quá say nên đưa ra ba ngón tay, nói:
- “Đánh nó ba lít !”
(Tiếu tiếu lục)
Suy tư 57:
Làm quan say xỉn cả ngày thì có ba hậu quả:
- một là trí nhớ ngày càng dưới trung bình,
- hai là hành xử không công bằng
- ba là năng lực càng lúc càng kém.
Quan say xỉn nên nói “đánh ba lít” thì chắc chắn cuộc thăng đường của ông sẽ có nhiều tác hại cho người dân, và nhất là xét án không công minh.
Làm người Ki-tô hữu mà suốt ngày cứ lo nghĩ đến lấy gì ăn lấy gì sống, mà không nghĩ đến mình có một người Cha rất yêu thương mình ở trên trời, thì có ba hậu quả sau:
- một là đức tin càng ngày càng yếu,
- hai là cuộc sống ngày càng giống người ngoại giáo,
- ba là không trở nên chứng nhân cho Đức Chúa Giê-su trong cách sống của mình.
Chim bay trên trời Chúa vẫn nuôi và hoa huệ ngoài đồng Chúa vẫn cho mặc đẹp, thì huống gì là con cái của Ngài !
Quan say và quan tỉnh khác nhau là ở chỗ đó vậy...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Bạn đường
Lm. Minh Anh
14:48 01/10/2025
BẠN ĐƯỜNG
“Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để giữ gìn ngươi khi đi đường và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn!”.
“Nếu Chúa sai chúng ta đi trên những con đường đầy đá, Ngài sẽ cung cấp những đôi giày bền bỉ! Sai chúng ta đến một nơi xa lạ, Ngài sẽ chuẩn bị một người bạn đường! Và nếu muốn cứu độ chúng ta đời đời, Ngài ban Con Một!” - A. Maclaren.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa lễ Thiên Thần Bản Mệnh cho thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa dành cho mỗi người. Để canh giữ hồn xác chúng ta từ khi chào đời cho đến ngày tắt hơi, Chúa ban cho mỗi người một ‘bạn đường’, yêu quý chúng ta như một vệ sĩ vô hình.
“Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi!” - bài đọc một; “Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường!” - Thánh Vịnh đáp ca; đặt một em bé giữa các môn đệ, Chúa Giêsu cũng nói đến sự hiện diện của những người ‘bạn đường’ này, “Các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy!” - Tin Mừng. “Các Thiên Thần Hộ Thủ là những người bạn trung tín nhất, vì họ ở với chúng ta ngày đêm, luôn luôn và ở mọi nơi. Chúng ta nên thường xuyên kêu cầu các ngài!” - Gioan Vianney.
Hãy tưởng tượng, mỗi người có một vệ sĩ đồng hành chăm sóc suốt đời! Gặp nguy khốn, chúng ta không đơn độc; gặp khó khăn, các ngài gỡ rối; khi bất an, các ngài thêm can đảm. Tuy nhiên, sự có mặt thường xuyên của ‘ai đó’ cũng có thể bất tiện, vì một ‘ai đó’ luôn nhìn thấy mọi hành vi, kể cả tội lỗi chúng ta phạm. Vậy mà, người bạn đó luôn tôn trọng; không phán xét, nhưng chỉ ra sức cản ngăn khi chúng ta làm điều trái. Vì tôn trọng tự do, không ít lần, các ngài bất lực! “Chỉ ở trên thiên đàng, chúng ta mới hiểu được bao nhiêu hiểm nguy đã được thiên thần gìn giữ, và bao nhiêu tình yêu các ngài đã tuôn đổ mà không ai nhìn thấy!” - Henry Newman.
Như vậy, nếu Thiên Chúa để chúng ta bước vào thung lũng bóng tối, Ngài thắp lên một ngọn đèn soi bước chân; nếu Ngài cho chúng ta vác thập giá nặng nề, chính Chúa Kitô cũng đặt vai mình kề sát vai mỗi người! Và nếu Ngài đòi hỏi chúng ta hiến dâng tất cả, chính Ngài cũng trao ban chính mình để bù đắp gấp trăm lần.
Anh Chị em,
“Này Ta sai thiên sứ đi trước con!”. Có thể nói, người ‘bạn đường’ trung tín nhất đời của chúng ta không chỉ là thiên thần bản mệnh, mà chính là Chúa Giêsu. Ngài không chỉ ‘đi trước’ để mở đường, mà còn ‘đi cùng’ để chia sẻ mọi gian truân. Nếu thiên thần hộ thủ là người bạn vô hình giữ gìn, thì Chúa Giêsu lại là Đấng hữu hình đồng hành, mang lấy cả sự chết để đưa chúng ta vào cõi sống. Vì thế, chiêm ngắm thiên thần bản mệnh, chúng ta càng xác tín hơn: tình yêu Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, luôn gởi đến một sự hiện diện dịu dàng và bền bỉ. “Thiên thần hộ thủ giữ gìn chúng ta, nhưng chính Đức Kitô đồng hành với chúng ta - Ngài đã mang lấy thập giá để không con đường nào còn quá cô đơn!” - A.W. Tozer.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, thiên thần bản mệnh canh giữ con trong thầm lặng, nhưng chính Chúa đi trước và bên con. Xin nâng đỡ khi con yếu lòng, hầu con can đảm bước tiếp!”, Amen.
(Tgp. Huế)
“Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để giữ gìn ngươi khi đi đường và đưa ngươi vào nơi Ta đã dọn sẵn!”.
“Nếu Chúa sai chúng ta đi trên những con đường đầy đá, Ngài sẽ cung cấp những đôi giày bền bỉ! Sai chúng ta đến một nơi xa lạ, Ngài sẽ chuẩn bị một người bạn đường! Và nếu muốn cứu độ chúng ta đời đời, Ngài ban Con Một!” - A. Maclaren.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa lễ Thiên Thần Bản Mệnh cho thấy tình yêu bao la của Thiên Chúa dành cho mỗi người. Để canh giữ hồn xác chúng ta từ khi chào đời cho đến ngày tắt hơi, Chúa ban cho mỗi người một ‘bạn đường’, yêu quý chúng ta như một vệ sĩ vô hình.
“Này Ta sai thiên sứ đi trước ngươi!” - bài đọc một; “Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường!” - Thánh Vịnh đáp ca; đặt một em bé giữa các môn đệ, Chúa Giêsu cũng nói đến sự hiện diện của những người ‘bạn đường’ này, “Các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy!” - Tin Mừng. “Các Thiên Thần Hộ Thủ là những người bạn trung tín nhất, vì họ ở với chúng ta ngày đêm, luôn luôn và ở mọi nơi. Chúng ta nên thường xuyên kêu cầu các ngài!” - Gioan Vianney.
Hãy tưởng tượng, mỗi người có một vệ sĩ đồng hành chăm sóc suốt đời! Gặp nguy khốn, chúng ta không đơn độc; gặp khó khăn, các ngài gỡ rối; khi bất an, các ngài thêm can đảm. Tuy nhiên, sự có mặt thường xuyên của ‘ai đó’ cũng có thể bất tiện, vì một ‘ai đó’ luôn nhìn thấy mọi hành vi, kể cả tội lỗi chúng ta phạm. Vậy mà, người bạn đó luôn tôn trọng; không phán xét, nhưng chỉ ra sức cản ngăn khi chúng ta làm điều trái. Vì tôn trọng tự do, không ít lần, các ngài bất lực! “Chỉ ở trên thiên đàng, chúng ta mới hiểu được bao nhiêu hiểm nguy đã được thiên thần gìn giữ, và bao nhiêu tình yêu các ngài đã tuôn đổ mà không ai nhìn thấy!” - Henry Newman.
Như vậy, nếu Thiên Chúa để chúng ta bước vào thung lũng bóng tối, Ngài thắp lên một ngọn đèn soi bước chân; nếu Ngài cho chúng ta vác thập giá nặng nề, chính Chúa Kitô cũng đặt vai mình kề sát vai mỗi người! Và nếu Ngài đòi hỏi chúng ta hiến dâng tất cả, chính Ngài cũng trao ban chính mình để bù đắp gấp trăm lần.
Anh Chị em,
“Này Ta sai thiên sứ đi trước con!”. Có thể nói, người ‘bạn đường’ trung tín nhất đời của chúng ta không chỉ là thiên thần bản mệnh, mà chính là Chúa Giêsu. Ngài không chỉ ‘đi trước’ để mở đường, mà còn ‘đi cùng’ để chia sẻ mọi gian truân. Nếu thiên thần hộ thủ là người bạn vô hình giữ gìn, thì Chúa Giêsu lại là Đấng hữu hình đồng hành, mang lấy cả sự chết để đưa chúng ta vào cõi sống. Vì thế, chiêm ngắm thiên thần bản mệnh, chúng ta càng xác tín hơn: tình yêu Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, luôn gởi đến một sự hiện diện dịu dàng và bền bỉ. “Thiên thần hộ thủ giữ gìn chúng ta, nhưng chính Đức Kitô đồng hành với chúng ta - Ngài đã mang lấy thập giá để không con đường nào còn quá cô đơn!” - A.W. Tozer.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, thiên thần bản mệnh canh giữ con trong thầm lặng, nhưng chính Chúa đi trước và bên con. Xin nâng đỡ khi con yếu lòng, hầu con can đảm bước tiếp!”, Amen.
(Tgp. Huế)
Đức tin biến điều không thể thành có thể
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
19:36 01/10/2025
SUY NIỆM CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN – NĂM C
(Lc 17, 5-10)
Đức tin biến điều không thể thành có thể
Chiến tranh giữa Nga và Ukraine, Israel với một số nước Trung Đông, bất ổn chính trị ở vài nước, bạo lực và sự đổ vỡ niềm tin nơi xã hội, chúng ta lại được nghe một lời khẩn cầu thật đơn sơ nhưng đầy sức mạnh từ các Tông đồ: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).
Trước tình cảnh thế giới hiện nay, chúng ta hãy lấy lời cầu của các Tông đồ làm chính lời nguyện của mình mà dâng lên Chúa lời cầu nguyện thiết tha: Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con.
Đức tin biến điều không thể thành có thể
Đáp lại lời cầu xin của các Tông đồ, Chúa Giê-su đáp: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’, nó liền vâng lời các con” (Lc 17,6). Một lời đáp đầy thách đố và cũng đầy khích lệ.
Chúa Giê-su không đo lường đức tin theo thước đo vật lý, nhưng theo sự sống động và quyết liệt của lòng tin. Một đức tin dù nhỏ bé, khi đặt trọn niềm cậy trông vào Chúa, vẫn có thể làm được những điều không thể.
Đức tin không phải là một cảm xúc mơ hồ, cũng không phải là một kiến thức thần học cao siêu. Đức tin là mối tương quan sống động với Thiên Chúa yêu thương, lắng nghe, và dẫn dắt con người đi qua bóng đen của sự dữ.
Lời Thiên Chúa dành cho người tin
Tiên tri Kha-ba-cúc sống trong thời buổi bạo loạn, chiến tranh tàn phá, đạo đức bị đảo lộn, người ngay bị thiệt thòi, nhiều người chất vấn Thiên Chúa, chính ngôn sứ thốt lên: “Lạy Chúa, tôi kêu cầu cho đến bao giờ mà Chúa không nghe?… Cướp bóc và bất lương trước mặt tôi…”. Nhưng Thiên Chúa không im hơn lặng tiếng. Ngài phán: “Người công chính sẽ sống nhờ trung tín” (Kb 2,4). Tức là, đức tin không phải là thoát khỏi khổ đau, nhưng là dám sống giữa đau khổ và trung thành với Thiên Chúa.
Bài học của Kha-ba-cúc là: đức tin trưởng thành không phải là đức tin có câu trả lời tức thì, nhưng là sự trung thành bền bỉ, dám sống lương thiện một giữa thế giới gian tà. Thiên Chúa không bịt tai trước tiếng kêu than, dù Ngài không đáp ngay lập tức. Điều Chúa muốn là trung tín, kiên nhẫn chờ đợi, và sống công chính dù trong bóng tối.
Sự kiêu ngạo và bất trung là thái độ của người cho mình là trung tâm, không cần Thiên Chúa, đó là con đường dẫn đến diệt vong. “Người công chính sống nhờ đức tin“. Nghĩa là không chỉ tin bằng lý trí, mà còn trung thành với Giao Ước: dám sống theo đường lối Thiên Chúa.
Trong cuộc sống, đôi lúc chúng ta không thấy gì xảy ra, nhưng hãy tiếp tục cầu nguyện. Cứ sống ngay lành và hy vọng dù có bị thiệt thân, ngay cả khi xã hội mất định hướng.
Thánh Phao-lô, từ trong ngục tù, viết cho môn đệ Ti-mô-thê-ô đang nhụt chí: “Con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa… nhưng con hãy đồng lao cộng tác với Cha vì Tin Mừng” (2Tm 1,8).
Đức tin không miễn trừ khổ đau, nhưng giúp ta đối diện đau khổ với hy vọng, vì “Thiên Chúa đã ban cho chúng ta thần trí dung mạnh, bác ái và tiết độ” (2Tm 1,7).
Thế giới hiện nay chiến tranh vẫn tiếp diễn, người Palestin loạn lạc, đói khổ, giao tranh tiếp tục leo thang tại Gaza City gây bao thù hận nơi Hamas và Houthi. Người tín hữu không chỉ sống nhờ thuốc men hay tiền bạc, mà sống nhờ niềm tin không lay chuyển rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện, vẫn yêu thương, và vẫn dẫn dắt lịch sử.
Trong bóng tối của sự dữ, lý trí đôi khi bế tắc. Lúc đó, đức tin là ngọn đèn không tắt trong đêm tối. Đức tin và lý trí không loại trừ nhau, nhưng bổ túc cho nhau. Đức tin là chiếc khiên chắn trước mũi tên của kẻ thù; là cầu nối giữa linh hồn và Thiên Chúa.
Sống và thực hành đức tin qua tràng chuỗi Mân Côi
Người tín hữu chúng ta cần cố gắng thực hành đức tin, cho dù đức tin có lúc bị thử thách đến tột cùng. Tin là tiếp tục cầu nguyện, yêu thương và tha thứ dù thế giới đầy hận thù và chia rẽ. Hãy tin để mà sống và hy vọng.
Tháng 10 là tháng đặc biệt để sống đức tin qua việc lần chuỗi Mân Côi. Đức Ma-ri-a, Mẹ của những kẻ có lòng tin, đã sống lời “Xin vâng” không chỉ nơi biến cố Truyền Tin, mà suốt cả hành trình sống: từ nơi hang đá Bethlem, sang Ai Cập, đến dưới chân thập giá Chúa.
Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II lúc sinh thời đã gọi Mẹ Ma-ri-a là “Người môn đệ đầu tiên của đức tin”. Mẹ không hỏi “tại sao?”, nhưng chỉ hỏi “Làm sao? “, rồi hoàn toàn tín thác.
Đọc Kinh Kính Mừng là chúng ta bước vào trường học của Mẹ, học cách suy niệm, kiên nhẫn, và dâng hiến. Lời kinh tuy đơn sơ mà người lính, người già, người bệnh, hay trẻ nhỏ đều có thể đọc, trở thành vũ khí của đức tin và hy vọng ở mọi nơi mọi thời. Lời Kinh ấy là cầu nối đất với trời, và con người trần thế với nhau.
Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con, nhờ lời chuyển cầu của Đức Ma-ri-a, Nữ Vương truyền Phép Rất Thánh Mân Côi. Amen.
(Lc 17, 5-10)
Đức tin biến điều không thể thành có thể
Chiến tranh giữa Nga và Ukraine, Israel với một số nước Trung Đông, bất ổn chính trị ở vài nước, bạo lực và sự đổ vỡ niềm tin nơi xã hội, chúng ta lại được nghe một lời khẩn cầu thật đơn sơ nhưng đầy sức mạnh từ các Tông đồ: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5).
Trước tình cảnh thế giới hiện nay, chúng ta hãy lấy lời cầu của các Tông đồ làm chính lời nguyện của mình mà dâng lên Chúa lời cầu nguyện thiết tha: Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con.
Đức tin biến điều không thể thành có thể
Đáp lại lời cầu xin của các Tông đồ, Chúa Giê-su đáp: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển’, nó liền vâng lời các con” (Lc 17,6). Một lời đáp đầy thách đố và cũng đầy khích lệ.
Chúa Giê-su không đo lường đức tin theo thước đo vật lý, nhưng theo sự sống động và quyết liệt của lòng tin. Một đức tin dù nhỏ bé, khi đặt trọn niềm cậy trông vào Chúa, vẫn có thể làm được những điều không thể.
Đức tin không phải là một cảm xúc mơ hồ, cũng không phải là một kiến thức thần học cao siêu. Đức tin là mối tương quan sống động với Thiên Chúa yêu thương, lắng nghe, và dẫn dắt con người đi qua bóng đen của sự dữ.
Lời Thiên Chúa dành cho người tin
Tiên tri Kha-ba-cúc sống trong thời buổi bạo loạn, chiến tranh tàn phá, đạo đức bị đảo lộn, người ngay bị thiệt thòi, nhiều người chất vấn Thiên Chúa, chính ngôn sứ thốt lên: “Lạy Chúa, tôi kêu cầu cho đến bao giờ mà Chúa không nghe?… Cướp bóc và bất lương trước mặt tôi…”. Nhưng Thiên Chúa không im hơn lặng tiếng. Ngài phán: “Người công chính sẽ sống nhờ trung tín” (Kb 2,4). Tức là, đức tin không phải là thoát khỏi khổ đau, nhưng là dám sống giữa đau khổ và trung thành với Thiên Chúa.
Bài học của Kha-ba-cúc là: đức tin trưởng thành không phải là đức tin có câu trả lời tức thì, nhưng là sự trung thành bền bỉ, dám sống lương thiện một giữa thế giới gian tà. Thiên Chúa không bịt tai trước tiếng kêu than, dù Ngài không đáp ngay lập tức. Điều Chúa muốn là trung tín, kiên nhẫn chờ đợi, và sống công chính dù trong bóng tối.
Sự kiêu ngạo và bất trung là thái độ của người cho mình là trung tâm, không cần Thiên Chúa, đó là con đường dẫn đến diệt vong. “Người công chính sống nhờ đức tin“. Nghĩa là không chỉ tin bằng lý trí, mà còn trung thành với Giao Ước: dám sống theo đường lối Thiên Chúa.
Trong cuộc sống, đôi lúc chúng ta không thấy gì xảy ra, nhưng hãy tiếp tục cầu nguyện. Cứ sống ngay lành và hy vọng dù có bị thiệt thân, ngay cả khi xã hội mất định hướng.
Thánh Phao-lô, từ trong ngục tù, viết cho môn đệ Ti-mô-thê-ô đang nhụt chí: “Con chớ hổ thẹn làm chứng cho Chúa… nhưng con hãy đồng lao cộng tác với Cha vì Tin Mừng” (2Tm 1,8).
Đức tin không miễn trừ khổ đau, nhưng giúp ta đối diện đau khổ với hy vọng, vì “Thiên Chúa đã ban cho chúng ta thần trí dung mạnh, bác ái và tiết độ” (2Tm 1,7).
Thế giới hiện nay chiến tranh vẫn tiếp diễn, người Palestin loạn lạc, đói khổ, giao tranh tiếp tục leo thang tại Gaza City gây bao thù hận nơi Hamas và Houthi. Người tín hữu không chỉ sống nhờ thuốc men hay tiền bạc, mà sống nhờ niềm tin không lay chuyển rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện, vẫn yêu thương, và vẫn dẫn dắt lịch sử.
Trong bóng tối của sự dữ, lý trí đôi khi bế tắc. Lúc đó, đức tin là ngọn đèn không tắt trong đêm tối. Đức tin và lý trí không loại trừ nhau, nhưng bổ túc cho nhau. Đức tin là chiếc khiên chắn trước mũi tên của kẻ thù; là cầu nối giữa linh hồn và Thiên Chúa.
Sống và thực hành đức tin qua tràng chuỗi Mân Côi
Người tín hữu chúng ta cần cố gắng thực hành đức tin, cho dù đức tin có lúc bị thử thách đến tột cùng. Tin là tiếp tục cầu nguyện, yêu thương và tha thứ dù thế giới đầy hận thù và chia rẽ. Hãy tin để mà sống và hy vọng.
Tháng 10 là tháng đặc biệt để sống đức tin qua việc lần chuỗi Mân Côi. Đức Ma-ri-a, Mẹ của những kẻ có lòng tin, đã sống lời “Xin vâng” không chỉ nơi biến cố Truyền Tin, mà suốt cả hành trình sống: từ nơi hang đá Bethlem, sang Ai Cập, đến dưới chân thập giá Chúa.
Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II lúc sinh thời đã gọi Mẹ Ma-ri-a là “Người môn đệ đầu tiên của đức tin”. Mẹ không hỏi “tại sao?”, nhưng chỉ hỏi “Làm sao? “, rồi hoàn toàn tín thác.
Đọc Kinh Kính Mừng là chúng ta bước vào trường học của Mẹ, học cách suy niệm, kiên nhẫn, và dâng hiến. Lời kinh tuy đơn sơ mà người lính, người già, người bệnh, hay trẻ nhỏ đều có thể đọc, trở thành vũ khí của đức tin và hy vọng ở mọi nơi mọi thời. Lời Kinh ấy là cầu nối đất với trời, và con người trần thế với nhau.
Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con, nhờ lời chuyển cầu của Đức Ma-ri-a, Nữ Vương truyền Phép Rất Thánh Mân Côi. Amen.
Đức Maria – Nữ Vương của niềm Hy vọng
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
19:39 01/10/2025
SUY NIỆM LỄ Đức Mẹ MÂN CÔI
(Lc 1,26-38 )
Đức Maria – Nữ Vương của niềm hy vọng
Tháng Mười, tháng Mân Côi lại về, nhắc chúng ta hướng về Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của mỗi người chúng ta là đấng đầy ơn phúc. Chúng ta đang sống trong một thế giới bị chiến tranh, bạo lực đe doạ làm cho bất an. Hình ảnh Mẹ Maria bồng Chúa hài nhi với tràng chuỗi Mân Côi trao cho thánh Đaminh trở thành biểu tượng của niềm hy vọng, kiên trung trong đức tin và chuyên cần cầu nguyện.
"Kính Mừng Maria đầy ơn phúc…"
Đó là lời của Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel chào kính Đức Maria khi được sai đến truyền tin cho Đức Mẹ. Lời đầu tiên Thiên thần cất lên là : "Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà" (Lc 1,28). Đây không chỉ là lời chào, mà còn là lời tán tụng Mẹ là đấng "đầy ơn phúc", vì Mẹ đã hoàn toàn thuận theo ý Chúa trong suốt cả cuộc đời.
Mẹ thưa "Xin vâng" (Lc 1,38) không chỉ một lần, mà là chọn lựa suốt đời. Từ khi nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ bước vào hành trình dấn thân cùng Con Mẹ, từ máng cỏ Bêlem, đến Núi Sọ Canvê. Mẹ cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng, đồng hành, và hiến dâng.
Chính vì thế, Giáo Hội không ngớt lặp lại lời "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", không chỉ để ngợi khen Mẹ, mà còn để mời gọi chúng ta noi gương Mẹ sống gắn bó mật thiết với Thiên Chúa.
Kinh Kính Mừng, bản tóm lược Tin Mừng
Theo truyền thống, Kinh Kính Mừng được hình thành từ hai câu Thánh Kinh : lời sứ thần Gabriel và lời bà Êlisabet : "Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc!" (Lc 1,42). Giáo Hội sau đó thêm lời cầu : "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời…" để bày tỏ lòng cậy trông nơi Mẹ.
Chúng ta không chỉ đọc Kinh Kính Mừng, mà còn suy niệm các mầu nhiệm cứu độ qua đời sống của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Từ niềm vui Truyền Tin, đến nỗi đau khổ Thương Khó, và niềm hy vọng Phục Sinh, chúng ta đọc Kinh Kính Mừng không chỉ nhắc lại các biến cố, mà còn để đặt mình vào trong tình yêu cứu độ.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II lúc sinh thời đã gọi Kinh Kính Mừng là "Tin Mừng rút gọn", tóm lược của lịch sử cứu độ, giúp chúng ta vừa đọc vừa suy với cả con tim.
Từ những thế kỷ đầu, các Giáo Phụ đã nhấn mạnh vai trò trung gian và bầu cử của Đức Maria. Thánh Irênê gọi Mẹ là "Evà mới", người vâng phục để mở lối sống, trái ngược với Evà cũ. Thánh Bênađô dạy : "Đức Maria là thang trời, nhờ đó Thiên Chúa xuống với con người, và con người lên cùng Thiên Chúa."
Thánh Anphongsô quả quyết : "Kinh Kính Mừng làm cho ma quỷ khiếp sợ và hỏa ngục run rẩy." Còn Thánh Louis de Montfort, vị tông đồ của Mẹ Maria đã viết : "Ai trung thành lần chuỗi Mân Côi thì không thể lạc mất phần rỗi."
Ngay cả những nhà khoa học lớn như Louis Pasteur cũng không ngần ngại lần hạt trên tàu điện ngầm. Trong một thời đại lý trí thống trị, ngài không xấu hổ với tràng hạt trên tay, bởi ngài biết Kinh Kính Mừng là sức mạnh thiêng liêng dẫn đến chân lý.
Ơn phúc của việc đọc Kinh Kính Mừng
Khi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta kết hiệp với Chúa Kitô qua Mẹ Maria, bởi mỗi lời Kinh nhắc nhớ chúng ta về Đức Giêsu "Con lòng Mẹ". Như Thánh Louis de Montfort nói : "Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu."
Ai đọc Kinh Kính Mừng sẽ thấy mình kết hợp với Chúa và bình an trong tâm hồn. Thánh Piô năm dấu nói : "Chuỗi Mân Côi là khí giới của thời cuối cùng." Biết bao người tội lỗi đã được ơn hoán cải nhờ đọc Kinh Kính Mừng. Bao gia đình tìm lại sự hòa thuận khi cùng nhau đọc Kinh này.
Trong cảnh một số nước chiến tranh, dẫn đến bạo loạn và khủng hoảng nhân đạo. Nhiều gia đình ly tán, mất mát người thân. Kinh Kính Mừng là lời cầu khẩn tha thiết dâng lên Mẹ để xin ơn bình an cho thế giới.
Đức cố Giáo hoàng Phanxicô đã tha thiết mời gọi toàn thể Giáo Hội "lần hạt Mân Côi mỗi ngày" trong tháng Mười để cầu nguyện cho thế giới, cho Hội Thánh, và cho các nạn nhân của chiến tranh. Ngài nói : "Đừng coi thường sức mạnh của lời cầu nguyện đơn sơ này! "
Trong thời buổi đầy biến động, chúng ta có thể không làm được những việc lớn lao, nhưng chúng ta có thể làm việc nhỏ với tình yêu lớn : lần hạt Mân Côi, hoặc ít nhất một chục kinh, dâng lên Mẹ để cầu cho hòa bình, cho gia đình, cho người nghèo khổ, và cho chính bản thân mình.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi là lời nhắc nhở chúng ta rằng, giữa going tố của cuộc đời, Mẹ Maria là chỗ chúng ta tựa nương. Kinh Kính Mừng là sợi dây nối liền đất với trời, là ánh sáng trong đêm tối, là nguồn sức mạnh thiêng liêng không thể lay chuyển.
Lạy Đức Mẹ Mân Côi, xin cầu cho chúng con. Amen.
(Lc 1,26-38 )
Đức Maria – Nữ Vương của niềm hy vọng
Tháng Mười, tháng Mân Côi lại về, nhắc chúng ta hướng về Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của mỗi người chúng ta là đấng đầy ơn phúc. Chúng ta đang sống trong một thế giới bị chiến tranh, bạo lực đe doạ làm cho bất an. Hình ảnh Mẹ Maria bồng Chúa hài nhi với tràng chuỗi Mân Côi trao cho thánh Đaminh trở thành biểu tượng của niềm hy vọng, kiên trung trong đức tin và chuyên cần cầu nguyện.
"Kính Mừng Maria đầy ơn phúc…"
Đó là lời của Tổng Lãnh Thiên Thần Gabriel chào kính Đức Maria khi được sai đến truyền tin cho Đức Mẹ. Lời đầu tiên Thiên thần cất lên là : "Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà" (Lc 1,28). Đây không chỉ là lời chào, mà còn là lời tán tụng Mẹ là đấng "đầy ơn phúc", vì Mẹ đã hoàn toàn thuận theo ý Chúa trong suốt cả cuộc đời.
Mẹ thưa "Xin vâng" (Lc 1,38) không chỉ một lần, mà là chọn lựa suốt đời. Từ khi nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ bước vào hành trình dấn thân cùng Con Mẹ, từ máng cỏ Bêlem, đến Núi Sọ Canvê. Mẹ cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng, đồng hành, và hiến dâng.
Chính vì thế, Giáo Hội không ngớt lặp lại lời "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", không chỉ để ngợi khen Mẹ, mà còn để mời gọi chúng ta noi gương Mẹ sống gắn bó mật thiết với Thiên Chúa.
Kinh Kính Mừng, bản tóm lược Tin Mừng
Theo truyền thống, Kinh Kính Mừng được hình thành từ hai câu Thánh Kinh : lời sứ thần Gabriel và lời bà Êlisabet : "Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc!" (Lc 1,42). Giáo Hội sau đó thêm lời cầu : "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời…" để bày tỏ lòng cậy trông nơi Mẹ.
Chúng ta không chỉ đọc Kinh Kính Mừng, mà còn suy niệm các mầu nhiệm cứu độ qua đời sống của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Từ niềm vui Truyền Tin, đến nỗi đau khổ Thương Khó, và niềm hy vọng Phục Sinh, chúng ta đọc Kinh Kính Mừng không chỉ nhắc lại các biến cố, mà còn để đặt mình vào trong tình yêu cứu độ.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II lúc sinh thời đã gọi Kinh Kính Mừng là "Tin Mừng rút gọn", tóm lược của lịch sử cứu độ, giúp chúng ta vừa đọc vừa suy với cả con tim.
Từ những thế kỷ đầu, các Giáo Phụ đã nhấn mạnh vai trò trung gian và bầu cử của Đức Maria. Thánh Irênê gọi Mẹ là "Evà mới", người vâng phục để mở lối sống, trái ngược với Evà cũ. Thánh Bênađô dạy : "Đức Maria là thang trời, nhờ đó Thiên Chúa xuống với con người, và con người lên cùng Thiên Chúa."
Thánh Anphongsô quả quyết : "Kinh Kính Mừng làm cho ma quỷ khiếp sợ và hỏa ngục run rẩy." Còn Thánh Louis de Montfort, vị tông đồ của Mẹ Maria đã viết : "Ai trung thành lần chuỗi Mân Côi thì không thể lạc mất phần rỗi."
Ngay cả những nhà khoa học lớn như Louis Pasteur cũng không ngần ngại lần hạt trên tàu điện ngầm. Trong một thời đại lý trí thống trị, ngài không xấu hổ với tràng hạt trên tay, bởi ngài biết Kinh Kính Mừng là sức mạnh thiêng liêng dẫn đến chân lý.
Ơn phúc của việc đọc Kinh Kính Mừng
Khi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta kết hiệp với Chúa Kitô qua Mẹ Maria, bởi mỗi lời Kinh nhắc nhớ chúng ta về Đức Giêsu "Con lòng Mẹ". Như Thánh Louis de Montfort nói : "Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu."
Ai đọc Kinh Kính Mừng sẽ thấy mình kết hợp với Chúa và bình an trong tâm hồn. Thánh Piô năm dấu nói : "Chuỗi Mân Côi là khí giới của thời cuối cùng." Biết bao người tội lỗi đã được ơn hoán cải nhờ đọc Kinh Kính Mừng. Bao gia đình tìm lại sự hòa thuận khi cùng nhau đọc Kinh này.
Trong cảnh một số nước chiến tranh, dẫn đến bạo loạn và khủng hoảng nhân đạo. Nhiều gia đình ly tán, mất mát người thân. Kinh Kính Mừng là lời cầu khẩn tha thiết dâng lên Mẹ để xin ơn bình an cho thế giới.
Đức cố Giáo hoàng Phanxicô đã tha thiết mời gọi toàn thể Giáo Hội "lần hạt Mân Côi mỗi ngày" trong tháng Mười để cầu nguyện cho thế giới, cho Hội Thánh, và cho các nạn nhân của chiến tranh. Ngài nói : "Đừng coi thường sức mạnh của lời cầu nguyện đơn sơ này! "
Trong thời buổi đầy biến động, chúng ta có thể không làm được những việc lớn lao, nhưng chúng ta có thể làm việc nhỏ với tình yêu lớn : lần hạt Mân Côi, hoặc ít nhất một chục kinh, dâng lên Mẹ để cầu cho hòa bình, cho gia đình, cho người nghèo khổ, và cho chính bản thân mình.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi là lời nhắc nhở chúng ta rằng, giữa going tố của cuộc đời, Mẹ Maria là chỗ chúng ta tựa nương. Kinh Kính Mừng là sợi dây nối liền đất với trời, là ánh sáng trong đêm tối, là nguồn sức mạnh thiêng liêng không thể lay chuyển.
Lạy Đức Mẹ Mân Côi, xin cầu cho chúng con. Amen.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Giáo Hoàng Leo XIV Tham Gia Tranh Luận Về vụ Durbin
Vũ Văn An
14:26 01/10/2025

Valentina di Donato và Madalaine Elhabbal của hãg tin CNA, ngày 30 tháng 9 năm 2025, cho hay: Số lượng giám mục lên án quyết định của Đức Hồng Y Cupich vinh danh Durbin bằng 'giải thưởng thành tựu trọn đời' đã tăng lên 10, bao gồm hai giám mục danh dự.
Họ cũng viết rằng: Đức Giáo Hoàng Leo XIV đã trả lời tranh cãi về kế hoạch vinh danh một thượng nghị sĩ Công Giáo Hoa Kỳ ủng hộ việc hợp pháp hóa phá thai của vị Hồng Y ở Chicago, nói rằng hồ sơ của vị thượng nghị sĩ này cần được xem xét một cách toàn diện và người Mỹ nên cùng nhau tìm kiếm sự thật về các vấn đề đạo đức.
Một số giám mục Hoa Kỳ đã lên án kế hoạch của Hồng Y Blase Cupich tại Chicago nhằm vinh danh Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Richard Durbin, Dân chủ-Illinois, bằng một "giải thưởng thành tựu trọn đời" cho những đóng góp của ông liên quan đến chính sách nhập cư bất chấp hồ sơ bỏ phiếu ủng hộ phá thai của ông.
Đức Giáo Hoàng trả lời các phóng viên hôm thứ Ba khi trả lời câu hỏi của EWTN News: "Tôi không thực sự hiểu rõ trường hợp cụ thể này. Tôi nghĩ điều quan trọng là phải xem xét toàn bộ công việc mà một thượng nghị sĩ đã làm trong suốt 40 năm phục vụ tại Thượng viện Hoa Kỳ, nếu tôi không nhầm".
Ngài nói thêm: "Tôi hiểu những khó khăn và căng thẳng. Nhưng tôi nghĩ như chính tôi đã từng nói trước đây, điều quan trọng là phải xem xét nhiều vấn đề liên quan đến giáo huấn của Giáo hội."
Đức Giáo Hoàng giải thích: "Một người nói rằng tôi chống phá thai nhưng lại ủng hộ án tử hình thì không thực sự ủng hộ sự sống. Một người nói rằng tôi phản đối phá thai nhưng lại đồng tình với cách đối xử vô nhân đạo với người nhập cư ở Hoa Kỳ, tôi không biết liệu điều đó có phải là ủng hộ sự sống hay không.”
Ngài nói tiếp: “Vì vậy, đây là những vấn đề rất phức tạp và tôi không biết liệu có ai nắm rõ toàn bộ sự thật về chúng hay không, nhưng trước hết tôi muốn yêu cầu họ hãy tôn trọng lẫn nhau và chúng ta cùng nhau tìm kiếm, với tư cách là con người, và trong trường hợp đó là công dân Hoa Kỳ và công dân của tiểu bang Illinois, cũng như người Công Giáo, để nói rằng chúng ta cần phải gần gũi với tất cả những vấn đề đạo đức này. Và tìm ra con đường phía trước với tư cách là một Giáo hội. Giáo huấn của Giáo hội về từng vấn đề đó rất rõ ràng.”
Số lượng các giám mục Hoa Kỳ lên án quyết định của Hồng Y Cupich vinh danh Durbin bằng “giải thưởng thành tựu trọn đời” đã tăng lên 10, bao gồm cả hai giám mục hưu trí. Đức Giáo Hoàng Leo, sinh ra tại Chicago, đã phát biểu với các phóng viên khi ngài rời khỏi biệt thự Castel Gandolfo gần Rome, nơi mà trong những tuần gần đây ngài đã có thói quen dành các ngày thứ Ba trước khi trở về Vatican.
Bảy giám mục đương nhiệm đã cùng với Đức Giám Mục Thomas Paprocki của Springfield, Illinois, kêu gọi Đức Hồng Y Cupich xem xét lại việc vinh danh Durbin, bao gồm Tổng Giám mục Salvatore Cordileone của San Francisco; Giám mục James Conley của Lincoln, Nebraska; Giám mục James Wall của Gallup, New Mexico; Giám mục David Ricken của Green Bay, Wisconsin; Giám mục Carl Kemme của Wichita, Kansas; Giám mục James Johnston của St. Joseph-Kansas City, Missouri; và Giám mục Michael Olson của Fort Worth, Texas.
Đức Tổng Giám Mục Joseph Naumann mới nghỉ hưu của Kansas City, Kansas, cũng đã đề cập đến tranh cãi này vào cuối tuần qua trong một tuyên bố được công bố trên National Catholic Register, đối tác tin tức chị em của CNA, trong đó ngài gọi động thái của Đức Hồng Y Cupich là "nguồn gốc của vụ tai tiếng".
Đức Hồng Y Cupich đã bảo vệ giải thưởng này vì nó phù hợp với hướng dẫn của Bộ Giáo lý Đức tin vào năm 2022, khi đó đã chỉ thị cho các giám mục “tiếp cận và tham gia đối thoại với các chính trị gia Công Giáo trong phạm vi thẩm quyền của họ”.
Người phát ngôn của Đức Hồng Y Cupich đã không trả lời ngay lập tức yêu cầu bình luận.
Đáp lại lập luận của Đức Hồng Y Cupich, Tổng Giám mục Naumann cho biết trong tuyên bố: “Đối thoại không đòi hỏi phải trao giải thưởng cho các nhà lãnh đạo chính trị Công Giáo coi thường quyền cơ bản nhất của con người, quyền được sống của thai nhi”.
Giám mục hưu trí Joseph Strickland của Tyler, Texas, cũng đã kêu gọi Đức Hồng Y Cupich đảo ngược quyết định tiếp tục trao giải thưởng.
Trong một cuộc phỏng vấn trên chương trình The World Over của EWTN với Raymond Arroyo vào ngày 25 tháng 9, Đức Giám Mục Paprocki đã kêu gọi vị Hồng Y Chicago hoặc rút lại giải thưởng hoặc chính Durbin từ chối.
Người phát ngôn của Durbin đã không trả lời ngay lập tức yêu cầu bình luận.
Đức Hồng Y Cupich đã hủy các cuộc họp với hai nhóm lãnh đạo Công Giáo Illinois, Hội đồng Công Giáo Illinois và một cuộc họp riêng của các giám mục Illinois, trong tuần qua.
Cho đến nay, các giám mục Illinois tại Peoria, Rockford và Joliet vẫn chưa cùng Đức Giám Mục Paprocki kêu gọi Đức Hồng Y Cupich đảo ngược quyết định của mình, trong khi Giáo phận Belleville hiện đang chờ đợi việc bổ nhiệm một giám mục mới, sau khi cựu Giám mục Michael McGovern được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Omaha.
Durbin từ chối giải thưởng khi áp lực từ Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ gia tăng
Vũ Văn An
14:55 01/10/2025

Tạp chí The Pillar, ngày 01/10/2025, cho hay: Các lãnh đạo cấp cao tại Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đang chuẩn bị đưa ra tuyên bố về một giải thưởng gây tranh cãi của Tổng giáo phận
Tạp chí này cũng đưa tin: Thượng nghị sĩ Dick Durbin của Illinois đã từ chối giải thưởng thành tựu trọn đời mà ông dự kiến sẽ nhận từ Văn phòng Nhân phẩm và Đoàn kết của Tổng giáo phận Chicago vào thứ Ba.
Đức Hồng Y Blase Cupich của Chicago đã đưa ra thông báo về vấn đề này cùng lúc với việc các lãnh đạo cấp cao tại Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ đang bí mật chuẩn bị đưa ra tuyên bố về giải thưởng Durbin, và đã thông báo cho đại diện của Vatican tại Hoa Kỳ về kế hoạch của họ, theo một số nguồn tin thân cận với quá trình này.
—
“Hôm nay, Thượng nghị sĩ Durbin thông báo với tôi rằng ông đã quyết định không nhận giải thưởng tại lễ kỷ niệm Keep Hope Alive của chúng ta,” Đức Hồng Y Cupich viết trong thông báo về quyết định của Thượng nghị sĩ vào ngày 30 tháng 9.
“Mặc dù tôi rất buồn trước tin tức này, nhưng tôi tôn trọng quyết định của ông. Nhưng tôi muốn nói rõ rằng quyết định trao giải thưởng cho ông là để ghi nhận những đóng góp đặc biệt của ông cho cải cách nhập cư và sự ủng hộ kiên định của ông đối với người nhập cư, điều rất cần thiết trong thời đại của chúng ta.”
Thông báo này được đưa ra sau hơn một tuần tranh cãi về quyết định của Tổng giáo phận Chicago trao giải thưởng cho Durbin tại một buổi tiếp tân vào tháng 11, nhằm ghi nhận những hoạt động ủng hộ người nhập cư của ông tại Hoa Kỳ.
Sau khi tin tức về giải thưởng được công bố vào đầu tháng này, Đức Giám Mục Thomas Paprocki của Springfield, Illinois, đã bày tỏ sự kinh ngạc trước quyết định này, nói trong một tuyên bố rằng việc Công Giáo công nhận Durbin sẽ gây ra “tai tiếng nghiêm trọng”, bởi vì “thành tích lâu dài và nhất quán của Thượng nghị sĩ trong việc ủng hộ phá thai hợp pháp — bao gồm cả việc phản đối luật bảo vệ trẻ em sống sót sau những ca phá thai thất bại.”
ĐC Paprocki giải thích rằng ngài can thiệp vào giải thưởng này vì Durbin cư trú tại giáo phận Springfield, nơi ông đã bị cấm rước lễ trong nhiều năm vì ủng hộ việc bảo vệ pháp lý cho phá thai.
ĐC Paprocki cũng bày tỏ lo ngại rằng quyết định vinh danh Durbin đi ngược lại tuyên bố tháng 6 năm 2004 của Hội đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ, và chính sách của tổng giáo phận Chicago, vốn cấm "trao giải thưởng hoặc vinh danh" cho "những cá nhân hoặc tổ chức có lập trường công khai trái ngược với các nguyên tắc đạo đức cơ bản của Giáo Hội Công Giáo".
ĐHY Cupich đã bảo vệ quyết định này, nói trong một tuyên bố ngày 22 tháng 9 rằng quyết định trao giải thưởng cho Durbin của ông phù hợp với hướng dẫn của Vatican về sự cần thiết phải đối thoại với các chính trị gia phản đối giáo huấn của Giáo hội về phá thai.
Đức Hồng Y Cupich viết: “Tôi vẫn trung thành với hướng dẫn tháng 5 năm 2021 của Bộ Giáo lý Đức tin lúc bấy giờ, khuyến cáo các giám mục ‘tiếp cận và tham gia đối thoại với các chính trị gia Công Giáo trong phạm vi thẩm quyền của họ... như một phương tiện để hiểu bản chất lập trường của họ và sự hiểu biết của họ về giáo lý Công Giáo’”.
Một số giám mục Hoa Kỳ đã bày tỏ sự dè dặt công khai về giải thưởng vào tuần trước, với một số người thúc giục Đức Hồng Y Cupich xem xét lại.
Tuy nhiên, mặc dù Đức Hồng Y Cupich không đưa ra bất cứ dấu hiệu nào cho thấy ngài sẽ xem xét lại kế hoạch này, nhưng các nhà lãnh đạo hội đồng giám mục Hoa Kỳ, bao gồm cả chủ tịch USCCB, Tổng Giám mục Timothy Broglio, đã bị tràn ngập trong những ngày gần đây với các thông điệp riêng tư từ các giám mục, một số nguồn tin thân cận với hội đồng cho The Pillar biết.
Các nguồn tin cho biết hầu hết các thông điệp đó đều thúc giục chính hội đồng đưa ra tuyên bố, nhấn mạnh lại hướng dẫn năm 2004 rằng “Các tổ chức Công Giáo không nên vinh danh những người hành động bất chấp các nguyên tắc đạo đức cơ bản của chúng ta. Họ không nên được trao giải thưởng, danh hiệu hoặc diễn đàn nào gợi ý ủng hộ hành động của họ.”
Người phát ngôn của Hội đồng Giám mục, Chieko Noguchi, từ chối bình luận vào chiều thứ Ba, nhưng một số nguồn tin cấp cao từ Hoa Kỳ đã nói với The Pillar rằng một số lãnh đạo hội đồng đang bí mật chuẩn bị một tuyên bố về vấn đề này, dự kiến sẽ được ban hành trong những ngày tới, có thể từ văn phòng của chủ tịch, hoặc từ ủy ban hành chính của hội đồng.
Các nguồn tin cấp cao của Vatican và Hoa Kỳ đã nói với The Pillar rằng các lãnh đạo hội đồng đã thông báo cho Tòa Sứ thần Tòa thánh tại Washington rằng một tuyên bố liên quan đến giải thưởng Durbin dự kiến sẽ được Hội đồng Giám mục ban hành.
—
Không rõ điều gì đã thúc đẩy việc Durbin rút lui hay thông báo vào chiều thứ Ba của ĐHY Cupich. Một số giám mục đã nói với The Pillar hôm thứ Ba rằng một tuyên bố đang chờ xử lý của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ (USCCB) đã thúc đẩy động thái này, với việc Cupich không muốn bị coi là phản đối bởi hội đồng giám mục Hoa Kỳ, hoặc rằng Sứ thần Tòa thánh Hoa Kỳ đã thúc giục Cupich hủy bỏ giải thưởng trước khi sự chia rẽ công khai giữa các giám mục gia tăng. Những người khác lưu ý rằng thông báo của Đức Hồng Y được đưa ra chỉ vài giờ sau khi chính Đức Giáo Hoàng Leo đã cân nhắc về giải thưởng này, trả lời các câu hỏi về vấn đề này vào tối thứ Ba, khi ngài rời khỏi dinh thự ở vùng quê Castel Gandolfo.
Đức Giáo Hoàng nói với các phóng viên sau câu hỏi về chủ đề này từ EWTN News: “Tôi không thực sự hiểu rõ trường hợp cụ thể này. Tôi nghĩ điều quan trọng là phải xem xét toàn bộ công việc mà một thượng nghị sĩ đã làm, nếu tôi không lầm, trong suốt 40 năm phục vụ tại Thượng viện Hoa Kỳ”.
“Tôi hiểu những khó khăn và căng thẳng. Nhưng tôi nghĩ như chính tôi đã từng nói trước đây, điều quan trọng là phải xem xét nhiều vấn đề liên quan đến giáo huấn của Giáo hội.”
Đức Giáo Hoàng nói: “Một người nói rằng tôi chống phá thai nhưng lại ủng hộ án tử hình thì không thực sự ủng hộ sự sống. Một người nói rằng tôi chống phá thai nhưng lại đồng tình với cách đối xử vô nhân đạo đối với người nhập cư ở Hoa Kỳ, tôi không biết liệu đó có phải là ủng hộ sự sống hay không. Vì vậy, đây là những vấn đề rất phức tạp và tôi không biết liệu có ai nắm rõ tất cả sự thật về chúng hay không, nhưng trước hết tôi muốn yêu cầu rằng họ phải tôn trọng lẫn nhau và chúng ta cùng nhau tìm kiếm, với tư cách là con người, và trong trường hợp đó là công dân Hoa Kỳ và công dân của tiểu bang Illinois, cũng như người Công Giáo, để nói rằng chúng ta cần phải gần gũi với tất cả những vấn đề đạo đức này. Và tìm ra con đường tiến lên phía trước với tư cách là một Giáo hội. Giáo huấn của Giáo hội về từng vấn đề đó rất rõ ràng.”
Những phát biểu của Đức Giáo Hoàng Leo không trực tiếp đứng về phía nào trong vấn đề này.
Nhưng về phần mình, Đức HY Cupich đã viết hôm thứ Ba rằng ngài hy vọng giải thưởng Durbin sẽ là một khoảnh khắc để xem xét sâu hơn về giáo lý Công Giáo.
“Hy vọng của tôi là buổi cử hành Keep Hope Alive của chúng ta sẽ đóng vai trò như một lời mời gọi những người Công Giáo, những người đang quyết liệt bảo vệ những người dễ bị tổn thương ở biên giới giữa Hoa Kỳ và Mexico, hãy suy gẫm về lý do tại sao Giáo hội lại bảo vệ những người dễ bị tổn thương ở ranh giới giữa sự sống và cái chết, như trong các trường hợp phá thai và an tử. Tương tự như vậy, nó có thể là một lời mời gọi những người Công Giáo không ngừng thúc đẩy phẩm giá của thai nhi, người già và người bệnh, hãy mở rộng vòng tay bảo vệ cho những người nhập cư đang phải đối mặt với mối đe dọa hiện hữu đối với cuộc sống của họ và gia đình họ trong thời điểm hiện tại.”
Đức Hồng Y than thở về sự phân cực, ngài đã viết trong suốt thời gian thi hành sứ vụ linh mục của mình, rằng ngài “đã chứng kiến sự chia rẽ trong cộng đồng Công Giáo ngày càng trầm trọng hơn.”
“Bi kịch của tình hình hiện tại tại Hoa Kỳ là người Công Giáo thấy mình vô gia cư về mặt chính trị. Chính sách của cả hai đảng phái đều không hoàn toàn bao hàm toàn bộ giáo huấn Công Giáo,” Đức Hồng Y viết, trong khi “bản thân người Công Giáo vẫn bị chia rẽ theo đường lối đảng phái, giống như tất cả người Mỹ. Bế tắc này đã trở nên sâu sắc hơn theo năm tháng và sự chia rẽ của chúng ta làm suy yếu ơn gọi làm chứng cho Tin Mừng của chúng ta.”
Thừa nhận rằng “về cơ bản không có viên chức Công Giáo nào luôn theo đuổi các yếu tố cốt lõi của giáo huấn xã hội Công Giáo vì hệ thống đảng phái của chúng ta không cho phép họ làm như vậy,” Đức Hồng Y Cupich giải thích rằng theo quan điểm của ngài, “việc lên án hoàn toàn không phải là con đường tiến lên, vì nó sẽ dập tắt các cuộc thảo luận.”
“Nói rộng hơn, một cách tiếp cận tích cực có thể nuôi dưỡng hy vọng rằng việc đối thoại với nhau — và hợp tác với nhau — để thúc đẩy lợi ích chung là điều đáng làm. Không ai muốn giao thiệp với một người coi họ là mối đe dọa đạo đức nghiêm trọng đối với cộng đồng. Nhưng mọi người sẽ giao thiệp, và thậm chí có thể học hỏi từ những người nhìn nhận họ là những người đóng góp cho một nỗ lực chung.”
Đức Hồng Y nói rằng người Công Giáo cần phải vừa đối thoại vừa lắng nghe nhau một cách tôn trọng để vượt qua sự chia rẽ chính trị, và rằng vụ việc Durbin có thể được hiểu là một lời kêu gọi tăng cường tính đồng nghị trong Giáo hội.
“Cách sống theo Giáo hội, sống theo con người này, người ta thậm chí có thể gọi là đồng nghị. Và chính con đường này, được Đức Thánh Cha Phanxicô kính yêu của chúng ta vạch ra một cách tuyệt vời, có thể dẫn dắt tất cả người Công Giáo đón nhận trọn vẹn giáo huấn của chúng ta. Chứng tá như vậy chắc chắn sẽ phục vụ xã hội bằng cách xây dựng lợi ích chung.”
Đức Hồng Y nói: “Tôi tin rằng việc lên lịch một số cuộc họp thượng hội đồng để các tín hữu trải nghiệm việc lắng nghe nhau với sự tôn trọng về những vấn đề này là điều đáng giá, đồng thời vẫn cởi mở để trưởng thành hơn trong bản sắc chung của họ với tư cách là người Công Giáo. Có lẽ các trường đại học Công Giáo của chúng ta có thể hỗ trợ. Khi tôi suy nghĩ về cách thức tổ chức những cuộc họp như vậy, tôi hoan nghênh các đề xuất”.
Lời kêu gọi của Đức Hồng Y Cupich về việc thảo luận nhiều hơn về lợi ích chung được đưa ra chỉ vài ngày trước lễ kỷ niệm 5 năm thông điệp Fratelli tutti của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đề cập đến các chủ đề về tình bạn xã hội và quan niệm Công Giáo về lợi ích chung.
Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ dự kiến sẽ ban hành một tuyên bố vào dịp kỷ niệm đó trong tuần này, với sự nhấn mạnh tương tự về tầm quan trọng của việc thúc đẩy lợi ích chung và giảm thiểu sự phân cực giữa những người Công Giáo.
5 điểm chính từ bài phát biểu của Tòa Thánh tại Liên Hợp Quốc
Vũ Văn An
15:15 01/10/2025

Daniel Esparza của tạp chí Aleteia, ngày 10/01/25, trích lời Đức TGM Gallagher phát biểu trước Đại hội đồng Liên hiệp quốc tại New York: Trong một thế giới đầy rạn nứt, chương trình nghị sự này tuy khó khăn nhưng lại thiết thực: giải trừ vũ khí, bảo vệ lương tâm, tôn vinh mọi sinh mạng, giải phóng người nghèo để họ phát triển và làm cho chủ nghĩa đa phương trở nên trung thực trở lại.
Ông cho hay: Ngày 29 tháng 9 năm 2025, Đức Tổng Giám Mục Paul Richard Gallagher đã có bài phát biểu khai mạc khóa họp lần thứ 80 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Phát biểu nhân danh Đức Giáo Hoàng Leo XIV, ngài đã định hình khoảnh khắc này với một mục tiêu đơn giản: Tạo dựng hòa bình — thông qua công lý và sự thật.
Dưới đây là năm điểm chính dành cho cả những người có đức tin và những người không có đức tin.
Hòa bình là một nghĩa vụ chủ động — giải trừ vũ khí để cứu sống con người
Hòa bình không chỉ là sự vắng bóng chiến tranh; nó được “xây dựng trong trái tim”, rồi trong các gia đình và quốc gia. Tòa Thánh kêu gọi các quốc gia chuyển một phần chi tiêu quân sự sang một quỹ hoàn cầu để chống lại nạn đói, nghèo đói và tác hại của biến đổi khí hậu, đồng thời thúc đẩy tiến bộ thực sự trong việc giải trừ vũ khí — đặc biệt là vũ khí hạt nhân.
Tám mươi năm sau vụ Hiroshima và vụ thử hạt nhân đầu tiên, việc giữ lại hoặc hiện đại hóa những vũ khí như vậy bị coi là không thể biện minh về mặt đạo đức.
Lời kêu gọi mở rộng đến việc tôn trọng luật nhân đạo quốc tế: dân thường, bệnh viện, trường học và các địa điểm thờ phượng không bao giờ là mục tiêu chính đáng.
Như Sách Giáo lý Công Giáo đã nói, “Sự tôn trọng và phát triển của sự sống con người đòi hỏi hòa bình” (GLCG 2304).
Tự do tôn giáo — và lời hứa của Nostra Aetate sau 60 năm
Tự do tôn giáo được coi là nền tảng của một xã hội hòa bình: không chỉ đơn thuần là tự do khỏi sự đàn áp mà còn là tự do tín ngưỡng, thờ phượng, giảng dạy và phục vụ. Tuyên bố lên án các cuộc tấn công ngày càng gia tăng vào các Kitô hữu, đồng thời khẳng định rằng những quyền này thuộc về tất cả mọi người.
Các Ki-tô hữu trên khắp thế giới đang phải chịu sự đàn áp nghiêm trọng, bao gồm bạo lực thể xác, tù đày, cưỡng bức di dời và tử đạo. Hơn 360 triệu Ki-tô hữu sống ở những khu vực chịu sự đàn áp hoặc phân biệt đối xử ở mức độ cao, với các cuộc tấn công vào nhà thờ, nhà riêng và cộng đồng ngày càng gia tăng trong những năm gần đây. Dữ liệu cho thấy các Ki-tô hữu là nhóm bị đàn áp nhiều nhất trên toàn cầu, nhưng cộng đồng quốc tế dường như đang nhắm mắt làm ngơ trước hoàn cảnh của họ.
Kỷ niệm 60 năm Tuyên ngôn Nostra Aetate, Tòa Thánh kêu gọi các tôn giáo đào sâu đối thoại chân thành - lắng nghe khiêm nhường, chống lại sự bóc lột chính trị và biến những khác biệt thành cùng nhau tìm kiếm điều tốt đẹp.
Phẩm giá là trên hết: sự sống, công việc và gia đình
Phẩm giá con người, vốn có và không thể thương lượng, phải dẫn dắt chính sách. Tòa Thánh tái khẳng định quyền được sống “từ khi thụ thai đến khi chết tự nhiên”, phản đối phá thai và an tử, đồng thời chỉ trích việc mang thai hộ thương mại là có hại cho phụ nữ và trẻ em.
Cần phải làm rõ rằng chỉ có quyền được sống, và không có điều gì trái ngược với quyền này có thể hiện hữu, ngay cả khi nó bị gán ghép một cách sai trái là tự do.
Việc làm được mô tả là một thiên chức gắn liền với phẩm giá; tiền lương công bằng, điều kiện an toàn và hỗ trợ người thất nghiệp là những mệnh lệnh đạo đức. Việc củng cố đời sống gia đình - đặc biệt là việc giúp đỡ thanh niên lập gia đình - được đề xuất như một cơ sở hạ tầng xã hội, chứ không phải là một thứ xa xỉ riêng tư.
Công lý cho người nghèo và ngôi nhà chung của chúng ta
Chấm dứt nạn đói và nghèo đói cùng cực là một nghĩa vụ đạo đức. Bài phát biểu kêu gọi xóa nợ cho các quốc gia không có khả năng trả nợ - một vấn đề công bằng, đặc biệt là khi xét đến "món nợ sinh thái" mà các nước Nam bán cầu đang gánh chịu. Hệ thống lương thực phải bền vững và dễ tiếp cận; đoàn kết phải đi đôi với nguyên tắc bổ trợ để các sáng kiến địa phương có thể phát triển mạnh mẽ. Hành động vì khí hậu, chia sẻ kỹ thuật và giáo dục về "văn hóa quan tâm" được coi là cấp thiết, vì thiệt hại môi trường ảnh hưởng nặng nề nhất đến những người nghèo nhất.
Chủ nghĩa đa phương nói lên sự thật - và phục vụ hòa bình ngay bây giờ
Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập Liên Hiệp Quốc đánh dấu cả lòng biết ơn và cải cách. Tòa Thánh kêu gọi các quốc gia đổi mới các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương - nhân quyền, hòa bình và an ninh, phát triển và pháp quyền - đồng thời sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, không gây chia rẽ, không bóp méo các quyền cơ bản.
Những lời kêu gọi cụ thể tiếp theo: lệnh ngừng bắn ngay lập tức ở Ukraine; một giải pháp hai nhà nước công bằng cho Israel và Palestine với sự tôn trọng hoàn toàn luật nhân đạo; cam kết bền vững tại Châu Phi, Đông Nam Á, Caribe và Haiti. Về trí tuệ nhân tạo, lời kêu gọi đặt ra các quy tắc để kỹ thuật luôn phục vụ con người.
Trong một thế giới đầy chia rẽ, chương trình nghị sự này tuy khắt khe nhưng thực tế: giải trừ vũ khí, bảo vệ lương tâm, tôn vinh mọi sinh mạng, giải phóng người nghèo để họ phát triển và làm cho chủ nghĩa đa phương trở nên trung thực trở lại. Hay nói ngắn gọn: hòa bình thông qua sự thật và công lý — bắt đầu từ chúng ta.
Thông điệp của Tổng thống Trump nhân dịp Lễ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae
Đặng Tự Do
16:28 01/10/2025
Trong một cử chỉ có phần bất ngờ đối với nhiều người, Tổng thống Donald Trump đã đưa ra một thông điệp nhân ngày lễ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae. Thông thường các Tổng thống Hoa Kỳ chỉ gởi thông điệp cho các Kitô Hữu vào dịp Lễ Giáng Sinh và Lễ Phục sinh. Lễ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae là một ngày lễ chỉ được cử hành trong Giáo Hội Công Giáo.
Tòa Bạch Ốc
Ngày 29 tháng 9 năm 2025
Hôm nay, tôi xin gửi lời chào tới hàng triệu tín hữu Kitô ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới đang kỷ niệm Lễ Thánh Micae Tổng lãnh thiên thần.
Theo Kinh Thánh, khi Ác quỷ nổi loạn chống lại Chúa trên Thiên Đàng, Thánh Micae và đạo binh thiên thần của ngài đã đánh đuổi Satan xuống Trái Đất - một lần nữa khẳng định quyền tối cao của Chúa trên toàn thể tạo vật. Trong 2.000 năm qua, các Kitô hữu đã trông cậy vào Tổng Lãnh Thiên Thần Micae để được bảo vệ, ban sức mạnh và lòng can đảm trong những lúc xung đột, đau khổ và nghi ngờ.
Vào năm 1886, gần 140 năm trước, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, người lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Rôma, lo sợ cho tương lai của thế giới phương Tây, đã giới thiệu Lời cầu nguyện mầu nhiệm dâng lên Thánh Micae, vẫn được đọc cho đến ngày nay trong các nhà thờ và gia đình trên khắp đất nước chúng ta và trên toàn thế giới:
Thánh Micae Tổng Lãnh Thiên Thần, xin bảo vệ chúng con trong trận chiến. Xin Ngài bảo vệ chúng con khỏi sự gian ác và cạm bẫy của Ma Quỷ. Chúng con khiêm nhường cầu xin Thiên Chúa khiển trách nó, và lạy Thủ Lãnh các đạo binh trên trời, xin Ngài dùng quyền năng của Thiên Chúa mà đuổi Satan và tất cả các tà thần xuống hỏa ngục, những kẻ đang lảng vảng khắp thế gian tìm cách hủy hoại các linh hồn. Amen
Source:White House
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV cho biết những lời lẽ về chiến tranh của Hegseth là đáng lo ngại
Đặng Tự Do
16:29 01/10/2025
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV hôm thứ Ba cho biết cách nói về chiến tranh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ là “đáng lo ngại”.
Phát biểu trước các quan chức quân sự được triệu tập đến Virginia vào ngày 30 tháng 9, Bộ trưởng Quốc phòng, đúng ra là Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh, Pete Hegseth đã kêu gọi các sĩ quan cao cấp lãnh đạo với mục tiêu tăng cường “sức sát thương”. Tháng này, Tổng thống Trump đã ký một sắc lệnh hành pháp đổi tên bộ này thành Bộ Chiến tranh, mặc dù Quốc hội chưa chính thức đổi tên.
Khi được hỏi về cuộc họp của Bộ trưởng với các tướng lĩnh và những bình luận về khả năng sẵn sàng chiến tranh, Đức Giáo Hoàng Lêô nói: “Cách nói này thật đáng lo ngại, bởi vì nó cho thấy sự gia tăng căng thẳng mỗi lần được thốt lên — việc sử dụng từ ngữ, thậm chí còn đáng lo ngại hơn khi chuyển từ ‘Bộ trưởng Quốc phòng’ sang ‘Bộ trưởng Chiến tranh’. Hy vọng đó chỉ là một cách nói. Chắc chắn, họ có một phong cách chính phủ muốn thể hiện sức mạnh, gây áp lực, và chúng tôi hy vọng điều đó sẽ hiệu quả, nhưng sẽ không có chiến tranh. Người ta phải luôn nỗ lực vì hòa bình.”
Đức Giáo Hoàng Lêô sinh ra ở Chicago đã phát biểu với các phóng viên khi ngài rời khỏi biệt thự giáo hoàng Castel Gandolfo gần Rôma, nơi mà trong những tuần gần đây ngài đã có thói quen dành thời gian vào thứ Ba trước khi trở về Vatican.
Bình luận của Đức Giáo Hoàng được dịch từ tiếng Ý.
Bộ Quốc phòng không trả lời ngay lập tức yêu cầu bình luận.
Source:Catholic News Agency
Đức Giáo Hoàng Lêô VIX phản ứng với Kế hoạch Hòa bình Gaza rất thú vị của Ông Donald Trump
Đặng Tự Do
16:32 01/10/2025
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, người Mỹ đầu tiên lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo, một lần nữa kêu gọi ngừng bắn ngay lập tức và yêu cầu Hamas chấp nhận kế hoạch hòa bình của Tổng thống Trump cho Gaza.
Là giáo hoàng người Mỹ đầu tiên, Đức Lêô XIV có ảnh hưởng đáng kể cả về mặt tinh thần lẫn địa chính trị, và những phát biểu của ngài có thể định hình nhận thức quốc tế về đề xuất này vào thời điểm quan trọng đối với cả người dân Israel và Palestine. Việc ngài ủng hộ lệnh ngừng bắn và nhấn mạnh vào các nhu cầu nhân đạo phản ánh mong muốn toàn cầu về sự ổn định trong bối cảnh thù địch tiếp diễn và các nỗ lực ngoại giao ngày càng gia tăng.
Kế hoạch của Tổng thống Trump, được Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu ủng hộ, được coi là một động thái then chốt có khả năng chấm dứt xung đột hiện tại. Tiếng nói của Vatican có thể làm tăng thêm sức nặng đạo đức cho các cuộc thảo luận ngoại giao giữa các cường quốc thế giới, Hamas và các bên liên quan trong khu vực.
Phát biểu khi rời dinh thự mùa hè Castel Gandolfo, Đức Giáo Hoàng Lêô bày tỏ sự ủng hộ đối với một đề xuất nhằm chấm dứt chiến tranh, gọi đó là “một đề xuất thực tế” với những yếu tố “rất thú vị” mà ngài hy vọng Hamas sẽ chấp nhận trong khung thời gian đã định. Đức Giáo Hoàng cũng tiếp tục kêu gọi trả tự do cho các con tin bị Hamas bắt giữ vào ngày 7 tháng 10 năm 2023.
“Có vẻ như đây là một đề xuất thực tế”, ngài nói. “Có những yếu tố mà tôi cho là rất thú vị, và tôi hy vọng Hamas sẽ chấp nhận trong khung thời gian đã định.”
Ngài cũng bày tỏ lo ngại về một đoàn tàu hơn 50 chiếc chở hàng cứu trợ đến Gaza, dự kiến sẽ tìm cách vượt qua lệnh phong tỏa hải quân của Israel trong đêm khi chỉ còn cách lãnh thổ này 150 hải lý. Đức Giáo Hoàng Lêô XIV cho biết ngài hiểu phản ứng của ban tổ chức trước cái mà ngài gọi là “tình trạng khẩn cấp nhân đạo thực sự”, nhưng cảnh báo về nguy cơ bạo lực.
Chính phủ Ý đã cảnh báo rằng Israel có thể coi đoàn tàu này là một “hành động thù địch” và kêu gọi những người tổ chức hãy rút lui, thay vào đó đề nghị chuyển hàng viện trợ qua Síp với sự bảo đảm của Giáo Hội Công Giáo để đến được tay người Palestine.
Tổng thống Trump đã tiết lộ kế hoạch 20 điểm của mình vào thứ Hai, bao gồm các điều kiện ngừng bắn ngay lập tức, thả con tin, thành lập một hội đồng quản lý tạm thời cho Gaza do Tổng thống Trump và cựu Thủ tướng Anh Tony Blair đứng đầu, và giám sát bởi một ủy ban chuyển giao quốc tế.
Kế hoạch này hứa hẹn một con đường cho quyền tự quyết của người Palestine và viện trợ nhân đạo, với điều kiện cả Israel và Hamas đều đồng ý với tất cả các điều khoản. Netanyahu cảnh báo rằng nếu Hamas từ chối, Israel sẽ hành động độc lập để theo đuổi các mục tiêu của mình ở Gaza. Đề xuất này đã thu hút sự chú ý của toàn thế giới, với việc Hamas được tường trình đã xem xét nó một cách “thiện chí”, nhưng vẫn chưa có sự chấp thuận hay bác bỏ chính thức nào.
Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi phát biểu trên X hôm thứ Hai: “Chúng tôi hoan nghênh việc Tổng thống Donald J. Tổng thống Trump công bố một kế hoạch toàn diện nhằm chấm dứt xung đột ở Gaza. Kế hoạch này mở ra một con đường khả thi hướng tới hòa bình, an ninh và phát triển bền vững lâu dài cho người dân Palestine và Israel, cũng như cho toàn bộ khu vực Tây Á. Chúng tôi hy vọng tất cả các bên liên quan sẽ cùng nhau ủng hộ sáng kiến của Tổng thống Trump và hỗ trợ nỗ lực chấm dứt xung đột và bảo đảm hòa bình này.
Nghị sĩ Đảng Cộng hòa bang Florida Byron Donalds, ứng cử viên thống đốc, phát biểu trên X hôm thứ Hai: “Thưa Tổng thống của HÒA BÌNH. Mong rằng 'Kế hoạch Toàn diện chấm dứt xung đột Gaza' hôm nay sẽ trở thành hiện thực. Mong rằng Trung Đông sẽ có hòa bình một lần và mãi mãi.”
Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2025, Hamas vẫn chưa chính thức chấp nhận hoặc bác bỏ kế hoạch của Tổng thống Trump và được tường trình đang nghiên cứu các điều khoản của kế hoạch này.
Source:Newsweek
Bài Giáo lý Hàng tuần của Đức Giáo Hoàng Leo XIV: Chúa Giêsu đã chọn sống lại từ cõi chết một cách đáng ngạc nhiên
Vũ Văn An
22:51 01/10/2025

Kathleen N. Hattrup của tạp chí mạng Aleteia, ngày 01/10/25, trích đăng lời Đức Leo XIV nói trong buổi tiếp kiến trong ngày: "Chúa Giêsu trao ban những vết thương của Người như một bảo chứng cho sự tha thứ. Và Người cho thấy: Phục Sinh không phải là xóa bỏ quá khứ, mà là sự biến đổi nó thành niềm hy vọng của lòng thương xót."
Tiếp tục chuỗi bài giáo lý về niềm hy vọng mà Chúa Kitô ban cho chúng ta, Đức Giáo Hoàng Leo đã suy ngẫm tại buổi tiếp kiến chung ngày 1 tháng 10 này về sự phục sinh.
Đức Thánh Cha đã nói về cách "đáng ngạc nhiên" được Chúa Giêsu chọn để sống lại từ cõi chết, rút ra từ hành động của Người một bài học cho cách chúng ta đối phó với chấn thương, hoặc với những người đã làm tổn thương chúng ta.
Giờ đây, Chúa Giêsu đã hoàn toàn hòa giải với tất cả những gì Người đã chịu đựng. Không còn bóng tối của sự oán giận. Những vết thương không phải để khiển trách, nhưng để khẳng định một tình yêu mạnh mẽ hơn bất cứ sự bất trung nào. Chúng là bằng chứng cho thấy, ngay cả trong khoảnh khắc chúng ta thất bại, Thiên Chúa vẫn không rút lui. Người đã không bỏ rơi chúng ta.
Sau đây là nguyên văn bài giáo lý của ngài theo bản tiếng Anh do Tòa Thánh cung cấp:
Chu kỳ Giáo lý – Năm Thánh 2025. Chúa Giêsu Kitô, Niềm Hy vọng của chúng ta. III. Lễ Vượt Qua của Chúa Giêsu. 9. Sự Phục sinh. “Bình an cho anh em!” (Ga 20:21)
Lời chào tại Hội trường Tiếp kiến trước Buổi Tiếp kiến Chung
Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần. Bình an cho anh em!
Guten Morgen!
Chào buổi sáng các tín hữu hành hương thân mến! Tôi thân ái chào tất cả anh chị em đã từ Đức đến Rôma trong chuyến hành hương Malteser Hilfsdienst. Ja, gut, ja, danke!
Trước khi đến Buổi Tiếp kiến Chung tại Quảng trường Thánh Phêrô, tôi muốn gặp riêng anh chị em tại Hội trường Phaolô VI. Tại đây, anh chị em có thể theo dõi những gì đang diễn ra tại Quảng trường Thánh Phêrô qua màn hình, đồng thời cũng được che chở tốt hơn.
Giờ đây, chúng ta hãy cùng nhau đọc kinh Kính Mừng, phó thác mọi ý nguyện của anh chị em và những người thân yêu trong gia đình mà anh chị em muốn cầu nguyện cho, và sau đó tôi sẽ ban phép lành Tòa Thánh.
______________________________
Anh chị em thân mến, chào anh chị buổi sáng!
Trọng tâm đức tin và cốt lõi niềm hy vọng của chúng ta được đặt nền tảng vững chắc trên sự phục sinh của Chúa Kitô. Khi đọc kỹ các sách Tin Mừng, chúng ta nhận ra rằng mầu nhiệm này gây ngạc nhiên không chỉ bởi vì một con người – Con Thiên Chúa – đã sống lại từ cõi chết, mà còn bởi cách Người quyết định làm điều đó. Thật vậy, sự phục sinh của Chúa Giêsu không phải là một chiến thắng khoa trương, cũng không phải là sự trả thù hay trả đũa kẻ thù của Người. Đó là một minh chứng tuyệt vời cho thấy tình yêu có khả năng trỗi dậy sau một thất bại to lớn để tiếp tục hành trình không thể ngăn cản của mình.
Khi chúng ta đứng dậy sau một chấn thương do người khác gây ra, phản ứng đầu tiên thường là tức giận, mong muốn bắt ai đó trả giá cho những gì chúng ta đã phải chịu đựng. Đấng Phục Sinh không phản ứng theo cách này. Khi Người bước ra khỏi âm phủ của sự chết, Chúa Giêsu không trả thù. Người không trở lại với những cử chỉ uy quyền, nhưng với sự hiền lành, Người biểu lộ niềm vui của một tình yêu lớn hơn bất cứ vết thương nào và mạnh mẽ hơn bất cứ sự phản bội nào.
Đấng Phục Sinh không cảm thấy cần phải nhắc lại hay khẳng định sự vượt trội của mình. Người hiện ra với các bạn hữu – các môn đệ – và Người làm điều đó một cách hết sức kín đáo, không thúc ép khả năng chấp nhận của họ. Mong muốn duy nhất của Người là trở lại hiệp thông với họ, giúp họ vượt qua cảm giác tội lỗi. Chúng ta thấy rõ điều này trong Phòng Tiệc Ly, nơi Chúa hiện ra với các bạn hữu đang bị giam cầm trong sợ hãi. Đó là khoảnh khắc thể hiện sức mạnh phi thường: Chúa Giêsu, sau khi xuống vực thẳm tử thần để giải thoát những người bị giam cầm ở đó, đã bước vào căn phòng đóng kín của những người bị tê liệt bởi sợ hãi, mang đến cho họ một món quà mà không ai dám hy vọng: sự bình an.
Lời chào của Người đơn giản, gần như bình thường: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19). Nhưng đi kèm với nó là một cử chỉ đẹp đến mức gần như gây sửng sốt: Chúa Giêsu cho các môn đệ xem tay và cạnh sườn Người, với những dấu tích của cuộc khổ nạn. Tại sao lại cho những người, trong những giờ phút bi thảm ấy, đã chối bỏ và bỏ rơi Người, thấy những vết thương của Người? Tại sao không che giấu những dấu vết đau đớn ấy và tránh khơi lại vết thương tủi nhục?
Tuy nhiên, Tin Mừng nói rằng, khi nhìn thấy Chúa, các môn đệ đã vui mừng (x. Ga 20:20). Lý do thật sâu xa: Chúa Giêsu giờ đây đã hoàn toàn hòa giải với tất cả những gì Người đã chịu đựng. Không còn bóng tối của sự oán giận. Những vết thương không phải để khiển trách, mà để khẳng định một tình yêu mạnh mẽ hơn bất cứ sự bất trung nào. Chúng là bằng chứng cho thấy, ngay cả trong khoảnh khắc chúng ta thất bại, Thiên Chúa đã không lùi bước. Người đã không từ bỏ chúng ta.
Bằng cách này, Chúa cho thấy Người trần trụi và không có khả năng tự vệ. Người không đòi hỏi, Người không bắt chúng ta phải trả giá. Tình yêu của Người là một tình yêu không hề hạ nhục; đó là sự bình an của một người đã chịu đau khổ vì tình yêu và giờ đây cuối cùng có thể khẳng định rằng điều đó là xứng đáng.
Thay vào đó, chúng ta thường che giấu những vết thương của mình vì lòng kiêu hãnh, hoặc vì sợ tỏ ra yếu đuối. Chúng ta nói, “không sao cả”, “tất cả đã là quá khứ”, nhưng chúng ta không thực sự bình an với những phản bội đã làm tổn thương mình. Đôi khi, chúng ta muốn che giấu nỗ lực tha thứ của mình để không tỏ ra yếu đuối và không có nguy cơ chịu đau khổ một lần nữa. Chúa Giêsu thì không. Người trao ban những vết thương của mình như một bảo chứng cho sự tha thứ. Và Người cho thấy rằng Phục Sinh không phải là xóa bỏ quá khứ, mà là biến đổi nó thành niềm hy vọng của lòng thương xót.
Rồi, Chúa lặp lại: “Bình an cho anh em!”. Và Người nói thêm: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (câu 21). Với những lời này, Người giao phó cho các tông đồ một nhiệm vụ không phải là quyền năng mà là trách nhiệm: trở thành khí cụ hòa giải trong thế giới. Như thể Người đã nói: “Ai sẽ có thể công bố dung nhan thương xót của Chúa Cha, nếu không phải là anh em, những người đã trải nghiệm thất bại và được tha thứ?”.
Chúa Giêsu thổi hơi vào các ông và ban Thánh Thần cho các ông (câu 22). Chính Thánh Thần đã nâng đỡ Người trong sự vâng phục Chúa Cha và trong tình yêu cho đến tận thập giá. Từ giây phút đó, các tông đồ sẽ không còn im lặng về những gì họ đã thấy và nghe: rằng Thiên Chúa tha thứ, nâng đỡ và khôi phục niềm tin.
Đây chính là tâm điểm sứ mệnh của Giáo Hội: không phải là cai trị người khác, nhưng để truyền đạt niềm vui của những người được yêu thương ngay cả khi họ không xứng đáng. Chính sức mạnh này đã làm nảy sinh và làm cho các cộng đồng Kitô giáo lớn mạnh: những người nam nữ đã khám phá ra vẻ đẹp của sự sống trở lại để có thể trao ban nó cho người khác.
Anh chị em thân mến, chúng ta cũng được sai đi. Chúa cho chúng ta thấy những vết thương của Người và phán: Bình an cho anh em. Anh chị em đừng ngại cho thấy những vết thương của anh chị em đã được chữa lành bởi lòng thương xót. Đừng ngại đến gần những người đang bị mắc kẹt trong sợ hãi hay tội lỗi. Xin hơi thở của Chúa Thánh Thần cũng làm cho chúng ta trở thành những chứng nhân của hòa bình và tình yêu mạnh mẽ hơn bất cứ thất bại nào.
_____________________________
Lời chào đặc biệt:
Tôi xin chào các tín hữu hành hương và du khách nói tiếng Anh tham dự buổi tiếp kiến hôm nay, đặc biệt là các nhóm đến từ Anh, Scotland, Ireland, Bắc Ireland, Đan Mạch, Hà Lan, Na Uy, Úc, New Zealand, Campuchia, Hồng Kông, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Lebanon, Malaysia, Philippines, Đài Loan, Tanzania, Việt Nam, Canada và Hoa Kỳ.
Lời chào đặc biệt của tôi xin gửi đến các chủng sinh của Học viện Giáo hoàng Ireland, những người đang bắt đầu chương trình học, và các lớp phó tế của Học viện Giáo hoàng Bắc Mỹ, cùng với gia đình và bạn bè của họ.
Nhân dịp chúng ta bắt đầu tháng kính Kinh Mân Côi, tôi mời gọi anh chị em hãy cầu nguyện hằng ngày cho hòa bình trên thế giới. Nguyện xin bình an của Chúa Kitô Phục Sinh ở cùng tất cả anh chị em! Xin Chúa chúc lành cho anh chị em.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Khuôn mặt Thánh Fanziskus, người yêu mến thiên nhiên
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
15:32 01/10/2025
Khuôn mặt Thánh Fanziskus, người yêu mến thiên nhiên
Thánh Phanxicô thành Assisi là một vị Thánh có đời sống yêu mến gắn bó với công trình thiên nhiên. Vì thế khi còn sinh thời ông đã sáng tác nên bài ca mặt trời chúc tụng công trình thiên nhiên của Chúa
“Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị chúng tôi, là Mẹ Đất,
Chị nâng đỡ, Chị dìu dắt.
Chị sinh ra bao thứ trái,
hoa muôn màu giữa ngàn cỏ dại.”
Bài ca ngợi này xưa nay là nguồn cảm hứng cho các thế hệ con người đi tìm linh đạo cho nếp sống bình an cùng hòa nhịp điệu với thiên nhiên.
Phanxicô thành Assisi, người yêu mến thiên nhiên, góp mặt trong lòng nếp sống đạo đức của Giáo Hội thế nào?
Franziscus sinh năm 1182 ở thành phố Assisi bên nước Ý trong một gia đình giàu có. Theo tương truyền Franziscus vào cầu nguyện trong ngôi thánh đường nhỏ San Damiano, được Chúa Giêsu từ trên cây thập gía nói vọng xuống: „Franziscus, con hãy xây cho cha một ngôi nhà, vì ngôi nhà này có nguy cư bị tàn phá sụp đổ!“.
Thế là Franziscus bắt tay đi xây sửa lại ngôi thánh đường đang hư hại San Damiano. Nhưng chẳng lâu sau đó Franziscus cảm nhận ra, sứ mạng Chúa Giêsu trao cho mình to lớn hơn. Đó là ngôi nhà toàn thể Giáo hội.
Lòng thôi thúc, Ông ra từ bỏ khỏi gia đình. Trả lại tất cả quần áo cho cha mẹ mình với lời quyết tâm “Từ hôm nay con không còn cha nào khác, ngoài người Cha trên trời!“.
Franziscus đi kêu gọi thu thập những người cùng chí hướng sống chung một đời sống đơn giản. Việc cầu nguyện là nếp sống chính của cộng đoàn, và luôn luôn di chuyển qua các làng mạc để loan báo tin mừng. Họ làm việc ngoài đồng ruộng để kiếm miếng ăn sinh sống. Tiền bạc họ không có, họ chỉ nhận thức ăn như lương được trả công.
Franziscus sống nếp sống một người anh em hèn mọn khiêm nhượng, nhưng tâm hồn đời sống vui tươi hát ca tụng Thiên Chúa, và qua lời rao giảng giúp con người hướng về Thiên Chúa.
Năm 1209 Đức giáo hoàng Innocente III. ( 1161-1216) công nhận ban phép cho Franziscus thành lập Dòng Phanxicô Anh em hèn mọn. Sau vài năm trời Dòng Franziscus đã có tới hơn 5000 hội viện. Dù có nhiều anh em gia nhập dòng, nhưng cũng có nhiều người không thể chấp nhận nổi lý tưởng cao vời do Franziscus đề ra. Một vài thành viên muốn hội Dòng phải có một cấu trúc rõ ràng minh bạch. Nhưng Franziscus không muốn làm hiến pháp luật riêng cho dòng của mình. Căn bản cho luật Dòng là sách Kinh Thánh. Vì thế, Franziscus rời bỏ việc quản trị Dòng và lui vào nếp sống khổ hạnh ẩn dật.
Xa xa chừng hơn vài trăm mét trước quảng trường sân đền thờ Laterno, nhà thờ chính tòa của đức giáo hoàng Roma, có bức tượng bằng đồng to lớn tạc tượng Thánh Franxiskus đang giơ đôi tay cầu khẩn lên trời cao và một vài anh em Dòng, đang đứng qùi hướng về đền thờ chính tòa Laterano. Bức tượng đài kỷ niệm này diễn tả biến cố ngày xưa 1209 Thánh Franziskus và các anh em đồng chí hướng, đi từ Assisi đến Roma xin đức giáo hoàng Innocentê III. ban phép cho lập Dòng Anh em hèn mọn.
Qua đau khổ chịu đựng Franziscus đã trưởng thành lớn lên trong tình yêu mến. Chúa Giêsu Kitô đã tỏ cho Franziscus tình yêu của người, ông được tiếp nhận khắc ghi những vết thương của Chúa nơi con người ông. Đau khổ thể xác nhưng Franziscus đã sáng tác ra bài ca tuyệt diệu chan chứa tâm tình yêu mến thiên nhiên: Bài ca mặt trời, ca ngợi chúc tụng công trình thiên nhiên của Thiên Chúa cho con người trần gian.
Bài ca cầu nguyện này được Franziscus sáng tác vào cuối năm 1224 hay đầu năm 1225 ở năm cuối đời của ngài.
Có nhiều truyền thuyết về Franziscus trong dân gian. Không chỉ tất cả mọi con người, nhưng cả những con thú vật cũng được Franziscus gọi là anh chị em. Như con chó rừng vùng Gubbio trở nên thuần thục hiền hoà qua lời nhắn nhủ giáo dục của Franziscus. Franziscus yêu mện mọi loài cây cỏ thảo mộc, mọi thú vật. Franziscus kêu gọi mọi loài thụ tạo nhận ra tình yêu của Thiên Chúa và quay trở về với Đấng Tạo Hoá dựng nên mình.
Franziscus giảng thuyết cho loài chim chóc và chúng cũng để cho ông vuốt ve chúng. Franziscus là một trong những người biểu lộ tình yêu mến của mình không chỉ đối với con người mà còn đối với cả loài thú vật.
Có lẽ vì thế, Thánh Franziscus ngày nay được phong trào bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ xúc vật chọn làm quan thầy bảo trợ. Nhưng Thánh Franziscus đã không bao giờ là người chiến đấu qúa khích trong lãnh vực này. Trái lại, Thánh Franziscus là người yêu mến kính trọng thiên nhiên. Vì thánh nhân nhận ra tình yêu thiên Chúa trong công trình sáng tạo thiên nhiên.
Thánh Franziscus vui với sức nóng ấm mặt trời, với sự tươi mát của nước, với ánh sáng dịu mát của mặt trăng. Khắp nơi thánh nhân nhìn ra Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Người cho con người qua những công trình sáng tạo. Qua đó Thánh Franzicus muốn nói chỉ cho thấy việc bảo vệ thiên nhiên cần chiều khích thiêng liêng, cần kinh nghiệm về tình yêu đối với mọi loài thụ tạo trong thiên nhiên.
Chọn nếp sống khó nghèo đơn giản, nhưng Thánh Franzicus luôn có trái tim tâm hồn của một người có đời sống vui tươi thanh thản, chan chứa tình yêu mến với thiên nhiên, với con người, nhất là với Đấng Tạo Hóa. Tinh thần đó Thánh Franziscus đã nhận được từ nơi Chúa Giêsu.
Thánh Franziscus năm 1223 cùng với anh em trong Dòng ở khu rừng vùng Grecco dựa theo phúc âm Thánh sử Luca tường thuật về sự sinh ra của Chúa Giêsu, đã xây dựng hang đá Chúa Giêsu giáng sinh đầu tiên với những con thú vật bò, lừa mừng lễ Chúa giáng sinh với tâm tình lòng yêu mến cung kính.
Từ sự tích nguồn gốc mang tính cách thần thoại thánh thiêng đó do sáng kiến cảm hứng của Thánh Franziscus, hang đá mừng lễ Chúa giáng sinh được phát triển xây dựng trong toàn thể Giáo hội trên thế giới. Hang đá mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh từ đó không thể thiếu trong ngày mừng lễ sinh nhật Chúa ngày 25. tháng 12. hằng năm.
Từ năm 1209 Franziscus đã được phép Giáo hội cho thành lập Dòng. Hội Dòng Franziscus lớn mạnh từ ngày đó trong toàn thể Giáo hội hoàn cầu. Cho tới ngày nay Dòng Thánh Franziscus đã phát triển thành ba cấp hội dòng:
- Cấp thứ nhất Dòng Nam gồm ba hội Dòng:
Tu sĩ Hèn mọn ordo fratrum minorum conventualium (OFM Conv) mặc tu phục mầu đen.
2. Dòng Tu sĩ hèn mọn ordo fratrum minorum - OFM, mặc tu phục mầu nâu.
3. Franziscus Capucino - OFM Cap - Ordo Fratrum minorum Cappucinorum, tu phục mầu nâu nhưng mũ nhọn dàng sau lưng dài hơn.
- Cấp hai: Dòng nữ có hai nhánh: Dòng nữ Thánh Clara và Dòng nữ Capucin.
- Cấp ba Dòng ba dành cho mọi giáo dân.
Nếp sống từ bỏ, chọn sự khó nghèo đơn giản, lòng vui tươi yêu mến thiên nhiên vạn vật hướng về Đấng Tạo Hoá, bài ca mặt trời, kinh hòa bình và hang đá mừng lễ Chúa giáng sinh là những nét đặc thù thiên phú Đấng Tạo Hóa đã qua Thánh Franziscus mang đến cho Giáo hội, cho con người trần gian.
Thánh Franziscus qua đời ngày 03.10.1226 được an táng ở Assisi. Và hai năm sau đó ngày 16.07.1228 được Đức giáo hoàng Gregor IX. tuyên phong là vị Thánh trong Giáo hội.
Hằng năm Giáo Hội mừng kính lễ Thánh Franzicus vào ngày 4.10.
Thập gía Chúa Giêsu Kitô hình dấu cộng. Nhưng thập gía của Dòng Thánh Phanxicô trên đỉnh còn có thêm một khúc hình nhỏ nằm ngang, và được gọi với dang xưng thập gía Tau của Dòng Thánh Phanxicô.
Dấu hiệu thập gía Tau theo thánh Phanxico như dấu chỉ sự chúc phúc lành, và cũng như dấu chỉ sự khiêm nhượng và sự cứu chuộc.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Phanxicô thành Assisi là một vị Thánh có đời sống yêu mến gắn bó với công trình thiên nhiên. Vì thế khi còn sinh thời ông đã sáng tác nên bài ca mặt trời chúc tụng công trình thiên nhiên của Chúa
“Ngợi khen Chúa, lạy Chúa tôi,
vì Chị chúng tôi, là Mẹ Đất,
Chị nâng đỡ, Chị dìu dắt.
Chị sinh ra bao thứ trái,
hoa muôn màu giữa ngàn cỏ dại.”
Bài ca ngợi này xưa nay là nguồn cảm hứng cho các thế hệ con người đi tìm linh đạo cho nếp sống bình an cùng hòa nhịp điệu với thiên nhiên.
Phanxicô thành Assisi, người yêu mến thiên nhiên, góp mặt trong lòng nếp sống đạo đức của Giáo Hội thế nào?
Franziscus sinh năm 1182 ở thành phố Assisi bên nước Ý trong một gia đình giàu có. Theo tương truyền Franziscus vào cầu nguyện trong ngôi thánh đường nhỏ San Damiano, được Chúa Giêsu từ trên cây thập gía nói vọng xuống: „Franziscus, con hãy xây cho cha một ngôi nhà, vì ngôi nhà này có nguy cư bị tàn phá sụp đổ!“.
Thế là Franziscus bắt tay đi xây sửa lại ngôi thánh đường đang hư hại San Damiano. Nhưng chẳng lâu sau đó Franziscus cảm nhận ra, sứ mạng Chúa Giêsu trao cho mình to lớn hơn. Đó là ngôi nhà toàn thể Giáo hội.
Lòng thôi thúc, Ông ra từ bỏ khỏi gia đình. Trả lại tất cả quần áo cho cha mẹ mình với lời quyết tâm “Từ hôm nay con không còn cha nào khác, ngoài người Cha trên trời!“.
Franziscus đi kêu gọi thu thập những người cùng chí hướng sống chung một đời sống đơn giản. Việc cầu nguyện là nếp sống chính của cộng đoàn, và luôn luôn di chuyển qua các làng mạc để loan báo tin mừng. Họ làm việc ngoài đồng ruộng để kiếm miếng ăn sinh sống. Tiền bạc họ không có, họ chỉ nhận thức ăn như lương được trả công.
Franziscus sống nếp sống một người anh em hèn mọn khiêm nhượng, nhưng tâm hồn đời sống vui tươi hát ca tụng Thiên Chúa, và qua lời rao giảng giúp con người hướng về Thiên Chúa.
Năm 1209 Đức giáo hoàng Innocente III. ( 1161-1216) công nhận ban phép cho Franziscus thành lập Dòng Phanxicô Anh em hèn mọn. Sau vài năm trời Dòng Franziscus đã có tới hơn 5000 hội viện. Dù có nhiều anh em gia nhập dòng, nhưng cũng có nhiều người không thể chấp nhận nổi lý tưởng cao vời do Franziscus đề ra. Một vài thành viên muốn hội Dòng phải có một cấu trúc rõ ràng minh bạch. Nhưng Franziscus không muốn làm hiến pháp luật riêng cho dòng của mình. Căn bản cho luật Dòng là sách Kinh Thánh. Vì thế, Franziscus rời bỏ việc quản trị Dòng và lui vào nếp sống khổ hạnh ẩn dật.
Xa xa chừng hơn vài trăm mét trước quảng trường sân đền thờ Laterno, nhà thờ chính tòa của đức giáo hoàng Roma, có bức tượng bằng đồng to lớn tạc tượng Thánh Franxiskus đang giơ đôi tay cầu khẩn lên trời cao và một vài anh em Dòng, đang đứng qùi hướng về đền thờ chính tòa Laterano. Bức tượng đài kỷ niệm này diễn tả biến cố ngày xưa 1209 Thánh Franziskus và các anh em đồng chí hướng, đi từ Assisi đến Roma xin đức giáo hoàng Innocentê III. ban phép cho lập Dòng Anh em hèn mọn.
Qua đau khổ chịu đựng Franziscus đã trưởng thành lớn lên trong tình yêu mến. Chúa Giêsu Kitô đã tỏ cho Franziscus tình yêu của người, ông được tiếp nhận khắc ghi những vết thương của Chúa nơi con người ông. Đau khổ thể xác nhưng Franziscus đã sáng tác ra bài ca tuyệt diệu chan chứa tâm tình yêu mến thiên nhiên: Bài ca mặt trời, ca ngợi chúc tụng công trình thiên nhiên của Thiên Chúa cho con người trần gian.
Bài ca cầu nguyện này được Franziscus sáng tác vào cuối năm 1224 hay đầu năm 1225 ở năm cuối đời của ngài.
Có nhiều truyền thuyết về Franziscus trong dân gian. Không chỉ tất cả mọi con người, nhưng cả những con thú vật cũng được Franziscus gọi là anh chị em. Như con chó rừng vùng Gubbio trở nên thuần thục hiền hoà qua lời nhắn nhủ giáo dục của Franziscus. Franziscus yêu mện mọi loài cây cỏ thảo mộc, mọi thú vật. Franziscus kêu gọi mọi loài thụ tạo nhận ra tình yêu của Thiên Chúa và quay trở về với Đấng Tạo Hoá dựng nên mình.
Franziscus giảng thuyết cho loài chim chóc và chúng cũng để cho ông vuốt ve chúng. Franziscus là một trong những người biểu lộ tình yêu mến của mình không chỉ đối với con người mà còn đối với cả loài thú vật.
Có lẽ vì thế, Thánh Franziscus ngày nay được phong trào bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ xúc vật chọn làm quan thầy bảo trợ. Nhưng Thánh Franziscus đã không bao giờ là người chiến đấu qúa khích trong lãnh vực này. Trái lại, Thánh Franziscus là người yêu mến kính trọng thiên nhiên. Vì thánh nhân nhận ra tình yêu thiên Chúa trong công trình sáng tạo thiên nhiên.
Thánh Franziscus vui với sức nóng ấm mặt trời, với sự tươi mát của nước, với ánh sáng dịu mát của mặt trăng. Khắp nơi thánh nhân nhìn ra Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Người cho con người qua những công trình sáng tạo. Qua đó Thánh Franzicus muốn nói chỉ cho thấy việc bảo vệ thiên nhiên cần chiều khích thiêng liêng, cần kinh nghiệm về tình yêu đối với mọi loài thụ tạo trong thiên nhiên.
Chọn nếp sống khó nghèo đơn giản, nhưng Thánh Franzicus luôn có trái tim tâm hồn của một người có đời sống vui tươi thanh thản, chan chứa tình yêu mến với thiên nhiên, với con người, nhất là với Đấng Tạo Hóa. Tinh thần đó Thánh Franziscus đã nhận được từ nơi Chúa Giêsu.
Thánh Franziscus năm 1223 cùng với anh em trong Dòng ở khu rừng vùng Grecco dựa theo phúc âm Thánh sử Luca tường thuật về sự sinh ra của Chúa Giêsu, đã xây dựng hang đá Chúa Giêsu giáng sinh đầu tiên với những con thú vật bò, lừa mừng lễ Chúa giáng sinh với tâm tình lòng yêu mến cung kính.
Từ sự tích nguồn gốc mang tính cách thần thoại thánh thiêng đó do sáng kiến cảm hứng của Thánh Franziscus, hang đá mừng lễ Chúa giáng sinh được phát triển xây dựng trong toàn thể Giáo hội trên thế giới. Hang đá mừng lễ Chúa Giêsu giáng sinh từ đó không thể thiếu trong ngày mừng lễ sinh nhật Chúa ngày 25. tháng 12. hằng năm.
Từ năm 1209 Franziscus đã được phép Giáo hội cho thành lập Dòng. Hội Dòng Franziscus lớn mạnh từ ngày đó trong toàn thể Giáo hội hoàn cầu. Cho tới ngày nay Dòng Thánh Franziscus đã phát triển thành ba cấp hội dòng:
- Cấp thứ nhất Dòng Nam gồm ba hội Dòng:
Tu sĩ Hèn mọn ordo fratrum minorum conventualium (OFM Conv) mặc tu phục mầu đen.
2. Dòng Tu sĩ hèn mọn ordo fratrum minorum - OFM, mặc tu phục mầu nâu.
3. Franziscus Capucino - OFM Cap - Ordo Fratrum minorum Cappucinorum, tu phục mầu nâu nhưng mũ nhọn dàng sau lưng dài hơn.
- Cấp hai: Dòng nữ có hai nhánh: Dòng nữ Thánh Clara và Dòng nữ Capucin.
- Cấp ba Dòng ba dành cho mọi giáo dân.
Nếp sống từ bỏ, chọn sự khó nghèo đơn giản, lòng vui tươi yêu mến thiên nhiên vạn vật hướng về Đấng Tạo Hoá, bài ca mặt trời, kinh hòa bình và hang đá mừng lễ Chúa giáng sinh là những nét đặc thù thiên phú Đấng Tạo Hóa đã qua Thánh Franziscus mang đến cho Giáo hội, cho con người trần gian.
Thánh Franziscus qua đời ngày 03.10.1226 được an táng ở Assisi. Và hai năm sau đó ngày 16.07.1228 được Đức giáo hoàng Gregor IX. tuyên phong là vị Thánh trong Giáo hội.
Hằng năm Giáo Hội mừng kính lễ Thánh Franzicus vào ngày 4.10.
Thập gía Chúa Giêsu Kitô hình dấu cộng. Nhưng thập gía của Dòng Thánh Phanxicô trên đỉnh còn có thêm một khúc hình nhỏ nằm ngang, và được gọi với dang xưng thập gía Tau của Dòng Thánh Phanxicô.
Dấu hiệu thập gía Tau theo thánh Phanxico như dấu chỉ sự chúc phúc lành, và cũng như dấu chỉ sự khiêm nhượng và sự cứu chuộc.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Văn Hóa
CÁC ĐÓNG GÓP Công GiáoTRONG CÁC THẾ KỶ 20 VÀ 21 CHO KHOA CHÚ GIẢI KINH THÁNH, PHẦN MỘT
Vũ Văn An
20:24 01/10/2025
Phần Một: Dẫn nhập vào Kinh Thánh
Mục Một: Dẫn nhập vào Cựu Ước
Tiết Một: Ngũ Kinh
(1). Chương Một: Tổng quan về Ngũ Kinh
Roland E. Murphy, O.Carm
The New Jerome Biblical Commentary, Student Edition, các tr.3-7
Tài liệu Tham khảo
1.Brueggemann, W., The Vitality of Old Testament Traditions [Sinh lực của các truyền thống Cựu Ước] (ấn bản lần 2; Atlanta, 1982).
Cassuto, U., The Documentary Hypothesis [giả thuyết tài liệu] (Jerusalem, 1961).
Cazelles, H., DBSup 7. 736-858.
Clines, D. J. The Theme of the Pentateuch [chủ đề của Ngũ Kinh] (JSOTSup 10; Sheffield, 1978).
Cross, CMHE 293-325.
Knight, D. (biên tập), Julius Wellhausen and His Prolegomena to the History of Israel [Julius Wellhausen và Lời mở đầu của ông cho Lịch sử Israel] (Semeia 25;
Chico, 1982).
Noth, M., A History of Pentateuchal Traditions [lịch sử các truyền thống Ngũ Kinh] (EC,1972).
Von Rad, PHOE 1-78.
Rendtorff, R., "The Yahwist as Theologian?[Người theo trường phái Gia-vít như nhà thần học?" JSOT 3 (1977) 2-10; Die uberliejerungsgeschichtliche Problem des Pentateuch [Vấn đề về lịch sử truyền tải của Ngũ Kinh] BZAW 14 7; Berlin, 1977.
Schmid, H. H., Der sogenannte Yahwist [điều gọi là Giavi1t] (Zurich, 1976). Vermeylen, J., "La formation du Pentateuque a la lumière de l'exegese historico-critique [Việc hình thành Ngũ Kinh dưới ánh sáng khoa chú giải phê bình lịch sử]," RTL 12 (1981) 324-46.
Whybray, R. N., The Making of the Pentateuch [Việc tạo ra Ngũ kinh] (JSOTSup 53; Sheffield, 1987).
Nghiên cứu Ngũ kinh được trình bày trong hầu như mọi phần giới thiệu về Cựu Ước và trong các từ điển Kinh thánh, nhưng đặc biệt xem D. Knight trong HBMI263-96; D.J. McCarthy trong BHMCS 34-57; C.Westermann, Genesis 1-11 (Minneapolis, 1984) 567-606, để biết tóm tắt và thư mục.
Phân tích Ngũ Kinh
(I). Từ ngữ và nội dung
Chữ Ngũ Kinh, Pentateuch, là do nguyên ngữ Hy Lạp pentateuchos, “năm chỗ chứa”, tức các cuốn sách bằng da hay bằng sậy chứa trong những thùng đựng. Trong trường hợp của chúng ta ở đây, chính là 5 cuốn sách đầu tiên của Kinh thánh, tức Sáng Thế, Xuất Hành, Lêvi, Dân Số và Đệ Nhị Luật. Năm cuốn này tạo thành Sách Luật (tôrâ, nguyên nghĩa là lời dạy).Truyền thống phân chia Sách Thánh Do Thái thành Lề Luật, Tiên Tri, và Trước Tác (Tenak) cho thấy họ hiểu 5 cuốn trên như một đơn vị thống nhất.
Vì một số học giả làm việc với ít hay nhiều hơn bộ Ngũ Kinh, nên đã phát sinh ra một số từ ngữ như tứ thư (tetrateuch) gồm 4 cuốn từ Sáng Thế tới Dân Số, hay lục thư (hexateuch) gồm 6 cuốn từ Sáng Thế tới Giosuê. Những từ ngữ này nói lên quan điểm về cách lập thành và mối tương quan giữa các sách liên hệ.
Một tổng lược lịch sử đã được trình bày trong bộ Ngũ Kinh này, từ lúc sáng tạo ra thế giới và nhân loại tới những bài diễn văn của Mô-sê trong cánh đồng Mô-áp (cái chết và việc chôn cất ông được ghi tại Đnl 34). Nội dung trên có thể tóm tắt như sau: lịch sử khởi nguyên (St 1-11); thời các tổ phụ (St 12-36); truyện Giuse (St 37-50); giải phóng khỏi Ai Cập và hành trình tới Xi-nai (Xh 1-18); ban hành lề luật tại Xi-nai (Xh19-Ds10); hành trình từ Xi-nai tới Mô-áp (Ds 10-36); ba bài diễn văn của Mô-sê tại cánh đồng Mô-áp, và phụ lục (Đnl 1-34). Đáng để ý là phần rất lớn ở giữa từ Xh 19 tới Ds 10, ghi lại phần lớn luật lệ ban hành tại Xi-nai.
Dĩ nhiên, người ta có thể tóm tắt nội dung của Ngũ Thư nhiều cách khác nhau. Năm chủ đề chính được M. Noth nhấn mạnh (ông vốn làm việc với tứ thư) cũng khá hữu ích: các lời hứa cho các tổ phụ, hướng dẫn ra khỏi Ai Cập, hướng dẫn trong sa mạc, Mặc khải Xi-nai, và hướng dẫn tại vùng đất canh tác được. Hay người ta cũng có thể theo cách phân chia dựa trên việc sử dụng chữ tôlědôt (đời), một kiểu đã được dùng để cấu trúc sách Sáng Thế (truyền thống P). Nếu “lời hứa” được coi như một ý niệm nổi bật (nó nổi bật thật trong các trình thuật tổ phụ), thì người ta rất có khuynh hướng bao gồm cả Sách Giosuê là sách đề cập tới việc nên trọn việc hứa ban đất đai, do đó có lục thư. Tuy nhiên, truyền thống Do Thái vốn tách Luật ra khỏi các Tiên Tri (Ban Đầu). Giải thích hay nhất cho điều này là của J. Sanders trong cuốn Torah and Canon [Phil, 1972] 44-53. Việc đặt Đnl vào Ngũ Kinh là hành động cố ý đi theo chiều kể truyện về lời hứa và nên trọn, một câu truyện lấy Mô-sê làm người ban hành Tôrâ, nhà lãnh đạo thật sự của cộng đồng hậu lưu đày (Ml 3:23; Er 8:1).
(II). Tác giả
Gần hai ngàn năm qua, cả hai truyền thống Do Thái và Kitô Giáo đều coi Mô-sê là tác giả của Ngũ Kinh. Mặc dù, trong thời kỳ dài đằng đẵng ấy, thỉnh thoảng vẫn có những nghi vấn được nêu ra về vấn đề tác giả, nhưng phải đợi tới thế kỷ 18, vấn đề ấy mới được nghiêm chỉnh đề cập tới. Ngày nay phần lớn đều cho ông không phải là tác giả. Tuy thế, việc hình thành ra bộ này vẫn còn rất mù mờ.
Một vài sự kiện hiển nhiên cho thấy việc gán quyền tác giả cho Mô-sê là điều không thích hợp. Cái chết của Mô-sê được ghi trong Đnl 34. Tuy nhiên, một số công thức lại cho thấy thời điểm sau Mô-sê, như “cho đến ngày hôm nay” (Đnl 34:6); “thời bấy giờ, người Ca-na-an đang ở trong miền ấy” (St 13:6); chỉ lãnh thổ phía đông sông Gio-đan là “phía bên kia” theo quan điểm của cư dân Palestine, là miền Mô-sê chưa bao giờ đặt chân tới (St 50:10); và còn nhiều các từ sai niên đại khác như việc nhắc đến người Philitinh (St 26:14-18). Một trong những điều nổi bật nhất khiến người ta phải điều tra về bộ Ngũ Kinh là việc thay đổi thánh danh Gia-vê bằng một danh từ tổng quát chỉ thần tính tức Êlôhim. Điều này không thể giải thích cách hời hợt mà phải được giải thích bằng những yếu tố nhất quán hơn. Người ta cho rằng khi liên hệ thánh danh thần thánh với một ngữ vựng, một lối kể truyện và một nội dung đặc thù, thì các dòng văn Gia-vê (J) và dòng văn Êlôhim (E) đã xuất hiện như là các nguồn khác nhau cho bản văn (và do đó, do nhiều tác giả đóng góp). Một luận chứng khác nữa là việc có những chỗ trùng lắp (doublets), tức một biến cố được nhắc tới hai lần như lời gọi Mô-sê (Xh 3, 6) hay nguy cơ xẩy tới cho tổ mẫu (St 12:9-13:1; 20:1-18; 26:1-17). Sự phức tạp của Ngũ Kinh vì thế đòi phải có nhiều dòng văn trong nó.
Đây không phải là chỗ để ôn lại lịch sử phức tạp của ngành phê bình Kinh thánh hiện đại, tuy ngành này đã nên sắc cạnh nhờ phân tích Ngũ Kinh. Các dị biệt về tên và ngữ vựng, về văn phong và nội dung đã được ghi nhận trong Ngũ Kinh và chúng cần được giải thích thỏa đáng. Phải chăng các dị biệt ấy là do các tài liệu khác nhau hay là tại do nhiều “mảnh” khác nhau sau cùng đã được gom lại một mối? Hay một khả thể khác: phải chăng trước đó có một trình thuật căn bản rồi sau đó trình thuật này đã được bổ túc (giả thuyết bổ túc)? Cuối cùng, Julius Wellhausen (1844-1918) đã đưa ra một tổng hợp cho các cố gắng trên đây và tổng hợp của ông vẫn nổi bật trong lãnh vực này từ đó, dù có nhiều thay đổi. Giả thuyết ông đưa ra được gọi là “giả thuyết tài liệu” cho hay có tất cả bốn tài liệu theo thứ tự sau đây: J (Giavê, thế kỷ thứ 9), E (Êlôhim, thế kỷ thứ 8), D (Đệ Nhị Luật, thế kỷ thứ 7) và P (tư tế, sau lưu đày). Bốn nguồn văn viết chính này sau cùng đã được kết hợp trong thời hậu lưu đày dưới sự điều khiển của truyền thống P và có lẽ do một ban soạn thảo R (R, tắt cho redactor). Đàng sau mỗi dòng văn hay tài liệu JEDP này, có lẽ là một cá nhân, nhưng phần chắc là một trường phái soạn thảo. Giả thuyết này sau đó đã chịu nhiều thay đổi nhỏ. Trước nhất, hiện đang có khuynh hướng định niên biểu J và E sớm hơn, tức vào thế kỷ thứ 10 hay thứ 9. Thứ hai, có sự thừa nhận rằng nên coi các “tài liệu” này như các “truyền thống” nhằm tổng hợp các truyền thống truyền khẩu cũng như thành văn trước đây. Dù một số học giả sau này có khuynh hướng muốn chẻ J thành nhiều nguồn khác nhau (J1, J2 v.v…), nhưng khuynh hướng chung hiện nay vẫn duy trì 4 dòng văn nói trên và nhìn nhận có sự hiện hữu của những truyền thống trước đó du nhập vào 4 dòng này.
Dường như muốn nhắc mọi người nhớ cho rằng đấy chỉ là một giả thuyết, dù rất sáng giá, nên các học giả gần đây đã nêu ra nhiều nghi vấn chống đối. Các nghi vấn của họ được tóm tắt trong The Hebrew Bible and Its Modern Interpreters [viết tắt là HBMI] 263-96 của D. Knight and G. Tucker, và Journal for the Study of the Old Testament [JSOT] 3(1977) 2-60. Rolf Rendtorff chẳng hạn cho rằng J không phải là một trình thuật trọn vẹn được dệt vào suốt Ngũ Kinh mà ta có thể gán cho một hay nhiều “thần học gia”. Đúng hơn nó là công trình biên tập lại nhiều đoạn văn cá thể (như P chẳng hạn). Việc soạn thảo thực sự của Ngũ Kinh là do một biên tập viên thời viết ra Đệ Nhị Luật. Trước hết, có những câu truyện riêng rẽ (như từng tổ phụ riêng rẽ một) được phối hợp thành một tổng hợp phức tạp dựa trên các chủ đề thống nhất (như các lời hứa chẳng hạn). Việc tích nhập tất cả các tổng hợp phức tạp trên vào hình thức sau cùng là công trình soạn thảo có tính thần học dưới ảnh hưởng của thời kỳ viết Đệ Nhị Luật (xem Rolf Rendtorff, The Old Testament [Phl, 1986] 157-74).
Tuy sự nhất trí liên quan đến việc hình thành ra Ngũ Kinh đã bị thương tổn, nhưng không bị thay thế. Nhiều người vẫn coi nó là một giả thuyết có thể chấp nhận được. Phần đông vẫn nhất trí rằng Xh25 – Ds10 thuộc truyền thống P hậu lưu đày, dù có những chi tiết xưa hơn trong đó. Sách Đnl có đặc tính độc đáo, do đó rất thích hợp được gọi là D, và có lẽ đã được thành hình trong các thế kỷ từ 8 tới 6. Nhưng việc phân biệt giữa J và E luôn luôn bị tranh cãi, ngay từ lâu trước. Khuynh hướng hiện nay nhìn nhận có sự mở rộng J, do một nhà soạn thảo R.
Điều hữu ích là chú ý tới việc lên đặc điểm cho 4 dòng văn trên, tuy nhiên, không được coi việc lên đặc điểm này là tuyệt đối. J nổi tiếng có những phỏng nhân hình (anthropomorphisms) sống động, nghệ thuật kể truyện linh động, và tầm nhìn thần học đầy sáng tạo (năng động tính của lời hứa và việc nên trọn). J rất lưu loát về các truyền thống xưa, có lẽ nhờ thừa hưởng thời kỳ văn hóa sáng chói của Salômôn. Truyền thống Êlôhim không rõ ràng lắm. Người ta vẫn coi nó chỉ là những truyền thống độc lập được chêm vào hay là một biên tập J chưa bao giờ tự mình hiện hữu. Nó được liên kết với các truyền thống của vương quốc phía bắc và được cho là nhấn mạnh tới luân lý và phản ảnh đáp ứng thích hợp của Israel, tức đức tin và lòng kính sợ Thiên Chúa. D trái lại là một truyền thống rất rõ ràng, nhưng sự hiện diện của nó trong Ngũ Kinh bên ngoài chính Đệ Nhị Luật thì không rõ ràng lắm. Nó nhấn mạnh tới lòng kính sợ/yêu mến Thiên Chúa theo nghĩa vâng theo các lệnh truyền của Người vì sợ bị phạt. Lối văn khuyên dạy và ngôn từ của nó mang lại cho nó một đặc điểm khá độc đáo, đến nỗi người ta nhận ra nó dù nó xuất hiện cả ở bên ngoài Ngũ Kinh như trong các câu Gs 1:1-9; 23:3-16. P cũng là một dòng văn rõ ràng độc đáo. Nó quan tâm tới các vấn đề phụng tự và lễ nghi (Lêvi), tới gia phả (Sáng Thế) và tương phản với thần học về “Tên” trong Đệ Nhị Luật (Đnl 12:5, 11, 21), nói về sự hiện diện của Thiên Chúa theo nghĩa vinh quang và dựng lều (Xh 16:10; 40:34-38). Theo F.M Cross (Canaanite Myth and Hebrew Epic, Cambridge MA 1973), truyền thống P chưa bao giờ hiện hữu như một tài liệu kể truyện độc lập. Đúng hơn, nó rút tỉa các nguồn của chính mình để lên khuôn và hệ thống hóa hai truyền thống JE và tạo ra tứ thư (St-Ds) vào thời lưu đày. Các đặc điểm của nó là: dùng các ngôn từ làm cho ra cổ, như dùng chữ El Shaddai để chỉ Gia-vê, một từ có nguồn gốc Lưỡng Hà; hệ thống hóa Sách Sáng Thế bằng việc sử dụng công thức tôlĕdôt (gia phả), và phân thời kỳ lịch sử bằng các mốc giao ước: giao ước với Nô-e (St 9:7), giao ước với Áp-ra-ham (St 17:6) và giao ước với Mô-sê (Lv 26:9). Chủ đề xóa tội cũng như lòng thống hối và việc tái lập thời đại Mô-sê cùng với việc phụng tự và lề luật của nó cũng là đặc trưng của truyền thống P.
Việc phân tích sự hình thành của Ngũ Kinh mang lại nhiều hệ lụy cho các phần còn lại của Cựu Ước. Đa số đều tin rằng trước thời lưu đày, St-Đnl chưa bao giờ được coi là một tôrâ hoàn tất cả. Trước thời đó, nhiều truyền thống, cả truyền khẩu lẫn thành văn, có lẽ đã cung cấp cho dân nhiều hướng dẫn. Quê hương của truyền thống J thường được coi là Giuđa, trong khi truyền thống E được gán cho Ít-ra-en. Cao điểm của phong trào Đệ Nhị Luật trong cuộc canh cải của Giô-si-gia (641-609) đại biểu cho truyền thống D, vốn phát nguyên trước nhất ở phía bắc và sau đó trở thành quan trọng ở Giuđa. Một số bộ luật (luật Giao Ước trong Xh 20:22-23:19; luật Thánh Thiện trong Lv 17-26; Đệ Nhị Luật trong Đnl 12-26) có khá nhiều thực hành chung nhưng cũng cho thấy các phát triển và các đặc điểm đặc thù từng xẩy ra trong nhiều thế kỷ. Về việc tập trung hóa sự thờ phượng, vốn được Đnl và truyền thống Đệ Nhị Luật nhấn mạnh, ta nên nhớ rằng đây là một khai triển chậm chạp; nếu hiểu nó đã thành hình ngay từ thời Êlia (thế kỷ thứ 9) là điều sai lầm về thời gian.
Tóm lại, cần lưu ý rằng có thể rút ra kết luận từ các giai đoạn mà Ngũ Kinh đã trải qua. Đôi khi những kết luận này có thể không thực sự biện minh cho các tuyên bố sự kiện về lịch sử. Do đó, người ta có thể tự hỏi liệu sự tách biệt về mặt văn học giữa truyền thống Sinai và truyền thống xuất hành, như von Rad (PHOE 1-26; xem H. Huffmon, CBQ 27 [1965] 101-13) lập luận, có tìm thấy tiếng vang trong lịch sử Israel hay không, do đó, hai truyền thống ban đầu khá khác biệt và chỉ hợp nhất vào thời điểm muộn hơn nhiều. Có thể đọc Ngũ Kinh theo cách "liên dòng" [interlinear], như vậy, rút ra những kết luận liên quan đến lịch sử Israel khá là giả thuyết. Do đó, việc tái tạo bản chất của các chi tộc dựa trên dữ kiện liên quan đến các tổ phụ và “các con trai của Giu-se” chắc chắn là mong manh (xem các nỗ lực của de Vaux trong EHI 475-749; tất nhiên, Ngũ kinh chỉ là một phần của dữ kiện mà người ta phải làm việc với).
Không thể phủ nhận rằng Ngũ kinh chứa đựng các truyền thống giao ước cũ đã hình thành nên hiến chương tôn giáo của các chi tộc cấu thành nên dân của Chúa. “Độc thần đạo đức” không phải là sự sáng tạo của các nhà tiên tri thế kỷ thứ 9, như Wellhausen đã tuyên bố. A-mốt (3:2) và Hô-sê (4:1-2) đã phán xét dân dựa trên các điều khoản giao ước (bất kể thuật ngữ giao ước hay berit, được sử dụng chung khi nào).
(III). Hình thức văn chương
Việc truyền thống chấp nhận Mô-sê là tác giả Ngũ Kinh đem theo nó một ý niệm cứng ngắc về lịch sử. Theo cái nhìn này, người ta cho rằng mọi sự xẩy ra trong Xh-Đnl đều đúng như Mô-sê mô tả, vì ông là nhân chứng đầu tay. Việc đồng hóa chân lý Kinh thánh với chân lý lịch sử, như trong trường hợp này, chỉ là một hình thức của chủ nghĩa giản lược (reductionism); nó hạn chế tự do của Thiên Chúa trong việc tạo ra một trước tác hết sức phong phú như Cựu Ước. Điều này có nghĩa: ta phải đọc Ngũ Kinh (và cả bộ Cựu Ước) với ý thức rằng bộ này chứa nhiều hình thức văn chương khác nhau.
Từ thời H. Gunkel đưa ra lời bình luận nổi tiếng về sách Sáng thế, các học giả đã rất bận tâm với câu hỏi về Gattungen, hay các hình thức, và Ngũ kinh đã cung cấp vô số ví dụ để phân tích.
(Coats, G., Genesis [FOTL 1; GR, 1983], Hayes, J. H. (biên tập). Old Testament Form Criticism [Phê bình hình thức Cựu ước] [San Antonio, 1974]. Koch, K., The Growth ofthe Biblical Tradition [Sự phát triển của truyền thống Kinh thánh] [NY, 1969]. Tucker, G. M., Form Criticism of the Old Testament [Phê bình hình thức Cựu ước] [Phi, 1971].)
Có hình thức dễ nhận ra hơn các hình thức khác. Xin tạm liệt kê dưới đây một số hình thức ấy:
Luật. Hình thức này chiếm phần lớn Ngũ Kinh, từ Xh tới Đnl, xem de Vaux, AI 143-.
Nguyên lai học (etiology). Một trình thuật nhằm giải thích một cái tên hay một hoàn cảnh nào đó. Hình thức nguyên lai học có thể là một cách chơi chữ (Xh 15:23, tên Ma-ra), hay cũng có thể là một trình thuật để giải thích một biến cố thí dụ như đoạn giải thích lý do Giuse lập ra thuế đất trong St 47:13-26.
Nghi thức. Hình thức mô tả cách tiến hành các nghi thức quan trọng trong một cộng đồng, như dâng hoa quả đầu mùa trong Đnl 26:1-11 hay các qui định liên quan đến các hy lễ trong Lv 1-7.
Gia phả. Hình thức lên danh sách dòng dõi tổ tiên cũng như các mối liên hệ. Gia phả đó có thể là trực hệ, mô tả một dòng duy nhất từ trên xuống dưới (10 đời từ A-đam qua Sét tới Nôe, St 5) hay bàng hệ như trong danh sách các con của Giacóp trong St 46:8-27. Nên nhớ một điều các gia phả thời xưa không hẳn là những ghi chép lịch sử. Chúng không phải chỉ bao gồm những người có liên hệ máu mủ, mà cả các liên hệ do buôn bán, địa dư hay các nguyên nhân khác tạo ra (xem R.R. Wilson, Genealogy and History in the Biblical World [Yale Near Eastern Reserachs 7; New Haven, 1977]).
Thánh ngôn (hieros logos). Tức các lời thánh hay tương truyền thánh thiêng giải thích nguồn gốc một nơi thánh như St 28:10-22 (Bết-ên đánh dấu nơi Giacóp thấy chiếc thang); 33:18-20 (“En, Thiên Chúa của Ít-ra-en”, tên nơi Giacóp bình an trở về sau khi gặp Ê-xau).
Chúc phúc. Lời có hiệu quả ban quyền lực hữu hiệu cho người nào. Lời chúc phúc nói ở giường người hấp hối được gọi là di ước (testament) như trong Đnl 33 (Mô-sê chúc phúc lần cuối cho dân Do Thái).
Các hình thức văn chương khác thì có vấn đề hơn. Vì các học giả rất khác ý kiến nhau về huyền thoại (myth), cổ tích (saga), dã sử (legend), tiểu thuyết (novella) và đôi khi những hình thức này còn được phân chia thêm, như cổ tích về gia đình… Mục đích của chúng tôi ở đây chỉ là đưa ra một số khả thể:
Huyền thoại. Nhiều cách hiểu khác nhau đã xẩy ra chung quanh hình thức này. Nó từng được định nghĩa như một trình thuật về các thần minh (có lẽ chỉ áp dụng vào St 6:1-4, đoạn nói về các con trai Thiên Chúa lấy các con gái loài người). Người ta cũng coi nó như một câu truyện đi kèm nghi thức. Nó cũng chỉ cách người ta suy nghĩ, tức đặc tính thần thoại thi ca (mythopoetic) của tư duy con người (Xem H. Frankfort, et al. The Intellectual Adventure of Ancient Man [rev. ed. Chicago, 1977] 3-2).
Cổ tích. G. Coats (Genesis 319) định nghĩa hình thức văn chương này là “một câu truyện dài, văn xuôi, cổ truyền có cấu trúc gồm nhiều tình tiết (episodic) và khai triển quanh các chủ đề hay đối tượng đã thành nguyên mẫu”. Các chủ đề và đối tượng này có thể là thời nguyên sơ (truyền thống J trong Sáng Thế 1:1-11), là gia đình (truyện Áp-ra-ham thuộc truyền thống J trong Sáng Thế 12-26), là anh hùng (Mô-sê trong phiên bản J, Xuất Hành 3 và tiếp theo).
Dã sử. Khó phân biệt hình thức này với cổ tích (xem R. Hals, CBQ 34 [1972] 166-76). Coats (Genesis, 252) định nghĩa hình thức này là “một câu truyện chủ yếu liên quan tới những việc kỳ diệu, lạ lùng và gương mẫu điển hình”, nhằm mục đích xây dựng (St 22:1-19; Ds 25:6-12).
Tiểu thuyết (story, novella, tale). Đây là một trình thuật có cốt truyện nhằm gây hứng thú bằng cách tạo căng thẳng và giải quyết căng thẳng ấy. Nó có thể cung cấp kiến thức lịch sử, nhưng với ít nhiều lượng tự do lỏng lẻo; và cũng có thể chỉ là để mua vui, giải trí, qua việc sử dụng các chủ đề dân dã. Truyện Giuse và sách Rút thuộc loại này.
Lịch sử. Hiển nhiên lối văn lịch sử hiểu theo tiêu chuẩn hiện đại khó có thể áp dụng cho các ghi chép của Kinh Thánh. Tuy thế, Kinh Thánh quả có cung cấp cho ta các dữ kiện lịch sử dưới nhiều hình thức. Nó có ghi chép các biến cố quá khứ, nhưng không hoàn toàn chính xác y như chúng đã xẩy ra hay như một người hiện đại ghi chép chúng. Thứ tự thời gian, liên hệ nhân quả và tính lọc lựa (selectivity) đều là các đặc tính của khoa sử thánh. Như một thể văn, lịch sử có thể có trong Sách Các Vua, chứ không hẳn trong Ngũ Kinh, mặc dầu trong đó vẫn có những ký ức có tính lịch sử trong các trình thuật về tổ phụ và xuất hành.
Lịch sử tương truyền (tradition history) là một thuật ngữ được các học giả đưa ra để khảo sát các giai đoạn qua đó một đơn vị bản văn đang được tổng hợp thành một trình thuật liên tục. Như thế, người ta có thể phân tách được một số hình thức văn chương, dù là truyền khẩu hay thành văn, từng được tổng hợp vào cái khung lớn hơn kia. Thí dụ, người ta vốn cho rằng trình thuật J vốn sử dụng một tương truyền (đại hồng thủy, hay các tai họa), và trong một phạm vi khác, J lại đã liên kết với P, và kết quả chính là bộ Ngũ Kinh, như ta đã thấy. Việc nghiên cứu hình thức sau cùng của Ngũ Kinh đưọc gọi chính xác là khoa phê bình soạn thảo (redaction criticism).
Có thể minh họa phương pháp tương truyền lịch sử bằng cách phân tích câu truyện về Gia-cóp (St 25-36). Tương phản với câu truyện về Giuse, một câu truyện khá nhịp nhàng trong việc mô tả mối liên hệ giữa Giuse với anh em ông, người ta có thể nhận ra nhiều chu kỳ rất khác nhau trong câu truyện về Giacóp. Các chu kỳ ấy là chu kỳ Giacóp-Êxau và chu kỳ Giacóp-Laban; từ nguyên gốc, chúng khác biệt nhau, nhưng đã được đem lại với nhau. Muốn hiểu được tính phức tạp, cần phải hiểu sự xếp đặt của bản văn. Trình thuật Giacóp-Êxau bắt đầu với “lịch sử gia đình” Ixaác, cha của họ, trong St 25:19, rồi tiếp tục với việc đánh lừa nổi tiếng của ông trong St 27. Chủ đề về hai anh em sinh đôi thù nghịch nhau này được khai triển ngay trong ngày sinh của họ, trong lối sống của họ (thợ săn, chăn chiên), trong việc bán quyền trưởng nam và trong việc đánh lừa Ixaác để được chúc phúc. Việc phân rẽ hai anh em sinh đôi đã nhanh chóng được thực hiện nhờ việc chọn vợ. Theo truyền thống P (St 26: 34-35; 27:46; 28:1-9) Êxau cưới đàn bà Ca-na-an. Nên Giacóp được sai tới Paddam-aram để cưới một người họ hàng. Nhưng theo truyền thống J, Giacóp trốn đi Paddam-aram để tránh cơn giận lôi đình của Êxau sau khi bị lừa (St 27:41-45). Chu kỳ Giacóp-Laban (JE, St 29:1-31:55) tự đứng một mình. Nó kể lại cuộc hôn nhân của Giacóp với hai con gái ông Laban xảo trá, người vốn cưỡng bức Giacóp phải làm việc cho mình. Nhưng anh Giacóp mưu mẹo của chúng ta đã thoát được thân và trở lại gia đình. Cuộc phiêu lưu này bắt đầu và chấm dứt đều bằng những cuộc thần hiện (Bết-ên 28:10-22; xem thêm 35:9-15; Pơ-nu-ên, 32:23-33). Hai chu kỳ này gặp nhau ở đoạn chót, tức cuộc gặp gỡ của Giacóp với Êxau (32:4-22; 33:1-17). Câu truyện kết thúc (St các chương 34-36) với các dữ kiện gia phả về gia đình Giacóp và con cháu Êxau (người Êđôm).
Toàn bộ trình thuật gắn bó sát nút với nhau đến độ đọc qua người ta tưởng nó là một mối. Nhưng phương pháp lịch sử tương truyền đã cẩn trọng nhận ra nhiều nối kết giữa các biến cố với nhau: tại sao Giacóp đi tới Paddam-aram? Nơi cư trú ấy nói gì về mối liên kết của ông với người Aram trong khu vực? (xem “ông tổ tôi là một người Aram phiêu bạt” Đnl 26:5). Tình tiết Đina tại Si-khem (chương 34) liên hệ ra sao với lịch sử liên hệ với người Si-khem? Không gian địa dư gồm Bết-ên, Si-khem, Khép-rôn, Pơ-nu-ên, Ma-na-kha-gim quả là rộng, và một số địa danh này có liên hệ tới các cuộc thần hiện dính liền với chúng. Cuối cùng, bảng liệt kê con cái Giacóp đã bỏ sót tên Đina (St 35:16-19). Ta phải đánh giá gia phả này ra sao? Phải chăng các nhân vật được kể ra chỉ là các tổ tiên có tên dùng đặt cho các chi tộc sau này trở thành Israel sau thời lưu đày? Không cần phải nói, trả lời các vấn đề như thế rất khó khăn, các vấn đề vốn do các truyền thống khác nhau phối hợp đặt ra. Hiện nay, lịch sử các truyền thống chỉ biết kể ra các truyền thống khác nhau, chứ không giải thích được chúng. Tuy nhiên, các vấn đề này có giá trị. Muốn biết thêm chi tiết, xin xem M. Noth, Pentateuchal Traditions; W. Rast, Tradition History and the Old Testament (Phil, 1972); B.W. Anderson, “Tradition and Scripture in the Community of Faith”, Journal of Biblical Literature 100 (1981, 5-21).
(IV). Các cách đọc Ngũ Kinh khác
Phương pháp phê bình lịch sử phân tích bản văn thành các đơn vị và truyền thống. Phương pháp này cố gắng khởi từ bản văn cuối cùng tìm về lịch sử trước đó của nó. Việc này nhất thiết đòi phải dựa vào giả thuyết đế cố gắng tái tạo các hình thức nguyên thủy của nó. Nhiều người không thỏa mãn với các giả thuyết này. Vì dù một phương pháp có trung thành đến đâu, thì người ta vẫn phải nhìn nhận các giới hạn của nó và do đó cần phải được bổ túc hay sữa chữa bởi phương pháp khác. Ngũ Kinh cuối cùng đã trở thành một sách thống nhất, một đơn vị, nhưng ý nghĩa của nó như thế nào? Liệu có thể có những cách tiếp cận khác đối với nó hay không?
(a) Phương pháp văn chương (literary approach). Phương pháp này áp dụng đối với toàn bộ Kinh thánh, cũng như riêng đối với Ngũ Kinh, và đây là lối phân tích của các sinh viên học văn chương. Có thể tóm tắt phương pháp này bằng những lời sau đây của R. Alter: “Tôi hiểu phân tích văn chương gồm hàng loạt việc tỉ mỉ lưu ý một cách có phân tích tới sự sử dụng ngôn ngữ một cách có nghệ thuật, tới cách thay đổi các ý tưởng, tới các ước lệ, giọng điệu, âm thanh, hình ảnh, cú pháp, quan điểm về trình thuật, các đơn vị kết cấu v.v…; sự lưu ý này phải theo một kỷ luật, nói cách khác phải dựa vào hàng loạt các phương pháp phê bình, để minh giải các tác phẩm như thi ca của Dante, kịch bản của Shakespeare, các tiểu thuyết của Tolstoy” (The Art of Biblical Narrative, NY, 1981, 12-13). Trái với phương pháp phê bình lịch sử thông thường, ở đây không tra vấn về lịch sử; phương pháp này không có tính dị đại (diachronic, xuyên thời gian) mà có tính đồng đại (sychronic, đồng thời). Đối tượng của nó không phải là việc hình thành ra bản văn với các bình diện khác nhau xuyên qua thời gian, mà là đánh giá bản văn như nó hiện có, trong một thời gian. Đàng khác, phương pháp này tin rằng ý nghĩa được chuyên chở qua bản văn, rằng ý nghĩa này không thể đạt được nếu không chú ý tới mọi đặc điểm của bản văn (âm thanh, từ tượng thanh [onomatopoeia] các khẩu hiệu, nói tắt các chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ dùng để chuyên chở ý nghĩa).
Các vấn nạn lịch sử đặt ra cho bản văn phát sinh ra lịch sử; nhưng cả hai đều phát sinh ra ý nghĩa. Không có lý do gì khiến ta phải đặt điều này chống lại điều kia; thực sự chúng bổ túc cho nhau. Và cả hai đều cần thiết để giải thích một áng văn chương tôn giáo như bộ Ngũ Kinh về phương diện thần học. Phần lớn các sách chú giải quá đặt nặng khía cạnh lịch sử, trước nhất vì khía cạnh này vốn nổi bật nhất và thứ hai, vì kiến thức chuyên môn cung cấp cho người đọc không luôn luôn có sẵn. Vấn đề thưởng lãm Ngũ Kinh về phương diện văn chương luôn luôn có đó; câu truyện về Áp-ra-ham (St 22), về Giuse (St 37-50), Mô-sê (Xh 3), con lừa Balaam (Ds 22) không ngừng làm người đọc say mê, dù họ không nói rõ được lý do. Ở đây, người ta cũng rút tỉa được nhiều cái nhìn sâu sắc từ các nghiên cứu vốn nhấn mạnh đến khía cạnh này, như R. Alter, The Art of Biblical Narrative; M.L. Fishbane, Biblical Narrative in Ancient Israel, NY 1985; G. Rendsburg, The Redaction of Genesis, Winona Lake, 1986…
(b) Phương pháp qui điển (canonical approach). Quan điểm này được B. Childs thúc đẩy (Introduction to the old Testament as Scripture 109-35). Ông đề nghị thế này: việc giải thích một cuốn Sách Thánh phải khởi đi từ hình thức qui điển, tức hình thức sau cùng của bản Kinh thánh Do Thái vào khoảng bắt đầu của Kitô Giáo. Trong trường hợp Ngũ Kinh, vai trò của Mô-sê rõ ràng đã trở thành qui phạm căn cứ vào cách ông được trình bày như một vị trung gian; mọi luật lệ đều được gán cho ông. Ở đây, ta không thể nói đến quyền tác giả theo nghĩa hẹp, nhưng thẩm quyền của Mô-sê có một chức năng thần học mà ta không thể nào bỏ qua khi đánh gía Ngũ Kinh. Childs hiểu Ngũ Kinh như là lời phát biểu ý Thiên Chúa cho dân Giao Ước, và do đó như là yếu tố tạo ra mối liên hệ giao ước. Nó là “tặng phẩm của Thiên Chúa”, một tặng phẩm chứa đựng đủ cả lời hứa lẫn lời đe dọa (Old Testament Theology in a Canonical Context, Phl 1985, 56-57).
Quan điểm có tính toàn diện này đã bỏ qua một bên các vấn đề như nền thần học Giavít (Yahwist theology) để cố gắng tìm hiểu Ngũ Kinh theo cái hiểu của thời hậu lưu đày. Đây không phải là luật theo nghĩa luật học (legalistic), nhưng như một thông truyền ý muốn của Thiên Chúa, trong đó dân tìm được niềm vui của mình, như các Thánh Vịnh 19 và 119 từng chứng tỏ và như những lễ lạt Do Thái sau này chứng minh, Śimhat tôrâ (nghĩa đen: niềm vui của Luật).
Dù phương pháp này được hoan nghinh như một chuyển biến từ việc phân mảnh Ngũ Kinh tới việc đặt được một giả thuyết về nguồn và truyền thống của nó, nhưng không nên coi phương pháp này như một phương thức giải thích trọn vẹn. Khoa phê bình lịch sử vốn khám phá ra khá nhiều căng thẳng, khai triển, và thay đổi đầy năng động bên trong lịch sử Israel, cũng như được phản ảnh trong việc hình thành ra Ngũ Kinh; không nên bỏ qua nhiều tầng ý nghĩa vốn được chôn dấu trong bản văn để chỉ chú ý tới ý nghĩa sau cùng, dù ý nghĩa sau cùng ấy có quan trọng bao nhiêu đi chăng nữa.
(V). Ý nghĩa thần học của Ngũ Kinh
Điều hiển nhiên là Ngũ Kinh chứa đựng các biến cố nền tảng và nền thần học của dân Chúa. Đàng khác, đó không đơn thuần chỉ là nền thần học phát sinh trong thời Mô-sê. Nó là sự cô đọng các quan điểm thần học của thời đầu hết và thời sau này liên quan đến Chúa và Dân của Người. Bất chấp giải pháp nào cho vấn đề nguồn gốc của Ngũ Kinh, việc nhìn nhận các dòng văn hay các truyền thống khác nhau đã góp phần giúp ta hiểu nền thần học của nó một cách linh động. Quan điểm Đệ Nhị Luật về sự hiện diện của Thiên Chúa (nền thần học “Thánh Danh”) không hoàn toàn giống nền thần học của truyền thống tư tế (nền thần học “Vinh Quang”). Không cần phải đặt mâu thuẫn giữa hai nền thần học này; vì chúng bổ túc cho nhau trong cách tiếp cận mầu nhiệm. Sau đây chỉ là môt bản tóm tắt về ý nghĩa thần học tổng quan của Ngũ Kinh (Xem Tư duy Cựu Ước 77: 3-98).
Lịch sử khởi nguyên (St 1-11) đánh dấu một khởi đầu đầy ý nghĩa vì nó đã nhấn mạnh đến việc Israel hiểu chính mình như thế nào trong bối cảnh lịch sử thế giới. Sự tốt lành yếu tính của tạo dựng và việc trình bày đầy kịch tính sự bất tuân của con người là cái phông cho sáng kiến của Thiên Chúa trong việc kêu gọi Áp-ra-ham. Lời hứa ngỏ với vị tổ phụ này (St 12:1-3) đã làm nền cho các trình thuật về tổ phụ nói chung. Các yếu tố khác nhau (hứa có con trai, nhiều con cháu, đất đai… xem 12:7; 15; 16:10; 17; 22:16-18; 24:7; 26:3-5, 24; 28:15; 31:3; 32:10-13) đã trở nên minh nhiên khi nhắc lại các lời hứa với ba “người cha” (xem C. Westermann, The Promises to the Fathers, Phl 1980). Như thế, đủ thấy các lời hứa đã tạo nên đặc điểm chủ yếu cho các trình thuật về tổ phụ. Đồng thời, St đã liên kết với Xh, khi trong St 50:24 (xem Xh 33:1!), ông Giuse đang hấp hối cho con cháu hay Chúa sẽ dẫn con cái Israel ra khỏi Ai Cập mà vào đất Người đã hứa ban cho các tổ phụ. Các lời trong Xh nhắc tới các tổ phụ và “Chúa của cha ông các ngươi” (Xh 3:6, 16) cho thấy có sự liên tục giữa St và Xh.
Việc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập (xem Xh 15:1-18; Đnl 26:5-9) đã tạo ra mối liên hệ căn bản giữa Thiên Chúa và Dân của Người tại Xi-nai. Họ được chọn vì họ được Thiên Chúa yêu thương (Đnl 7:8) để trở thành một dân tộc thánh thiện (Xh 19:8), và đáp ứng của họ được mô tả trong Mười Giới Răn và nhiều bộ luật khác, cũng như toàn bộ các qui định Tư Tế trải dài suốt Xh 25 qua Lv tới Ds 10. Người Kitô hữu, cách riêng, rất có thể đánh giá không đúng mức tầm quan trọng của phần dài dòng này. Dù, ngày nay, một số qui định không còn được coi có tính trói buộc nữa, thì truyền thống P vẫn nằm ở cốt lõi Ngũ Kinh. Mọi sự đều tùy thuộc sự hiện diện của Thiên Chúa giữa Dân của Người, một sự hiện diện đòi người ta phải thánh thiện (được quan niệm và mang ra thi hành trong một số nghi lễ và luật lệ), “vì Ta, Chúa và Thiên Chúa của ngươi, thánh thiện (Lv 19:2). Câu “Ta là Chúa” liên tiếp vang lên trong Lv 19 để kêu gọi Israel lưu tâm tới Đấng Thánh. Trong Lv 26, hình phạt đã được công bố, nhưng giao ước với các tổ phụ thì không thể phá bỏ được (26:42-45).
Truyền thống P tiếp tục diễn ra ở Ds 1-10 với việc sách này nhấn mạnh tới việc phụng tự. Rendtorff (Old Testament, 47) nhận xét rằng luật phụng tự “là một yếu tố trì hoãn, giống như trước đây vậy: nó đem lại mọi qui định mà con cháu Israel cần tới để có thể du hành qua sa mạc mà luôn có đền thánh cùng đi, trong tư cách dân được dành riêng cho YHWH và được làm cho thánh thiện”. Chỉ thị cho Mô-sê tại cánh đồng Mô-áp (Ds 33:50-56) có tính Đệ Nhị Luật rất nổi bật, vì nó dọn đường cho các bài diễn văn của Mô-sê (Đnl 1:1-4: 43; 5:1-28:69; 29:1-30: 20). Đệ Nhị Luật là một tài liệu nói về hồi sinh như việc khám phá ra “Sách Lề Luật” trong Đnl 30:10; 31:26 đã chứng thực. Sự mãnh liệt trong ngôn từ của nó rất xứng với việc nhấn mạnh tới nền thần học tuyển chọn và giao ước bàng bạc cùng khắp sách. Israel phải lắng nghe cõi vĩnh cửu ngay “hôm nay” trong bất cứ giờ phút khủng hoảng nào của nó.
Điều kỳ diệu của Ngũ Kinh là: nó là nhiều điều cùng một lúc, là Sách Luật (Tôra) hay ý muốn của Thiên Chúa đối với Israel; là lời hứa hay một báo trước tương lai của dân Chúa; là việc phụng tự hay cách thờ phượng Đấng Thánh Thiện; là câu truyện con người phản loạn và Thiên Chúa cứu chuộc; là lời kêu gọi lưu tâm tới nguồn gốc của truyền thống Do Thái – Kitô Giáo.
VietCatholic TV
Hoa Kỳ đưa máy bay săn tàu ngầm đến gần Nga; đổ ATCMS và HIMARS vào Estonia đề phòng biến lớn
VietCatholic Media
16:20 01/10/2025
1. Hoa Kỳ đưa máy bay săn tàu ngầm đến gần Nga
Hoa Kỳ được tường trình đã điều động máy bay quân sự có khả năng săn tàu ngầm và do thám tới Na Uy và thực hiện các nhiệm vụ gần lãnh thổ Nga ở Biển Baltic.
Newsweek đã liên hệ với Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao Nga qua email để xin bình luận. Hải quân Hoa Kỳ đã không trả lời ngay lập tức yêu cầu bình luận bằng văn bản.
Sự hiện diện của máy bay tuần tra hàng hải P-8 Poseidon của Hải quân Hoa Kỳ, được thiết kế cho các nhiệm vụ chống tàu ngầm, chống tàu mặt nước và tình báo, tại Bắc Âu diễn ra trong bối cảnh NATO tăng cường thế trận phòng thủ trên khắp khu vực Baltic trong bối cảnh Nga đe dọa các tuyến cáp và đường ống ngầm cũng như hoạt động máy bay điều khiển từ xa đáng ngờ ở Ba Lan, Đan Mạch và Na Uy.
Việc Mỹ liên tục điều động quân sự để hỗ trợ NATO, bao gồm cả các tàu khu trục hoạt động gần khu vực Bắc Cực của Nga vào cuối tháng 8, diễn ra sau sự thay đổi đột ngột của Tổng thống Trump về chiến tranh Nga-Ukraine. Gần đây, Tổng thống Trump tuyên bố Kyiv có thể giành lại toàn bộ lãnh thổ đã mất vào tay Mạc Tư Khoa và đang cân nhắc cung cấp cho Kyiv hỏa tiễn hành trình để tấn công tầm xa.
Osinttechnical, một nhà phân tích tình báo nguồn mở trên nền tảng truyền thông xã hội X, cho biết vào thứ sáu rằng hình ảnh vệ tinh có thể cho thấy có hai đến ba máy bay P-8 trên mặt đất tại nhà ga quân sự của Sân bay Gardermoen ở Oslo vào ngày 23 tháng 9.
Trích dẫn dữ liệu theo dõi chuyến bay, Osinttechnical cho biết Hải quân Hoa Kỳ đã điều một trong những máy bay P-8 có căn cứ tại Oslo đến Biển Baltic ngoài khơi bờ biển Kaliningrad, vùng lãnh thổ tách biệt của Nga - giáp với các đồng minh NATO là Ba Lan ở phía nam và Lithuania ở phía bắc và phía đông - vào thứ Sáu.
Kaliningrad là tiền đồn quân sự lớn của Nga ở Bắc Âu và Biển Baltic, được coi là “hồ của NATO” kể từ khi Phần Lan và Thụy Điển gia nhập liên minh quân sự do Hoa Kỳ đứng đầu sau cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine vào tháng 2 năm 2022.
Phát ngôn nhân của sở chỉ huy tác chiến quân đội Na Uy đã xác nhận với tờ báo địa phương Dagbladet vào thứ Bảy rằng một số máy bay P-8 của Mỹ đã hoạt động từ Sân bay Gardermoen để hỗ trợ “hoạt động của đồng minh” tại các khu vực lân cận của Na Uy.
Những bức ảnh được công bố trước đó cho thấy một chiếc P-8 của Hải quân Hoa Kỳ được điều động tại Căn cứ Không quân Keflavík ở Iceland đã tham gia một nhiệm vụ do NATO dẫn đầu, có mật danh là Baltic Sentry, vào cuối tháng 7. Nhiệm vụ này nhằm mục đích cải thiện khả năng ứng phó của NATO với các hành vi gây bất ổn.
Theo Boeing, máy bay P-8 có khả năng tiếp nhiên liệu trên không, cho phép tuần tra kéo dài trên các vùng biển rộng lớn. Ngoài Hải quân Hoa Kỳ, các quốc gia Âu Châu khác cũng sử dụng loại máy bay này bao gồm Không quân Hoàng gia Na Uy và Không quân Hoàng gia Anh.
[Newsweek: US Puts Submarine Hunters on Russia’s Doorstep]
2. Quân đội Đức điều tra sau vụ pháo hoa bắn vào máy bay của Không quân
Theo tạp chí tin tức Đức Der Spiegel đưa tin về vụ việc vào thứ Ba, tuần trước, một số cá nhân không rõ danh tính đã nổ súng vào một máy bay vận tải C-130 cất cánh từ Căn cứ Không quân Celle của Đức ở Lower Saxony.
Trích dẫn nguồn tin ẩn danh, Der Spiegel viết rằng những cá nhân không rõ danh tính đã bắn pháo hoa vào máy bay ngay sau khi cất cánh vào thứ sáu tuần trước, ngày 26 tháng 9, vào khoảng trưa.
Tạp chí này đưa tin máy bay không bị trúng đạn và phi công đã ngay lập tức báo động cho tháp kiểm soát.
Sau vụ việc, cả Quân đội Đức thường được gọi là Bundeswehr /bân-đờ via/ và cảnh sát địa phương đều đã tiến hành điều tra.
Quân đội Đức lưu ý rằng máy bay quân sự hiếm khi bị bắn, nhưng nhấn mạnh rằng đã có nhiều trường hợp phi công bị mù tạm thời do đèn laser.
Vào tháng 7, Berlin công khai cáo buộc quân đội Trung Quốc chiếu tia laser vào một máy bay Đức đang tham gia nhiệm vụ bảo vệ giao thông hàng hải do Liên Hiệp Âu Châu dẫn đầu ở Biển Đỏ.
Tờ Der Spiegel viết rằng pháo hoa được bắn là pháo hoa mừng năm mới và không loại trừ khả năng máy bay bị tấn công có chủ đích. Nếu nghi phạm bị phát hiện, họ sẽ phải đối mặt với án phạt nghiêm khắc.
Trả lời câu hỏi của tờ Der Spiegel, cảnh sát Celle cho biết họ đã khởi kiện vì hành vi cản trở nguy hiểm đến giao thông hàng không.
Họ nói thêm rằng khu vực xung quanh căn cứ không quân đã được kiểm tra bằng chó nghiệp vụ phát hiện chất nổ nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm thấy bất kỳ thông tin nào có liên quan đến cuộc điều tra.
Kế hoạch xây dựng hệ thống phòng không chung ở phía đông khối sẽ nằm trong chương trình nghị sự của hội nghị thượng đỉnh không chính thức của Liên Hiệp Âu Châu tại Copenhagen vào thứ Tư.
Cảnh sát cũng làm rõ rằng do hướng bay của hỏa tiễn pháo hoa nên không có mối đe dọa cụ thể nào đối với máy bay của Không quân, nhưng cho biết họ vẫn coi trọng những trường hợp như vậy vì “tình hình nhạy cảm”.
Sự việc diễn ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng sau một loạt cuộc xâm nhập bằng máy bay điều khiển từ xa và máy bay chiến đấu của Nga dọc theo sườn phía đông của NATO trong tháng này, nhắm vào Ba Lan và Estonia.
Vào ngày 24 tháng 9, có thông tin cho biết một máy bay phản lực quân sự của Nga đã bay hai lần qua một tàu khu trục của Hải quân Đức trên Biển Baltic, sự việc mà Bộ trưởng Quốc phòng Boris Pistorius mô tả là một hành động khiêu khích và là dấu hiệu cho thấy Nga đang thử thách biên giới của NATO với cường độ ngày càng tăng, theo tờ báo Đức Die Welt.
Một số quan chức đã cảnh báo rằng Nga đang leo thang một “cuộc chiến tranh hỗn hợp” chống lại Âu Châu thông qua những sự việc như vậy và cảnh báo rằng các cuộc tấn công có thể tiếp tục diễn ra trên lãnh thổ NATO.
Tờ Kyiv Post trước đó đưa tin các quan chức tình báo Đức nghi ngờ máy bay điều khiển từ xa giám sát của Nga tập trung tại vùng Thuringia của Đức đang thu thập dữ liệu quan trọng về hoạt động hậu cần vận chuyển vũ khí của Hoa Kỳ và đồng minh.
[Politico: Bundeswehr Investigates After Pyrotechnics Fired at Air Force Aircraft]
3. NATO nhắm đến ‘Bức tường máy bay điều khiển từ xa’ khi Rutte gọi Ukraine là ‘Tuyến phòng thủ đầu tiên’ chống lại các mối đe dọa UAV của Nga
Tổng thư ký NATO Mark Rutte đã mô tả Ukraine là “tuyến phòng thủ đầu tiên” trong bối cảnh máy bay điều khiển từ xa và máy bay chiến đấu của Nga gia tăng xâm nhập vào không phận Ba Lan và Estonia.
Phát biểu tại Diễn đàn An ninh Warsaw, Rutte cho biết NATO phải tăng cường khả năng răn đe và cải thiện hệ thống phòng không sau các sự việc gần đây liên quan đến máy bay điều khiển từ xa ở Ba Lan và MiG-31 ở Estonia.
“Ở Đan Mạch, chúng tôi vẫn đang đánh giá nguyên nhân đằng sau vụ việc. Nhưng khi nói đến Ba Lan và Estonia, rõ ràng là nhắm vào Nga. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn đang đánh giá xem đây có phải là hành động cố ý hay không, nhưng ngay cả khi không cố ý, hành động này vẫn là liều lĩnh và không thể chấp nhận được. Vì vậy, chúng ta cần bảo vệ bầu trời của mình “, ông nói.
Rutte gọi đề xuất “bức tường máy bay điều khiển từ xa” dọc sườn phía đông của NATO là “kịp thời và cần thiết”, lập luận rằng liên minh không thể chi hàng triệu đô la cho hỏa tiễn để tiêu diệt máy bay điều khiển từ xa trong khi chi phí chỉ bằng một phần nhỏ.
“Chúng ta cần bức tường máy bay điều khiển từ xa. Chúng ta đang giúp đỡ người Ukraine vì điều này liên quan đến các giá trị của chúng ta, nhưng cũng liên quan đến tuyến phòng thủ đầu tiên, an toàn tập thể của chúng ta. Vì vậy, điều quan trọng là họ phải kiên trì trong cuộc chiến, vì vậy chúng ta tiếp tục hỗ trợ họ”, ông nói thêm.
Ủy viên Liên Hiệp Âu Châu phụ trách Quốc phòng và Không gian Andrius Kubilius cho biết với Reuters rằng Liên minh Âu Châu đang chuẩn bị các cuộc đàm phán về việc xây dựng “bức tường máy bay điều khiển từ xa” dọc biên giới phía đông sau khi các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa của Nga đến Ba Lan vào đầu tháng này.
Vũ khí sát thương của Nga đã trút xuống khắp Ukraine trong gần bốn năm; giờ đây, khi Mạc Tư Khoa đã xâm nhập vào không phận NATO, đã đến lúc phải hợp tác để làm trong sạch bầu trời Âu Châu.
Kubilius cho biết ông sẽ gặp các bộ trưởng quốc phòng Đông Âu và đại diện của Ukraine vào cuối tháng 9 để thảo luận về kế hoạch này, đồng thời lưu ý rằng một số quốc gia đã xem xét một dự án như vậy.
Kubilius cho biết trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại: “Chúng tôi thực sự muốn tiến hành các biện pháp chuẩn bị rất, rất chuyên sâu và hiệu quả để bắt đầu lấp đầy khoảng trống này, điều này thực sự rất nguy hiểm đối với chúng tôi... càng nhanh càng tốt”.
“Bức tường máy bay điều khiển từ xa” có thể sẽ kết hợp các cảm biến, vũ khí phòng không và hệ thống gây nhiễu. Chi phí và thời gian thực hiện vẫn chưa rõ ràng, nhưng các nhà phân tích cho rằng nó có thể được xây dựng trong vòng một năm.
Kubilius, người vừa đến thăm Kyiv, cho biết Ukraine sẵn sàng chia sẻ bí quyết chiến trường của mình: “Họ rất muốn chia sẻ kinh nghiệm của mình.”
Động thái này diễn ra sau khi 19 máy bay điều khiển từ xa của Nga xâm phạm không phận Ba Lan vào ngày 10 tháng 9, khiến các phi trường ở Rzeszów, Lublin, Warsaw và Modlin phải đóng cửa. Các máy bay phản lực của NATO, bao gồm máy bay F-16 của Ba Lan, máy bay F-35 của Hòa Lan và máy bay AWACS của Ý, đã được điều động để ứng phó.
Latvia, Lithuania và Rumani cũng đã báo cáo về các cuộc xâm nhập bằng máy bay điều khiển từ xa của Nga. Kể từ đó, NATO đã điều động thêm quân và máy bay chiến đấu về phía đông theo sứ mệnh Eastern Sentry.
Đan Mạch cam kết hai máy bay F-16 và một tàu chiến, Pháp ba máy bay Rafale, Đức bốn máy bay Eurofighter và Anh, Không quân Hoàng gia Anh, gọi tắt là RAF cùng máy bay hỗ trợ. Trong khi đó, Đan Mạch đang điều tra những vụ phát hiện máy bay điều khiển từ xa bí ẩn khiến các phi trường phải đóng cửa kể từ ngày 22 tháng 9, với nghi ngờ đổ dồn vào Nga, mặc dù Mạc Tư Khoa phủ nhận sự liên quan.
[Kyiv Post: NATO Eyes ‘Drone Wall’ as Rutte Calls Ukraine ‘First Line of Defense’ Against Russian UAV Threats]
4. Kellogg cho biết Hoa Kỳ đang liên lạc với Belarus để ‘bảo đảm đường dây liên lạc’ với Putin
Hoa Kỳ đang hợp tác với Belarus như một phần trong nỗ lực duy trì các kênh liên lạc mở với Putin, Đặc phái viên Hoa Kỳ tại Ukraine Keith Kellogg cho biết vào ngày 30 tháng 9 tại Diễn đàn An ninh Warsaw.
Vào ngày 11 tháng 9, Washington tuyên bố hãng hàng không quốc gia Belarus Belavia sẽ được tiếp cận lại các phụ tùng do Hoa Kỳ sản xuất sau khi nhà độc tài Belarus Alexander Lukashenko trả tự do cho 52 tù nhân chính trị, bao gồm cả người nước ngoài.
“Chúng tôi không rõ Lukashenko nói gì, nhưng chúng tôi biết ông ấy đã nói chuyện với Putin”, Kellogg nói. “Những gì chúng tôi đã làm là thiết lập mối quan hệ để bảo đảm các kênh liên lạc được thông suốt, nhờ đó chúng tôi có thể bảo đảm tất cả thông điệp của mình đều được chuyển đến Putin.”
Kellogg giải thích rằng đây là một trong những lý do tại sao Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh trừng phạt đối với Belavia.
Đặc phái viên cũng nhấn mạnh rằng mục đích chính của hoạt động này không phải là trả tự do cho các tù nhân chính trị, mà là “tìm ra giải pháp tốt nhất có thể cho cuộc chiến giữa Ukraine và Nga”.
Kellogg lưu ý rằng Hoa Kỳ vẫn rất thực tế về chế độ của Lukashenko, đồng thời nói thêm rằng “nếu ông ta thả một tù nhân, có thể ông ta sẽ bắt thêm hai người nữa”.
Trong khi Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh trừng phạt đối với Belavia để giúp nước này sửa chữa máy bay, Washington đã nói rõ rằng những chiếc máy bay này không thể được sử dụng cho mục đích tội phạm hoặc để vận chuyển người di cư đến Âu Châu, đặc phái viên nói thêm.
Lukashenko, người đã lãnh đạo Belarus từ năm 1994, được nhiều người coi là đồng minh thân cận của Putin. Ông đã cho phép lực lượng Nga sử dụng lãnh thổ Belarus để tấn công Ukraine vào đầu cuộc xâm lược toàn diện của Mạc Tư Khoa vào năm 2022.
[Kyiv Independent: US in contact with Belarus to 'ensure lines of communication' with Putin, Kellogg says]
5. Tổng thống Zelenskiy cảnh báo về tình hình ‘nguy cấp’ tại nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia sau một tuần ngừng hoạt động
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy cho biết vào ngày 30 tháng 9 rằng Nhà máy điện hạt nhân Zaporizhzhia bị Nga tạm chiếm đã bị cắt khỏi lưới điện trong bảy ngày liên tiếp, đây là thời gian mất điện dài nhất kể từ khi bắt đầu cuộc chiến toàn diện.
“ Hôm nay là ngày thứ bảy – nhân tiện, đây là điều chưa từng xảy ra trước đây – của tình trạng khẩn cấp tại Nhà máy Điện hạt nhân Zaporizhzhia. Tình hình rất nghiêm trọng”, Tổng thống Zelenskiy phát biểu trong bài phát biểu buổi tối.
Tổng thống cảnh báo rằng nhà máy điện hạt nhân lớn nhất Âu Châu này đang chỉ dựa vào máy phát điện diesel để duy trì hoạt động của hệ thống an toàn sau khi các cuộc không kích của Nga làm đứt đường dây điện bên ngoài. Tọa lạc tại thành phố Enerhodar bị Nga tạm chiếm trên sông Dnipro, nhà máy nằm gần tiền tuyến.
“Các máy phát điện và nhà máy không được thiết kế cho việc này, và chưa bao giờ hoạt động ở chế độ này lâu như vậy. Và chúng tôi đã có thông tin rằng một máy phát điện đã bị hỏng”, ông nói.
Tổng thống Zelenskiy cáo buộc Mạc Tư Khoa cản trở việc sửa chữa đường dây điện bằng cách tiếp tục pháo kích, nói thêm: “Và đây là mối đe dọa đối với tất cả mọi người. Chưa từng có kẻ khủng bố nào trên thế giới dám làm với một nhà máy điện hạt nhân như Nga đang làm hiện nay.” Ông cho biết đã ra lệnh cho chính phủ và các nhà ngoại giao Ukraine thu hút sự chú ý của quốc tế vào cuộc khủng hoảng.
Nga, nước đã chiếm giữ nhà máy vào năm 2022, tuần trước tuyên bố rằng họ đã cung cấp điện dự phòng kể từ vụ tấn công mà họ đổ lỗi cho Ukraine. Sáu lò phản ứng đã ngừng hoạt động kể từ khi Mạc Tư Khoa xâm lược, nhưng cơ sở này vẫn cần điện để duy trì hệ thống làm mát và ngăn ngừa sự việc hạt nhân.
Nhà máy Zaporizhzhia đã liên tục phải đối mặt với những lo ngại về an toàn kể từ khi Nga xâm lược, bao gồm mất điện, pháo kích ở khu vực lân cận và thiếu nhân viên.
[Kyiv Independent: Zelensky warns of 'critical' situation at Zaporizhzhia nuclear plant after weeklong outage]
6. Lá chắn Baltic: Estonia bảo đảm khả năng tấn công tầm xa quy mô lớn của Hoa Kỳ sau vụ xâm phạm không phận của Nga
Chính quyền Tổng thống Trump đã thông báo cho lãnh đạo Quốc hội về việc mở rộng hợp đồng bán vũ khí quan trọng trị giá hàng tỷ đô la cho Estonia, làm gia tăng đáng kể hỏa lực tầm xa dành cho sườn phía đông của NATO, Kyiv Post đã biết được từ các nguồn tin ngoại giao.
Thỏa thuận nâng cao này, hiện có giá trị lên tới 4,73 tỷ đô la, tập trung vào việc cung cấp hàng trăm hỏa tiễn chính xác cho Hệ thống hỏa tiễn pháo binh cơ động cao M142, gọi tắt là HIMARS, một loại vũ khí đã được chứng minh là có vai trò quan trọng trong việc phòng thủ của Ukraine.
Thông báo này, được chính thức đệ trình lên Quốc hội vào cuối tuần trước theo Đạo luật Kiểm soát Xuất khẩu Vũ khí, thể hiện khoản đầu tư chưa từng có vào năng lực phòng thủ của quốc gia vùng Baltic và nhấn mạnh rõ ràng cam kết của Washington trong việc ngăn chặn hành vi xâm lược trong khu vực, một cam kết càng trở nên quan trọng hơn sau các sự kiện gần đây.
Diễn biến mới này nâng cấp đáng kể mức bán ban đầu trị giá 500 triệu đô la được phê duyệt vào năm 2022.
Sự thay đổi quan trọng nhất nằm ở khối lượng lớn đạn dược tiên tiến được cung cấp, trong đó số lượng bệ phóng HIMARS sẽ tăng gấp đôi từ 6 lên 12, cùng với sự gia tăng đáng kể về số lượng hỏa tiễn.
Trọng tâm của bản nâng cấp là Hệ thống hỏa tiễn chiến thuật quân đội M57, gọi tắt là ATACMS, với số lượng đã tăng từ 18 ống phóng ban đầu lên tổng cộng 200 ống phóng loại hỏa tiễn tầm xa 300km.
Phát biểu với các tướng lĩnh được triệu tập từ các căn cứ trên toàn thế giới, ông cho biết bộ này sẽ loại bỏ các chương trình tập trung vào bản sắc, các văn phòng đa dạng và các sáng kiến khác mà ông gọi là gây chia rẽ hoặc mất tập trung.
Hơn nữa, việc mua sắm các đầu đạn của Hệ thống hỏa tiễn phóng hàng loạt có điều khiển, gọi tắt là GMLRS - loại hỏa tiễn dẫn đường chính xác đã được chứng minh trên chiến trường - đã tăng vọt từ 144 lên tổng cộng 1.000 đầu đạn, bao gồm nhiều biến thể khác nhau, trong đó có các mẫu Tầm bắn mở rộng, gọi tắt là ER mới.
Tổng giá trị vụ việc đã được điều chỉnh là 4,73 tỷ đô la cho thấy cam kết mạnh mẽ và lâu dài của Estonia trong việc củng cố biên giới của mình.
Quy mô và thời điểm của gói Bán vũ khí quân sự nước ngoài, gọi tắt là FMS khổng lồ này có ý nghĩa rất quan trọng, xuất hiện trong bối cảnh Nga leo thang gây hấn và các báo cáo gần đây về việc chuyển hướng chính sách hỗ trợ an ninh của Hoa Kỳ sang các nước Baltic.
Việc phê duyệt các khả năng tấn công sâu như hỏa tiễn ATACMS diễn ra ngay sau giai đoạn căng thẳng tột độ dọc biên giới NATO-Nga, bao gồm cả vụ vi phạm không phận Estonia “vô liêm sỉ chưa từng có” của Nga bằng ba máy bay chiến đấu MiG-31 có vũ trang vào ngày 19 tháng 9.
Cuộc xâm lược này đã khiến Estonia phải viện dẫn Điều 4 của hiệp ước NATO, kêu gọi tham khảo ý kiến giữa các đồng minh về vấn đề an ninh của nước này.
Sự gia tăng của HIMARS và ATACMS tầm xa mang lại cho Estonia khả năng tấn công sâu đáng tin cậy để giữ cơ sở hạ tầng quân sự, trung tâm hậu cần và khu vực tập kết của Nga ở phía sau tiền tuyến, đóng vai trò là tín hiệu răn đe trực tiếp và hữu hình chống lại mô hình leo thang các cuộc xâm nhập và chiến thuật chiến tranh hỗn hợp của Nga.
[Kyiv Post: Baltic Shield: Estonia Secures Massive US Long-Range Strike Capability in Wake of Russian Air Breaches]
7. Âu Châu điều động quân đội chống máy bay điều khiển từ xa tới Copenhagen trước thềm hội nghị thượng đỉnh Liên Hiệp Âu Châu
Quân đội Pháp, Đức và Thụy Điển sẽ giúp củng cố Copenhagen chống lại các mối đe dọa trên không khi các nhà lãnh đạo Âu Châu hội tụ tại thành phố này để tham dự hai hội nghị thượng đỉnh quan trọng trong tuần này.
Thủ tướng Thụy Điển Ulf Kristersson hôm thứ Hai tuyên bố chính phủ của ông đã điều động “Quân đội Thụy Điển để hỗ trợ Đan Mạch về năng lực chống máy bay điều khiển từ xa của quân đội liên quan đến hội nghị thượng đỉnh tuần này tại Copenhagen”, bao gồm một đơn vị chuyên trách sẽ được điều động cùng quân đội Đan Mạch.
Ông nói thêm rằng Stockholm cũng sẽ “cho Đan Mạch mượn một số hệ thống radar mạnh trong một khoảng thời gian”.
Tuần trước, Đan Mạch đã rúng động trước làn sóng máy bay điều khiển từ xa xuất hiện tại các phi trường lớn và căn cứ không quân, gây gián đoạn giao thông hàng không và khiến hàng ngàn hành khách bị mắc kẹt. Thủ tướng Mette Frederiksen cho biết các vụ xâm phạm không phận này tương đương với “chiến tranh hỗn hợp” và ám chỉ Nga phải chịu trách nhiệm.
Các sự việc xảy ra trước cuộc họp của Hội đồng Âu Châu tại Copenhagen vào thứ Tư để thảo luận về quốc phòng và Ukraine, đã khiến chính quyền Đan Mạch phải thực hiện bước đi quyết liệt là đóng cửa không phận của nước này đối với máy bay điều khiển từ xa dân sự.
Hôm thứ Hai, Pháp cho biết họ cũng đã cử quân đội tới để củng cố hệ thống phòng thủ của Copenhagen.
Bộ Quốc phòng Pháp cho biết trong một tuyên bố rằng Paris đã điều động “35 nhân viên, một trực thăng FENNEC và các phương tiện chống máy bay điều khiển từ xa đang hoạt động” tới Đan Mạch “nhằm ứng phó với sự gia tăng gần đây các chuyến bay điều khiển từ xa không xác định trên không phận Đan Mạch”, đồng thời nói thêm rằng các máy bay điều khiển từ xa này là “mối đe dọa nghiêm trọng”.
Ngoài ra, một khinh hạm Đức — FSG Hamburg — đã đến Copenhagen vào cuối tuần để hỗ trợ giám sát không phận. Một quan chức chính phủ cao cấp của Đức cho biết hôm thứ Hai rằng “khoảng 40 binh sĩ” cũng sẽ được điều động đến Copenhagen để “hỗ trợ phát hiện, nhận dạng và phòng thủ chống lại máy bay điều khiển từ xa”.
Cùng với hội nghị thượng đỉnh vào thứ Tư, Copenhagen sẽ tổ chức Cộng đồng Chính trị Âu Châu vào thứ Năm, quy tụ các nhà lãnh đạo từ khắp lục địa.
[Politico: Europe deploys anti-drone troops to Copenhagen ahead of EU summits]
8. Hegseth sử dụng cuộc họp hiếm hoi của các tướng lĩnh để công bố các tiêu chuẩn quân sự mới
Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth đã vạch ra kế hoạch cải tổ các tiêu chuẩn quân sự và quy định về giới tính trong một cuộc họp bất thường với các quan chức cao cấp vào thứ Ba, một nỗ lực có thể làm giảm vai trò của phụ nữ trong chiến đấu khi ông tìm cách củng cố hình ảnh sức mạnh của Hoa Kỳ.
Tưởng cũng nên biết thêm: Mikhail Khodorkovsky, từng là người giàu nhất nước Nga trước khi lên tiếng chống lại Vladimir Putin và thành lập nhóm Open Russia, nghĩa là nước Nga cởi mở, với chủ trương thân phương Tây. Ông bị tịch thu tài sản và bị bỏ tù từ năm 2003 cho đến khi được Putin ân xá vào này 20 Tháng Mười Hai, 2013, sau một thập niên tù tội. Ông hiện đang sống lưu vong ở Luân Đôn và thành lập Trung tâm Dossier nhằm điều tra các nguồn tài sản của Putin, không do Putin trực tiếp đứng tên nhưng do các tình nhân của ông ta đứng tên.
“Các ông không chính xác về mặt chính trị và không nhất thiết lúc nào cũng thuộc về một xã hội lịch sự”, ông nói với hàng trăm nhà lãnh đạo quân sự cao cấp, những người được lệnh tập trung tại căn cứ Quantico ở Virginia vào tuần trước.
Hegseth đã biến việc tách biệt quân đội với xã hội dân sự thành một dấu ấn trong nhiệm kỳ Bộ trưởng Quốc phòng của mình. Và mặc dù phần lớn vẫn đi trên những con đường quen thuộc hôm thứ Ba, nhà lãnh đạo Ngũ Giác Đài đã công bố các sắc lệnh mới nhằm hệ thống hóa “tiêu chuẩn cao nhất dành cho nam giới” trong huấn luyện, đặt ra các quy tắc cụ thể về đào tạo và tiếp tục loại bỏ các chương trình đào tạo dựa trên giới tính hoặc chủng tộc.
Ông cho biết: “Tôi không muốn con trai tôi phục vụ cùng những người lính không có thể lực tốt hoặc trong các đơn vị chiến đấu với những người phụ nữ không đáp ứng được các tiêu chuẩn thể chất trong vũ khí chiến đấu như nam giới”.
Bài phát biểu của Hegseth, trông giống như một bài diễn thuyết trên TED và diễn ra vài giờ trước khi chính phủ có nguy cơ đóng cửa, kêu gọi khôi phục lại tầm nhìn quân sự cổ điển — một tầm nhìn có thể giành chiến thắng nhanh chóng, quyết định bằng vũ lực áp đảo. Bài phát biểu này đánh dấu sự khác biệt rõ ràng so với các bài phát biểu chính sách của các lãnh đạo Ngũ Giác Đài trước đây, chẳng hạn như Jim Mattis và Lloyd Austin, những người đã chỉ ra Nga và Trung Quốc là những mối đe dọa rõ ràng đối với Hoa Kỳ.
Có lúc, Hegseth đã so sánh mình với Bộ trưởng Chiến tranh thời Thế chiến thứ II Henry Stimson và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Tướng Dan Caine với Tướng huyền thoại George Marshall.
Bộ trưởng cũng lên án “những vị tướng và đô đốc béo phì” đi lại trong hành lang Ngũ Giác Đài và chỉ trích các mục tiêu của thời Tổng thống Biden nhằm thúc đẩy sự đa dạng trong hàng ngũ là hành động của “Bộ Thức Tỉnh”.
Hegseth dường như đã mượn ý tưởng từ văn hóa meme trên internet khi lưu ý rằng các đối thủ người Mỹ đe dọa đất nước có thể “FAFO”, một từ viết tắt có nghĩa là “fuck around and find out” (lười biếng và tìm hiểu).
Ông nói: “Nếu cần, quân đội của chúng tôi có thể phiên dịch cho các bạn”.
Ông cho biết các quy định mới sẽ đặt ra “tiêu chuẩn cao nhất dành cho nam giới” về thể lực trong các vai trò chiến đấu, “không phân biệt giới tính”. Tuy nhiên, ông thừa nhận phụ nữ có thể không đạt được tiêu chuẩn này.
“Nếu điều đó có nghĩa là không có phụ nữ nào đủ điều kiện cho một số nhiệm vụ chiến đấu, thì cứ để vậy đi,” Hegseth nói với các tướng lĩnh tập trung tại đó. “Đó không phải là mục đích, nhưng có thể là kết quả.”
Ông nói với các sĩ quan rằng ngay cả tướng lĩnh và đô đốc cũng sẽ phải vượt qua hai bài kiểm tra thể lực hàng năm. Ông cũng ám chỉ rằng Ngũ Giác Đài sẽ xem xét lại các cuộc điều tra của tổng thanh tra, ngay khi cơ quan giám sát của Bộ Quốc phòng dự kiến công bố báo cáo về việc Hegseth chia sẻ thông tin nhạy cảm về các cuộc tấn công quân sự trong một cuộc trò chuyện nhóm trên Signal.
Có lẽ đáng ngại nhất là Bộ trưởng Quốc phòng đã cảnh báo về các vụ sa thải sắp tới - một năm sau khi ông sa thải Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, Tướng CQ Brown, Chỉ huy trưởng Tác chiến Hải quân, Đô đốc Lisa Franchetti và một số sĩ quan quân đội cao cấp khác.
“Sẽ có thêm nhiều thay đổi về mặt lãnh đạo,” ông nói. “Tôi chắc chắn về điều đó.”
[Politico: Hegseth uses rare meeting of generals to announce new military standards]
9. Tổng thống Trump khoe khoang về việc điều động tàu ngầm nhưng giờ đây ông tập trung vào đối phương bên trong
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã có bài phát biểu dài 72 phút về nhiều vấn đề trước các quan chức quân sự cao cấp của đất nước vào thứ Ba, khoe khoang về những động thái chính sách đối ngoại cứng rắn của mình - bao gồm cả lời cảnh báo hạt nhân đối với Nga - đồng thời yêu cầu giải Nobel Hòa bình và tuyên bố tập trung rõ ràng vào “cuộc chiến từ bên trong” chống lại tình trạng bất ổn trong nước.
Cuộc họp bất thường tại Căn cứ Thủy quân Lục chiến Quantico đã củng cố sự thay đổi triệt để của chính quyền về các ưu tiên quân sự.
Tổng thống Trump đã sử dụng một phần đáng kể bài phát biểu của mình để nêu ra triết lý “hòa bình thông qua sức mạnh”, nhấn mạnh đường lối đối đầu với các đối thủ nước ngoài và đặc biệt nêu ra sự leo thang gần đây liên quan đến Nga.
Trong một tiết lộ gây sốc, ông đã công khai khoe khoang về một động thái quân sự cực kỳ nhạy cảm: đó là việc chính quyền của ông điều động một tàu ngầm hạt nhân ngoài khơi bờ biển Nga vào tháng 8.
Tổng thống Trump khẳng định rằng hành động này nhằm mục đích cảnh báo trực tiếp và rõ ràng tới Nga sau khi cựu Tổng thống “ngu ngốc” Dmitry Medvedev đưa ra những lời đe dọa hạt nhân rõ ràng.
Bằng cách tiết lộ chi tiết về đợt điều động này, Tổng thống Trump đã lợi dụng cuộc họp của các tướng lĩnh để nhấn mạnh sự sẵn sàng sử dụng những thành phần mạnh nhất của sức mạnh quân sự Hoa Kỳ để ngăn chặn các đối thủ lớn trên toàn cầu.
Nói về việc điều động tàu ngầm, Tổng thống Trump đã nhận xét một cách trơ tráo: “Có hai từ bắt đầu bằng chữ N và bạn không thể sử dụng bất kỳ từ nào trong số chúng.” Ý nghĩa ngụ ý là việc điều động mạnh mẽ năng lực hạt nhân để ngăn chặn một đối thủ toàn cầu lớn.
Phát biểu với các tướng lĩnh được triệu tập từ các căn cứ trên toàn thế giới, ông cho biết bộ này sẽ loại bỏ các chương trình tập trung vào bản sắc, các văn phòng đa dạng và các sáng kiến khác mà ông gọi là gây chia rẽ hoặc mất tập trung.
Thái độ hung hăng này trái ngược với lập trường cứng rắn của ông với các đối thủ khác. Tổng thống Trump cũng khoe khoang về các cuộc không kích gần đây nhằm vào bốn tàu buôn ma túy bị cáo buộc của Venezuela, gắn hành động quân sự này với lập trường cứng rắn của ông về vấn đề buôn bán ma túy.
“Nếu các người cố đầu độc người dân của chúng tôi, chúng tôi sẽ cho các người tan biến”, Tổng thống Trump cảnh báo sau khi đánh chìm tàu Venezuela. “Đó là ngôn ngữ duy nhất mà chúng thực sự hiểu. Đó là lý do tại sao bạn không còn thấy bất kỳ con tàu nào trên đại dương nữa”, ông nói thêm.
Trong một màn thể hiện nổi bật về sự pha trộn chính sách với bất bình cá nhân, Tổng thống Hoa Kỳ đã sử dụng sân khấu toàn cầu để yêu cầu Giải Nobel Hòa bình, trích dẫn hành động của ông nhằm giải quyết bảy cuộc xung đột quốc tế, bao gồm cả kế hoạch hòa bình 20 điểm gần đây cho Dải Gaza.
Sự chuyển dịch của chính quyền Hoa Kỳ hiện tại từ quốc phòng toàn cầu truyền thống sang an ninh nội địa đã được Tổng thống Trump thông qua, vài tuần sau khi ông đổi tên Bộ Quốc phòng thành Bộ Chiến tranh.”
Trong những tháng tới, chúng tôi sẽ đưa ra những thông báo mang tính lịch sử hơn nữa để hoàn toàn thừa nhận bản sắc của Bộ Chiến tranh. Tôi rất thích cái tên này. Tôi nghĩ nó thật tuyệt. Tôi nghĩ nó sẽ chấm dứt chiến tranh,” ông nói với các tướng lĩnh và đô đốc.
Sau đó, Tổng thống Trump chuyển hướng sang thảo luận về “đối phương từ bên trong”, lập luận rằng nhiều người tiền nhiệm của ông đã sử dụng quân đội trong nước. Ông trích dẫn việc điều động lực lượng Vệ binh Quốc gia gần đây để dập tắt bạo loạn ở Los Angeles và Washington, D.C.
“Tháng trước, tôi đã ký một sắc lệnh hành pháp nhằm đào tạo lực lượng phản ứng nhanh có thể giúp dập tắt các cuộc bạo loạn dân sự. Và đây sẽ là một vấn đề lớn đối với những người có mặt tại đây, bởi vì đó là đối phương từ bên trong, và chúng ta phải giải quyết nó trước khi nó vượt khỏi tầm kiểm soát”, Tổng thống Trump nói.
Ông còn gọi những kẻ gây bạo loạn là “những kẻ nổi loạn” và ám chỉ rằng họ “được trả tiền bởi George Soros hoặc những người khác, nhưng họ được trả tiền bởi phe cánh tả cấp tiến”.
[Politico: Trump Boasts of Submarine Deployment but His Focus Now on Enemy Within]
Hi hữu: Thông điệp TT Trump gởi người Công Giáo Lễ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae. Chuyện dài HY Cupich
VietCatholic Media
16:26 01/10/2025
1. Thông điệp của Tổng thống Trump nhân dịp Lễ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae
Trong một cử chỉ có phần bất ngờ đối với nhiều người, Tổng thống Donald Trump đã đưa ra một thông điệp nhân ngày lễ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae. Thông thường các Tổng thống Hoa Kỳ chỉ gởi thông điệp cho các Kitô Hữu vào dịp Lễ Giáng Sinh và Lễ Phục sinh. Lễ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae là một ngày lễ chỉ được cử hành trong Giáo Hội Công Giáo.
Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Lan Vy
Tòa Bạch Ốc
Ngày 29 tháng 9 năm 2025
Hôm nay, tôi xin gửi lời chào tới hàng triệu tín hữu Kitô ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới đang kỷ niệm Lễ Thánh Micae Tổng lãnh thiên thần.
Theo Kinh Thánh, khi Ác quỷ nổi loạn chống lại Chúa trên Thiên Đàng, Thánh Micae và đạo binh thiên thần của ngài đã đánh đuổi Satan xuống Trái Đất - một lần nữa khẳng định quyền tối cao của Chúa trên toàn thể tạo vật. Trong 2.000 năm qua, các Kitô hữu đã trông cậy vào Tổng Lãnh Thiên Thần Micae để được bảo vệ, ban sức mạnh và lòng can đảm trong những lúc xung đột, đau khổ và nghi ngờ.
Vào năm 1886, gần 140 năm trước, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, người lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Rôma, lo sợ cho tương lai của thế giới phương Tây, đã giới thiệu Lời cầu nguyện mầu nhiệm dâng lên Thánh Micae, vẫn được đọc cho đến ngày nay trong các nhà thờ và gia đình trên khắp đất nước chúng ta và trên toàn thế giới:
Thánh Micae Tổng Lãnh Thiên Thần, xin bảo vệ chúng con trong trận chiến. Xin Ngài bảo vệ chúng con khỏi sự gian ác và cạm bẫy của Ma Quỷ. Chúng con khiêm nhường cầu xin Thiên Chúa khiển trách nó, và lạy Thủ Lãnh các đạo binh trên trời, xin Ngài dùng quyền năng của Thiên Chúa mà đuổi Satan và tất cả các tà thần xuống hỏa ngục, những kẻ đang lảng vảng khắp thế gian tìm cách hủy hoại các linh hồn. Amen
Source:White House
2. Đức Giáo Hoàng Lêô XIV cho biết những lời lẽ về chiến tranh của Hegseth là 'đáng lo ngại'
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV hôm thứ Ba cho biết cách nói về chiến tranh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ là “đáng lo ngại”.
Phát biểu trước các quan chức quân sự được triệu tập đến Virginia vào ngày 30 tháng 9, Bộ trưởng Quốc phòng, đúng ra là Bộ Trưởng Bộ Chiến Tranh, Pete Hegseth đã kêu gọi các sĩ quan cao cấp lãnh đạo với mục tiêu tăng cường “sức sát thương”. Tháng này, Tổng thống Trump đã ký một sắc lệnh hành pháp đổi tên bộ này thành Bộ Chiến tranh, mặc dù Quốc hội chưa chính thức đổi tên.
Khi được hỏi về cuộc họp của Bộ trưởng với các tướng lĩnh và những bình luận về khả năng sẵn sàng chiến tranh, Đức Giáo Hoàng Lêô nói: “Cách nói này thật đáng lo ngại, bởi vì nó cho thấy sự gia tăng căng thẳng mỗi lần được thốt lên — việc sử dụng từ ngữ, thậm chí còn đáng lo ngại hơn khi chuyển từ ‘Bộ trưởng Quốc phòng’ sang ‘Bộ trưởng Chiến tranh’. Hy vọng đó chỉ là một cách nói. Chắc chắn, họ có một phong cách chính phủ muốn thể hiện sức mạnh, gây áp lực, và chúng tôi hy vọng điều đó sẽ hiệu quả, nhưng sẽ không có chiến tranh. Người ta phải luôn nỗ lực vì hòa bình.”
Đức Giáo Hoàng Lêô sinh ra ở Chicago đã phát biểu với các phóng viên khi ngài rời khỏi biệt thự giáo hoàng Castel Gandolfo gần Rôma, nơi mà trong những tuần gần đây ngài đã có thói quen dành thời gian vào thứ Ba trước khi trở về Vatican.
Bình luận của Đức Giáo Hoàng được dịch từ tiếng Ý.
Bộ Quốc phòng không trả lời ngay lập tức yêu cầu bình luận.
Source:Catholic News Agency
3. Làm suy yếu chứng tá công khai của Giáo hội – Chuyện dài Hồng Y Cupich
Dân biểu Daniel Lipinski từng phục vụ tại Hạ viện Hoa Kỳ từ năm 2005 đến năm 2021 và là một nhà khoa học chính trị. Ông hiện là Nghiên cứu viên về Tư tưởng Xã hội của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII tại Đại học Dallas. Trên tờ First Things, ông vừa có bài viết nhan đề “Undermining the Church’s Public Witness”, nghĩa là “Làm suy yếu chứng tá công khai của Giáo hội”. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Đức Cha Thomas J. Paprocki gần đây đã viết trên các trang này rằng kế hoạch trao giải thưởng thành tựu trọn đời cho Thượng nghị sĩ Dick Durbin của Tổng giáo phận Chicago là một “sai lầm nghiêm trọng” vì thượng nghị sĩ “đã cống hiến hết mình để tạo ra, bảo vệ và mở rộng quyền hợp pháp về phá thai—tức là quyền hợp pháp để giết một con người vô tội trong cung lòng người mẹ”.
Tổng giám mục Chicago, Hồng Y Blase Cupich, đã bảo vệ giải thưởng này, nói rằng nó được trao để “ghi nhận tất cả những đóng góp cực kỳ quan trọng của Thượng nghị sĩ Durbin trong việc thúc đẩy giáo lý xã hội Công Giáo trong các lĩnh vực nhập cư, chăm sóc người nghèo, Laudato Si' và hòa bình thế giới”.
Điều còn thiếu trong cuộc thảo luận về tính phù hợp của giải thưởng này chính là góc nhìn của một người Công Giáo đã từng phục vụ trong chính quyền. Tôi đã dành mười sáu năm tại Hạ viện Hoa Kỳ với tư cách là một đảng viên Dân chủ ủng hộ sự sống. Dưới góc nhìn này, tôi muốn chia sẻ quan điểm độc đáo của mình về hậu quả của việc trao tặng giải thưởng này, nó có thể làm suy yếu chứng tá của Giáo hội trong công chúng như thế nào.
Giáo hội ít ảnh hưởng hơn nhiều đến người Công Giáo trong đời sống công cộng so với trước đây. Điều này được chứng minh qua Đảng Dân chủ về vấn đề phá thai. Sau vụ án Roe, đảng này luôn ủng hộ quyền lựa chọn phá thai, nhưng sự hiện diện của những người Công Giáo Dân chủ cam kết với giáo lý của Giáo hội đồng nghĩa với việc vẫn còn một phe ủng hộ sự sống. Mặc dù số lượng người tự nhận mình là Công Giáo không hề giảm, nhưng phe này dần dần suy yếu trong Quốc hội đến mức gần như không còn tồn tại.
Có hai lý do tại sao một chính trị gia Công Giáo nên tuân thủ giáo lý của Giáo hội. Thứ nhất, người ấy có thể tin rằng vì lợi ích của linh hồn mình, đương sự phải tuân theo, bất kể phải trả giá bằng tính mạng. Thứ hai, người ấy có thể hiểu rằng các cử tri Công Giáo của mình sẽ trừng phạt đương sự nếu không làm theo các giáo huấn của Giáo Hội.
Sự suy giảm ảnh hưởng của Giáo hội cho thấy mối quan tâm của các chính trị gia về hậu quả vĩnh cửu và tạm thời từ hành động của họ đã suy yếu đáng kể. Điều này xuất phát từ việc ngày nay ít người Công Giáo hiểu và tôn trọng giáo huấn của Giáo hội cũng như cách thức áp dụng giáo huấn đó vào thực tiễn công cộng.
Điều này thể hiện rõ nhất trong vấn đề phá thai. Một phần lỗi thuộc về các chính trị gia Công Giáo, những người đã gieo rắc sự nhầm lẫn về vấn đề này. Năm 1984, Thống đốc New York lúc bấy giờ là Mario Cuomo đã khéo léo biện hộ cho việc từ chối ủng hộ các hạn chế phá thai bằng cách tuyên bố rằng làm như vậy sẽ khiến “giá trị tôn giáo của tôi trở thành đạo đức của bạn” và “quy tắc ứng xử của tôi trở thành giới hạn của bạn”.
Gần đây, Thượng nghị sĩ Durbin đã bày tỏ thái độ tương tự khi nói rằng, “Cảm xúc cá nhân của tôi về vấn đề phá thai là một chuyện.... Khi nói đến chính sách công, cơ hội để đưa ra quyết định đó phải luôn tồn tại.”
Cả hai người đàn ông này đều bắt đầu sự nghiệp chính trị bằng việc ủng hộ các chính sách ủng hộ sự sống. Tuy nhiên, với tư cách là đảng viên Dân chủ, việc ủng hộ sự sống đã làm tổn hại đến tham vọng chính trị của họ nếu muốn thăng tiến trong đảng. Họ cần một lối thoát.
Cả hai đều không muốn trực tiếp tuyên bố Giáo hội sai về vấn đề phá thai. Thay vào đó, họ lại dùng luận điệu để đưa ra một tuyên bố sai lệch về giáo lý của Giáo hội—rằng việc hiểu phá thai tự “bản chất là xấu xa” chỉ là một niềm tin dựa trên đức tin. Điều này cho thấy nó tương tự như tín điều Đức Mẹ hạ sinh Chúa mà vẫn đồng trinh hay sự Hiện diện Thực sự trong bí tích Thánh Thể, mà chính phủ không muốn ép buộc người Mỹ tin vào cả hai điều này.
Khi tuyên bố điều này, họ hy vọng có thể thuyết phục người khác - và có thể là chính họ - rằng không có lựa chọn nào khác giữa việc đưa chân lý vào thực tiễn và theo đuổi lợi ích chính trị. Mặc dù cả hai đều không đạt được đỉnh cao chính trị mà họ mong muốn, nhưng cả hai đều có sự nghiệp rất thành công trong mắt thế giới.
Trong khi đó, những khẳng định của họ về vấn đề phá thai đã và đang gây ra những hậu quả tiêu cực cho Giáo hội và đất nước. Vô số người Công Giáo đã bị lừa dối về những gì Giáo hội dạy. Các chính trị gia Công Giáo khác đã lặp đi lặp lại điều này khi họ trốn tránh trách nhiệm bảo vệ những người yếu thế. Hàng triệu ca phá thai vẫn tiếp diễn.
Trong khi việc các chính trị gia hành động như các chính trị gia theo nghĩa tồi tệ nhất bằng cách đưa ra những tuyên bố này đã đủ tệ rồi, thì khi các nhà lãnh đạo Giáo hội ngầm chấp thuận thông qua sự im lặng—hoặc tệ hơn nữa, tôn vinh người đã đưa ra những tuyên bố đó—thì điều đó lại càng phá hoại Giáo hội và càng làm suy yếu thêm chứng tá của Giáo hội trước thế giới.
Thay vào đó, người Công Giáo, đặc biệt là những người hoạt động công cộng, cần lắng nghe những chỉ dẫn mà Đức Giáo Hoàng Lêô đã đưa ra tháng trước cho một phái đoàn các quan chức dân cử địa phương từ Pháp. Ngài nhắc nhở nhóm này: “Kitô giáo không thể bị giản lược thành lòng sùng kính cá nhân,” bởi vì người ta không thể sống hai mặt “một mặt là chính trị gia và mặt kia là một Kitô hữu.”
Các viên chức công quyền Công Giáo được “kêu gọi… đào sâu sự hiểu biết của họ về giáo lý… và đưa giáo lý đó vào thực hành trong việc thực hiện nhiệm vụ của họ và trong việc soạn thảo luật pháp.” Điều này là phù hợp vì “nền tảng của giáo lý này về cơ bản phù hợp với bản chất con người, luật tự nhiên mà mọi người đều có thể nhận ra, ngay cả những người không theo Kitô giáo, ngay cả những người không có niềm tin.”
Cuối cùng, Đức Giáo Hoàng thừa nhận rằng ngài nhận thức được các mệnh lệnh đảng phái “mà các chính trị gia phải tuân theo”, nhưng nhấn mạnh rằng họ cần “can đảm để đôi khi nói 'Không, tôi không thể!'“
Đây là điều mà người Công Giáo cần nghe và lưu ý nếu chúng ta muốn khôi phục lại chứng tá của mình.
Source:First Things
4. Thánh lễ Latinh Truyền thống trở lại bàn thờ cao của Đền Thờ Thánh Phêrô
Vào tháng 3 năm 2021, chúng tôi đã đăng một bài viết rất buồn về việc kết thúc Thánh lễ La tinh truyền thống tại Đền Thờ Thánh Phêrô:
Kể từ tự sắc Summorum Pontificum năm 2007, công nhận rằng Thánh lễ Truyền thống chưa bao giờ bị bãi bỏ (và trên thực tế không bao giờ có thể như vậy), nhiều linh mục đã cử hành Thánh lễ tại một số bàn thờ phụ của Đền thờ Thánh Phêrô đã làm như vậy bằng cách sử dụng Sách lễ năm 1962. Và Thánh lễ được cử hành hàng ngày tại hai bàn thờ chính của Đền Thờ Thánh Phêrô, đặc biệt là Bàn thờ của Đức Giáo Hoàng Innocent XI.... Và Thánh lễ Latinh một lần nữa đã bị chuyển xuống các Hầm mộ: nó chỉ có thể được cử hành (không phải bởi bất kỳ linh mục nào có uy tín, mà chỉ bởi những người được gọi là “linh mục được ủy quyền”) vào những thời điểm nhất định (7, 7:30, 8 và 9 giờ sáng) tại Nhà nguyện Clementine của hầm mộ Vatican.
Đây là lời mở đầu cho những gì sẽ diễn ra vào tháng 7 năm 2021, với Tự Sắc Traditionis Custodes với mục đích là xóa bỏ hoàn toàn Thánh lễ La tinh truyền thống.
“Khúc dạo đầu” ấy giờ đã kết thúc. Chúng ta đã biết Thánh lễ Giáo hoàng đã được phép cử hành trong chuyến Hành hương Summorum Pontificum (ngày 25 tháng 10). Nhưng hôm nay, vào lễ Michaelmas, lễ kính Tổng Lãnh Thiên Thần Micae, Thánh lễ Latinh truyền thống lại được cử hành tại sảnh chính của Đền Thờ Thánh Phêrô, tại bàn thờ Thánh Micae Tổng lãnh Thiên thần.
Source:rorate-caeli.blogspot.com
5. Đức Giáo Hoàng Lêô VIX phản ứng với Kế hoạch Hòa bình Gaza 'Rất thú vị' của Ông Donald Trump
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, người Mỹ đầu tiên lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo, một lần nữa kêu gọi ngừng bắn ngay lập tức và yêu cầu Hamas chấp nhận kế hoạch hòa bình của Tổng thống Trump cho Gaza.
Là giáo hoàng người Mỹ đầu tiên, Đức Lêô XIV có ảnh hưởng đáng kể cả về mặt tinh thần lẫn địa chính trị, và những phát biểu của ngài có thể định hình nhận thức quốc tế về đề xuất này vào thời điểm quan trọng đối với cả người dân Israel và Palestine. Việc ngài ủng hộ lệnh ngừng bắn và nhấn mạnh vào các nhu cầu nhân đạo phản ánh mong muốn toàn cầu về sự ổn định trong bối cảnh thù địch tiếp diễn và các nỗ lực ngoại giao ngày càng gia tăng.
Kế hoạch của Tổng thống Trump, được Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu ủng hộ, được coi là một động thái then chốt có khả năng chấm dứt xung đột hiện tại. Tiếng nói của Vatican có thể làm tăng thêm sức nặng đạo đức cho các cuộc thảo luận ngoại giao giữa các cường quốc thế giới, Hamas và các bên liên quan trong khu vực.
Phát biểu khi rời dinh thự mùa hè Castel Gandolfo, Đức Giáo Hoàng Lêô bày tỏ sự ủng hộ đối với một đề xuất nhằm chấm dứt chiến tranh, gọi đó là “một đề xuất thực tế” với những yếu tố “rất thú vị” mà ngài hy vọng Hamas sẽ chấp nhận trong khung thời gian đã định. Đức Giáo Hoàng cũng tiếp tục kêu gọi trả tự do cho các con tin bị Hamas bắt giữ vào ngày 7 tháng 10 năm 2023.
“Có vẻ như đây là một đề xuất thực tế”, ngài nói. “Có những yếu tố mà tôi cho là rất thú vị, và tôi hy vọng Hamas sẽ chấp nhận trong khung thời gian đã định.”
Ngài cũng bày tỏ lo ngại về một đoàn tàu hơn 50 chiếc chở hàng cứu trợ đến Gaza, dự kiến sẽ tìm cách vượt qua lệnh phong tỏa hải quân của Israel trong đêm khi chỉ còn cách lãnh thổ này 150 hải lý. Đức Giáo Hoàng Lêô XIV cho biết ngài hiểu phản ứng của ban tổ chức trước cái mà ngài gọi là “tình trạng khẩn cấp nhân đạo thực sự”, nhưng cảnh báo về nguy cơ bạo lực.
Chính phủ Ý đã cảnh báo rằng Israel có thể coi đoàn tàu này là một “hành động thù địch” và kêu gọi những người tổ chức hãy rút lui, thay vào đó đề nghị chuyển hàng viện trợ qua Síp với sự bảo đảm của Giáo Hội Công Giáo để đến được tay người Palestine.
Tổng thống Trump đã tiết lộ kế hoạch 20 điểm của mình vào thứ Hai, bao gồm các điều kiện ngừng bắn ngay lập tức, thả con tin, thành lập một hội đồng quản lý tạm thời cho Gaza do Tổng thống Trump và cựu Thủ tướng Anh Tony Blair đứng đầu, và giám sát bởi một ủy ban chuyển giao quốc tế.
Kế hoạch này hứa hẹn một con đường cho quyền tự quyết của người Palestine và viện trợ nhân đạo, với điều kiện cả Israel và Hamas đều đồng ý với tất cả các điều khoản. Netanyahu cảnh báo rằng nếu Hamas từ chối, Israel sẽ hành động độc lập để theo đuổi các mục tiêu của mình ở Gaza. Đề xuất này đã thu hút sự chú ý của toàn thế giới, với việc Hamas được tường trình đã xem xét nó một cách “thiện chí”, nhưng vẫn chưa có sự chấp thuận hay bác bỏ chính thức nào.
Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi phát biểu trên X hôm thứ Hai: “Chúng tôi hoan nghênh việc Tổng thống Donald J. Tổng thống Trump công bố một kế hoạch toàn diện nhằm chấm dứt xung đột ở Gaza. Kế hoạch này mở ra một con đường khả thi hướng tới hòa bình, an ninh và phát triển bền vững lâu dài cho người dân Palestine và Israel, cũng như cho toàn bộ khu vực Tây Á. Chúng tôi hy vọng tất cả các bên liên quan sẽ cùng nhau ủng hộ sáng kiến của Tổng thống Trump và hỗ trợ nỗ lực chấm dứt xung đột và bảo đảm hòa bình này.
Nghị sĩ Đảng Cộng hòa bang Florida Byron Donalds, ứng cử viên thống đốc, phát biểu trên X hôm thứ Hai: “Thưa Tổng thống của HÒA BÌNH. Mong rằng 'Kế hoạch Toàn diện chấm dứt xung đột Gaza' hôm nay sẽ trở thành hiện thực. Mong rằng Trung Đông sẽ có hòa bình một lần và mãi mãi.”
Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2025, Hamas vẫn chưa chính thức chấp nhận hoặc bác bỏ kế hoạch của Tổng thống Trump và được tường trình đang nghiên cứu các điều khoản của kế hoạch này.
Source:Newsweek