Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
21:15 28/04/2016
39. BẦU NẬM CUỐNG DÀI.
Có hai người cũng là họ Lục, lòng tràn trề hứng thú đi đến Lạc Dương muốn bái kiến Lưu Đạo Chân là người mà họ đã ngưỡng mộ từ lâu.
Lưu Đạo Chân vừa thấy họ, câu nói thứ nhất của ông ta là hỏi họ:
- “Sống ở Đông Ngô (lưu vực Thái hồ) có trái bầu nậm cuống dài, các ông có đem hạt giống của nó đến không ?”
Hai người họ Lục cười khổ, không ngờ người mình ngưỡng mộ lại đi ngưỡng mộ trái bầu nậm cuống dài !
(Hài Cự lục)
Suy tư 39:
Ngưỡng mộ và sở thích thì không giống nhau, tôi ngưỡng mộ nghệ thuật biểu diễn của anh, còn anh thì thích chơi cây kiểng hai sự việc không giống nhau, hoặc là tôi ngưỡng mộ tài năng của anh nhưng tôi không thích cá tính nóng nảy của anh.
Có người rất ngưỡng mộ cha sở giảng hay, nhưng không thích đi xưng tội với ngài, vì ngài hay nạt nộ trong tòa giải tội.
Có người rất thích đi tu làm bà sơ, nhưng thấy các bà sơ ở đâu thì sợ, vì các bà sơ cũng lắm điều lắm chuyện như những phụ nữ khác vậy.
Có người rất ngưỡng mộ đạo lý của Đức Chúa Giê-su nhưng không muốn vào đạo, vì không thích đời sống kiêu căng, ích kỷ, tham lam của một số người Ki-tô hữu ở trong phường trong xóm của họ, hoặc của những người Ki-tô hữu khác mà họ tiếp xúc và làm việc chung...
Đạo Công Giáo là đạo bác ái, nhưng nếu người Ki-tô hữu không sống bác ái thì ai là người làm chứng cho đạo Chúa trong cuộc sống hôm nay ?
Trong thế giới ngày nay có rất nhiều người thích và ngưỡng mộ Đức Chúa Giê-su, nhưng lại ghét Hội Thánh của Ngài, tại sao vậy ? Câu trả lời này dành cho mọi người Ki-tô hữu...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
-----------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Có hai người cũng là họ Lục, lòng tràn trề hứng thú đi đến Lạc Dương muốn bái kiến Lưu Đạo Chân là người mà họ đã ngưỡng mộ từ lâu.
Lưu Đạo Chân vừa thấy họ, câu nói thứ nhất của ông ta là hỏi họ:
- “Sống ở Đông Ngô (lưu vực Thái hồ) có trái bầu nậm cuống dài, các ông có đem hạt giống của nó đến không ?”
Hai người họ Lục cười khổ, không ngờ người mình ngưỡng mộ lại đi ngưỡng mộ trái bầu nậm cuống dài !
(Hài Cự lục)
Suy tư 39:
Ngưỡng mộ và sở thích thì không giống nhau, tôi ngưỡng mộ nghệ thuật biểu diễn của anh, còn anh thì thích chơi cây kiểng hai sự việc không giống nhau, hoặc là tôi ngưỡng mộ tài năng của anh nhưng tôi không thích cá tính nóng nảy của anh.
Có người rất ngưỡng mộ cha sở giảng hay, nhưng không thích đi xưng tội với ngài, vì ngài hay nạt nộ trong tòa giải tội.
Có người rất thích đi tu làm bà sơ, nhưng thấy các bà sơ ở đâu thì sợ, vì các bà sơ cũng lắm điều lắm chuyện như những phụ nữ khác vậy.
Có người rất ngưỡng mộ đạo lý của Đức Chúa Giê-su nhưng không muốn vào đạo, vì không thích đời sống kiêu căng, ích kỷ, tham lam của một số người Ki-tô hữu ở trong phường trong xóm của họ, hoặc của những người Ki-tô hữu khác mà họ tiếp xúc và làm việc chung...
Đạo Công Giáo là đạo bác ái, nhưng nếu người Ki-tô hữu không sống bác ái thì ai là người làm chứng cho đạo Chúa trong cuộc sống hôm nay ?
Trong thế giới ngày nay có rất nhiều người thích và ngưỡng mộ Đức Chúa Giê-su, nhưng lại ghét Hội Thánh của Ngài, tại sao vậy ? Câu trả lời này dành cho mọi người Ki-tô hữu...
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư
-----------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
21:17 28/04/2016
31. Đức trinh khiết là đóa hoa tươi tốt phơi phới của Giáo Hội, là phẩm vật điểm xuyết vẻ vang ân sủng của Thiên Chúa.
(Thánh Cyprianus)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"
----------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Các cử hành trên thế giới nhân kỷ niệm 101 năm tội ác diệt chủng người Armenia của Thổ Nhĩ Kỳ
Đặng Tự Do
20:53 28/04/2016
Các nhà lãnh đạo Giáo Hội Armenia Tông Truyền và các nhà lãnh đạo Công Giáo trên thế giới đã cử hành các nghi thức cầu nguyện nhân kỷ niệm 101 năm tội ác diệt chủng người Armenia của Thổ Nhĩ Kỳ.
Tại Armenia, Catholicos Karekin II, là vị đứng đầu của Giáo Hội Armenia Tông Truyền, đã chủ sự buổi cầu nguyện tại Tsitsernakaberd, là đài tưởng niệm cuộc diệt chủng Armenia. Trong khi đó tại Rôma, Đức Hồng Y Leonardo Sandri, Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Hội Đông Phương, chủ sự một buổi cầu nguyện tại nhà thờ Thánh Nicholas Tolentino.
Đức Hồng Y Seán O'Malley và hai giám mục Armenia Tông Truyền cử hành một buổi lễ tưởng niệm tại Nhà thờ Holy Cross ở Boston.
Đức Hồng Y O'Malley nói: “Chúng tôi muốn đưa ra sự công nhận những đau khổ cụ thể của rất nhiều người trong nạn diệt chủng người Armenia, những người là các nhân chứng đức tin và đồng thời cũng muốn nhấn mạnh đến sự đàn áp của các Kitô hữu vẫn còn xảy ra ngày hôm nay”.
Trong một tuyên bố nhân ngày Armenia Remembrance, Tổng thống Barack Obama nói rằng “chúng tôi tiếp tục chào đón sự thể hiện các quan điểm của những người đang tìm cách soi những ánh sáng mới vào bóng tối của quá khứ, từ các nhà sử học Thổ Nhĩ Kỳ và Armenia đến Đức Thánh Cha Phanxicô.”
Cho đến nay Hoa Kỳ vẫn tìm cách quanh co không công nhận cuộc diệt chủng người Armenia của Thổ Nhĩ Kỳ.
Tại Armenia, Catholicos Karekin II, là vị đứng đầu của Giáo Hội Armenia Tông Truyền, đã chủ sự buổi cầu nguyện tại Tsitsernakaberd, là đài tưởng niệm cuộc diệt chủng Armenia. Trong khi đó tại Rôma, Đức Hồng Y Leonardo Sandri, Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Hội Đông Phương, chủ sự một buổi cầu nguyện tại nhà thờ Thánh Nicholas Tolentino.
Đức Hồng Y Seán O'Malley và hai giám mục Armenia Tông Truyền cử hành một buổi lễ tưởng niệm tại Nhà thờ Holy Cross ở Boston.
Đức Hồng Y O'Malley nói: “Chúng tôi muốn đưa ra sự công nhận những đau khổ cụ thể của rất nhiều người trong nạn diệt chủng người Armenia, những người là các nhân chứng đức tin và đồng thời cũng muốn nhấn mạnh đến sự đàn áp của các Kitô hữu vẫn còn xảy ra ngày hôm nay”.
Trong một tuyên bố nhân ngày Armenia Remembrance, Tổng thống Barack Obama nói rằng “chúng tôi tiếp tục chào đón sự thể hiện các quan điểm của những người đang tìm cách soi những ánh sáng mới vào bóng tối của quá khứ, từ các nhà sử học Thổ Nhĩ Kỳ và Armenia đến Đức Thánh Cha Phanxicô.”
Cho đến nay Hoa Kỳ vẫn tìm cách quanh co không công nhận cuộc diệt chủng người Armenia của Thổ Nhĩ Kỳ.
Triều Yết Đức Thánh Cha 27/04/2016: Dụ ngôn người Samaritanô nhân lành
VietCatholic Network
03:34 28/04/2016
Nếu có lòng cảm thương trong con tim, bạn có thể trở thành người thân cận của bất cứ ai đang cần sự trợ giúp. Mặt khác, không phải ai lui tới Nhà Chúa và biết lòng thương xót của Ngài đều biết yêu thương người lân cận đâu.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh 2 điểm trên với hơn 80,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư hàng tuần hôm 27 tháng Tư. Trong số các đoàn hành hương cũng có một đoàn tín hữu Việt Nam do các cha dòng Tên hướng dẫn.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích ý nghĩa dụ ngôn Người Samaritano nhân hậu, như thánh sử Luca kể trong chương 10.
Đức Thánh Cha nói:
Có một tiến sĩ Luật muốn thử Chúa Giêsu nên hỏi Ngài: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sống đời đời?” Chúa Giêsu xin ông tự trả lời cho mình, và ông trả lời một cách toàn vẹn: “Ngươi phải yêu Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và trí tuệ ngươi, và yêu thương người thân cận như chính mình vậy” (c. 27). Khi đó Chúa Giêsu kết luận: “Ông hãy làm như thế và sẽ sống” (v. 28). Ông này lại đặt một câu hỏi khác, rất quý báu đối với chúng ta: “Ai là người thân cận của tôi?” (c. 29), và ông ta hiểu ngầm: cha mẹ tôi? các người đồng hương của tôi? Các người đồng đạo với tôi?”. Nghĩa là, ông ta muốn có một luật lệ rõ ràng cho phép ông sắp loại các người khác thành những người “thân cận” và “không thân cận”, thành những người có thể trở thành thân cận và những người không thể trở thành thân cận.
Và Chúa Giêsu trả lời ông với một dụ ngôn, có ba nhân vật: một tư tế, một thầy Lêvi và một người Samaritano. Hai gương mặt đầu tiên liên quan tới việc phụng tự trong đền thờ; người thứ ba là một người Do thái ly giáo, bị coi như ngoại quốc, dân ngoại và ô uế. Trên đường từ Giêrusalem xuống Giêricô thầy tư tế và Lêvi gặp một người hấp hối, vì bị cướp đánh và bỏ rơi. Trong các trường hợp như thế Lề Luật của Chúa dự trù bổn phận cứu giúp, nhưng cả hai đi qua mà không dừng lại. Họ vội vã… Thầy tư tế có lẽ đã nhìn đồng hồ và nói: “Tôi đễn trễ lễ… Tôi phải làm lễ”. Và người kia thì nói: “Tôi không biết Luật có cho phép tôi không, bởi vì có máu ở đó và tôi sẽ bị ô uế…” Họ đi một con đường khác và không tới gần.
Và Đức Thánh Cha rút tiả ra giáo huấn đầu tiên như sau:
Ở đây dụ ngôn cống hiến cho chúng ta một giáo huấn đầu tiên: không phải tự động ai lui tới nhà Thiên Chúa và biết lòng thương xót của Ngài là biết yêu thương người lân cận. Nó không tự đông đâu! Bạn có thể biết toàn sách Thánh Kinh, bạn có thể biết tất cả các chữ đỏ của Phụng Vụ, bạn có thể biết toàn thần học, nhưng từ việc biết không tự động yêu: yêu thương có một con đường khác, cần sự thông minh, nhưng cũng cần một cái gì khác nữa…
Vị tư tế và thầy Lêvi trông thấy, nhưng không biết; nhìn thấy nhưng không lo liệu. Nhưng không có phụng tự thật, nếu nó không được thể hiện ra bằng việc phục vụ người lân cận. Chúng ta đừng bao giờ quên điều này: trước nỗi khổ đau của biết bao nhiêu người kiệt quệ vì đói khát, vì bạo lực và bất công, chúng ta không thể ở đó như các khán giả. Không biết nỗi khổ đau của con người, có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là không biết Thiên Chúa. Nếu tôi không đến gần người đàn ông đó, đến gần người đàn bà đó, đến gần đứa trẻ đó, ông già đó hay bà già đó, tôi không đến gần Thiên Chúa.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: chúng ta hãy bước vào trọng tâm của dụ ngôn: người Samaritano, nghĩa là chính người bị khinh miệt này, chính người mà có lẽ không ai sẽ đánh cá gì hết, và cả ông ta cũng có các dấn thân và công việc phải làm, khi trông thấy người bị thương, ông không bỏ qua như hai người kia, là những người gắn liền với đền thờ, nhưng mà “cảm thương” (c. 33). Phúc Âm nói thế: “Ông cảm thương”, nghĩa là trái tim, ruột cảm động. Đây là sự khác biệt. Hai người kia “trông thấy”, nhưng con tim của họ đóng kín, lạnh lùng. Trái lại, con tim của người samaritano đồng điệu với chính con tim của Thiên Chúa. Thật vậy, sự “cảm thương” là một đặc tích nòng cốt của lòng thương xót Chúa. Thiên Chúa cảm thương chúng ta. Nó có nghĩa là gì? Ngài đau khổ với chúng ta, các khổ đau của chúng ta Ngài cảm nhận được. Cảm thương có nghĩa là “đau khổ với”. Động từ ám chỉ ruột máy động và run rẩy trước nỗi đau của con người. Và trong các cử chỉ và hành động của người samaritano nhân hậu chúng ta nhận ra hành động thương xót của Thiên Chúa trong tất cả lịch sử cứu độ. Nó cũng chính là sự cảm thương, qua đó Chúa đến gặp gỡ từng người trong chúng ta: Ngài không giả vờ không biết chúng ta, Ngài biết các khổ đau của chúng ta, Ngài biết chúng ta cần sự trợ giúp và ủi an biết chừng nào. Ngài đến gần chúng ta, và không bao giờ bỏ rơi chúng ta.
Mỗi người trong chúng ta hãy tự hỏi và trả lời trong tim: “Tôi có tin điều đó không? Tôi có tin rằng Chúa cảm thương tôi, như tôi là không, là người tội lỗi, với biết bao nhiêu vấn đề và biết bao nhiêu sự?” Hãy nghĩ tới điều đó và câu trả lời là: “Có!” Nhưng mỗi người phải nhìn vào con tim mình xem mình có tin vào sự cảm thương này của Thiên Chúa không, của Thiên Chúa nhân hậu, là Đấng đến gần, chữa lành chúng ta, vuốt ve chúng ta. Và nếu chúng ta khước từ Ngài, Ngài chờ đợi: Ngài kiên nhẫn và luôn luôn ở bên cạnh chúng ta.
Người Samaritano hành xử với lòng thương xót đích thật: ông băng bó các vết thương của người ấy, chở ông ta tới nhà trọ và đích thân lo lắng cho người ấy, liệu trước việc trợ giúp ông ta. Và Đức Thánh Cha rút tiả ra thêm một giáo huấn khác:
Tất cả những điều này dậy cho chúng ta biết rằng sự cảm thương, tình yêu, không phải là một tâm tình mông lung, nhưng có nghĩa là lo lắng cho tha nhân cho tới độ chính mình phải trả giá. Nó có nghĩa là để cho mình bị liên lụy bằng cách làm mọi sự cần thiết để tới gần người khác cho tới độ tự đồng hóa với họ: “Hãy yêu tha nhân như chính mình”. Đó là giới răn của Chúa.
Kết luận dụ ngôn Chúa Giêsu nêu bật câu hỏi của vị tiến sĩ Luật và hỏi ông: “Ai trong ba người, theo ông, đã là người thân cận của người bị rơi vào tay bọn cướp?” (c. 36). Sau cùng câu trả lời không thể mập mờ được: “Đó là người đã thương xót ông ta” (v.27). Mở đầu dụ ngôn đối với thầy tư tế và thầy Lêvi người thân cận là kẻ hấp hối; vào cuối dụ ngôn đò là người Samaritano đã trở thành người lân cận. Chúa Giêsu nhấn mạnh viễn tượng: đừng có đứng đó mà sắp xếp các người khác để xem ai là thân cận ai không. Bạn có thể trở thành người thân cận của bất cứ ai bạn gặp trong cần thiết, và bạn sẽ là người thân cận, nếu trong tim bạn có sự cảm thương, nghĩa là nếu bạn có khả năng đau khổ với người khác.
Dụ ngôn này là một món qua tuyệt diệu cho tất cả chúng ta, và cũng là một dấn thân nữa! Chúa Giêsu lập lại với từng người trong chúng ta điều Ngài đã nói với vị tiến sĩ Luật: “Hãy đi và làm như vậy” (c. 37). Chúng ta tất cả được mời gọi đi cùng con đường của người Samaritano nhân hậu, là gương mặt của Chúa Kitô: Chúa Giêsu cúi xuống trên chúng ta, biến thành tôi tớ của chúng ta, và như thế Ngài đã cứu chuộc chúng ta, để cả chúng ta nữa cũng có thể yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta, theo cùng một cách thức
Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh 2 điểm trên với hơn 80,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư hàng tuần hôm 27 tháng Tư. Trong số các đoàn hành hương cũng có một đoàn tín hữu Việt Nam do các cha dòng Tên hướng dẫn.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giải thích ý nghĩa dụ ngôn Người Samaritano nhân hậu, như thánh sử Luca kể trong chương 10.
Đức Thánh Cha nói:
Có một tiến sĩ Luật muốn thử Chúa Giêsu nên hỏi Ngài: “Thưa Thầy tôi phải làm gì để được sống đời đời?” Chúa Giêsu xin ông tự trả lời cho mình, và ông trả lời một cách toàn vẹn: “Ngươi phải yêu Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và trí tuệ ngươi, và yêu thương người thân cận như chính mình vậy” (c. 27). Khi đó Chúa Giêsu kết luận: “Ông hãy làm như thế và sẽ sống” (v. 28). Ông này lại đặt một câu hỏi khác, rất quý báu đối với chúng ta: “Ai là người thân cận của tôi?” (c. 29), và ông ta hiểu ngầm: cha mẹ tôi? các người đồng hương của tôi? Các người đồng đạo với tôi?”. Nghĩa là, ông ta muốn có một luật lệ rõ ràng cho phép ông sắp loại các người khác thành những người “thân cận” và “không thân cận”, thành những người có thể trở thành thân cận và những người không thể trở thành thân cận.
Và Chúa Giêsu trả lời ông với một dụ ngôn, có ba nhân vật: một tư tế, một thầy Lêvi và một người Samaritano. Hai gương mặt đầu tiên liên quan tới việc phụng tự trong đền thờ; người thứ ba là một người Do thái ly giáo, bị coi như ngoại quốc, dân ngoại và ô uế. Trên đường từ Giêrusalem xuống Giêricô thầy tư tế và Lêvi gặp một người hấp hối, vì bị cướp đánh và bỏ rơi. Trong các trường hợp như thế Lề Luật của Chúa dự trù bổn phận cứu giúp, nhưng cả hai đi qua mà không dừng lại. Họ vội vã… Thầy tư tế có lẽ đã nhìn đồng hồ và nói: “Tôi đễn trễ lễ… Tôi phải làm lễ”. Và người kia thì nói: “Tôi không biết Luật có cho phép tôi không, bởi vì có máu ở đó và tôi sẽ bị ô uế…” Họ đi một con đường khác và không tới gần.
Và Đức Thánh Cha rút tiả ra giáo huấn đầu tiên như sau:
Ở đây dụ ngôn cống hiến cho chúng ta một giáo huấn đầu tiên: không phải tự động ai lui tới nhà Thiên Chúa và biết lòng thương xót của Ngài là biết yêu thương người lân cận. Nó không tự đông đâu! Bạn có thể biết toàn sách Thánh Kinh, bạn có thể biết tất cả các chữ đỏ của Phụng Vụ, bạn có thể biết toàn thần học, nhưng từ việc biết không tự động yêu: yêu thương có một con đường khác, cần sự thông minh, nhưng cũng cần một cái gì khác nữa…
Vị tư tế và thầy Lêvi trông thấy, nhưng không biết; nhìn thấy nhưng không lo liệu. Nhưng không có phụng tự thật, nếu nó không được thể hiện ra bằng việc phục vụ người lân cận. Chúng ta đừng bao giờ quên điều này: trước nỗi khổ đau của biết bao nhiêu người kiệt quệ vì đói khát, vì bạo lực và bất công, chúng ta không thể ở đó như các khán giả. Không biết nỗi khổ đau của con người, có nghĩa là gì? Nó có nghĩa là không biết Thiên Chúa. Nếu tôi không đến gần người đàn ông đó, đến gần người đàn bà đó, đến gần đứa trẻ đó, ông già đó hay bà già đó, tôi không đến gần Thiên Chúa.
Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói: chúng ta hãy bước vào trọng tâm của dụ ngôn: người Samaritano, nghĩa là chính người bị khinh miệt này, chính người mà có lẽ không ai sẽ đánh cá gì hết, và cả ông ta cũng có các dấn thân và công việc phải làm, khi trông thấy người bị thương, ông không bỏ qua như hai người kia, là những người gắn liền với đền thờ, nhưng mà “cảm thương” (c. 33). Phúc Âm nói thế: “Ông cảm thương”, nghĩa là trái tim, ruột cảm động. Đây là sự khác biệt. Hai người kia “trông thấy”, nhưng con tim của họ đóng kín, lạnh lùng. Trái lại, con tim của người samaritano đồng điệu với chính con tim của Thiên Chúa. Thật vậy, sự “cảm thương” là một đặc tích nòng cốt của lòng thương xót Chúa. Thiên Chúa cảm thương chúng ta. Nó có nghĩa là gì? Ngài đau khổ với chúng ta, các khổ đau của chúng ta Ngài cảm nhận được. Cảm thương có nghĩa là “đau khổ với”. Động từ ám chỉ ruột máy động và run rẩy trước nỗi đau của con người. Và trong các cử chỉ và hành động của người samaritano nhân hậu chúng ta nhận ra hành động thương xót của Thiên Chúa trong tất cả lịch sử cứu độ. Nó cũng chính là sự cảm thương, qua đó Chúa đến gặp gỡ từng người trong chúng ta: Ngài không giả vờ không biết chúng ta, Ngài biết các khổ đau của chúng ta, Ngài biết chúng ta cần sự trợ giúp và ủi an biết chừng nào. Ngài đến gần chúng ta, và không bao giờ bỏ rơi chúng ta.
Mỗi người trong chúng ta hãy tự hỏi và trả lời trong tim: “Tôi có tin điều đó không? Tôi có tin rằng Chúa cảm thương tôi, như tôi là không, là người tội lỗi, với biết bao nhiêu vấn đề và biết bao nhiêu sự?” Hãy nghĩ tới điều đó và câu trả lời là: “Có!” Nhưng mỗi người phải nhìn vào con tim mình xem mình có tin vào sự cảm thương này của Thiên Chúa không, của Thiên Chúa nhân hậu, là Đấng đến gần, chữa lành chúng ta, vuốt ve chúng ta. Và nếu chúng ta khước từ Ngài, Ngài chờ đợi: Ngài kiên nhẫn và luôn luôn ở bên cạnh chúng ta.
Người Samaritano hành xử với lòng thương xót đích thật: ông băng bó các vết thương của người ấy, chở ông ta tới nhà trọ và đích thân lo lắng cho người ấy, liệu trước việc trợ giúp ông ta. Và Đức Thánh Cha rút tiả ra thêm một giáo huấn khác:
Tất cả những điều này dậy cho chúng ta biết rằng sự cảm thương, tình yêu, không phải là một tâm tình mông lung, nhưng có nghĩa là lo lắng cho tha nhân cho tới độ chính mình phải trả giá. Nó có nghĩa là để cho mình bị liên lụy bằng cách làm mọi sự cần thiết để tới gần người khác cho tới độ tự đồng hóa với họ: “Hãy yêu tha nhân như chính mình”. Đó là giới răn của Chúa.
Kết luận dụ ngôn Chúa Giêsu nêu bật câu hỏi của vị tiến sĩ Luật và hỏi ông: “Ai trong ba người, theo ông, đã là người thân cận của người bị rơi vào tay bọn cướp?” (c. 36). Sau cùng câu trả lời không thể mập mờ được: “Đó là người đã thương xót ông ta” (v.27). Mở đầu dụ ngôn đối với thầy tư tế và thầy Lêvi người thân cận là kẻ hấp hối; vào cuối dụ ngôn đò là người Samaritano đã trở thành người lân cận. Chúa Giêsu nhấn mạnh viễn tượng: đừng có đứng đó mà sắp xếp các người khác để xem ai là thân cận ai không. Bạn có thể trở thành người thân cận của bất cứ ai bạn gặp trong cần thiết, và bạn sẽ là người thân cận, nếu trong tim bạn có sự cảm thương, nghĩa là nếu bạn có khả năng đau khổ với người khác.
Dụ ngôn này là một món qua tuyệt diệu cho tất cả chúng ta, và cũng là một dấn thân nữa! Chúa Giêsu lập lại với từng người trong chúng ta điều Ngài đã nói với vị tiến sĩ Luật: “Hãy đi và làm như vậy” (c. 37). Chúng ta tất cả được mời gọi đi cùng con đường của người Samaritano nhân hậu, là gương mặt của Chúa Kitô: Chúa Giêsu cúi xuống trên chúng ta, biến thành tôi tớ của chúng ta, và như thế Ngài đã cứu chuộc chúng ta, để cả chúng ta nữa cũng có thể yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta, theo cùng một cách thức
Buổi tiếp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh Đức Thánh Cha ban cho mọi người.
Các Giám mục Ấn gặp gỡ Thủ tướng để xin Thủ tướng mời Đức Thánh Cha thăm viếng đất nước:
Thanh Quảng sdb
04:24 28/04/2016
Các Giám mục Ấn gặp gỡ Thủ tướng để xin Thủ tướng mời Đức Thánh Cha thăm viếng đất nước:
Thanh Quảng sdb
New Delhi theo Thông tấn xã Fides 26/4/2016 - Một phái đoàn các Giám mục Ấn đã gặp gỡ Thủ tướng Ấn Độ Ông Narendra Modi. Phái đoàn các Giám mục được Đức Hồng Y chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Ấn là Baselios Cleemis dẫn đầu, cùng đi có Đức Tổng Giám mục Theodore Mascarenhas, Tổng thư ký và Đức Cha Joseph Chinnayyan, Phó thư ký của Hội đồng Giám mục cùng tháp tùng.
Theo một nguồn tin gửi cho Thông tấn xã Fides thì đoàn đã yêu cầu Thủ tướng Modi mời Đức Giáo Hoàng đến thăm Ấn Độ vào một dịp thuận tiện cho cả đôi bên giữa chính phủ Ấn Độ và Tòa Thánh. Thủ tướng đã cho phái đoàn hay ông sẽ cứu xét nghiêm túc vấn đề này khi trao đổi với các thành viên khác trong nội các chính phủ. Đức Hồng Y Baselios Cleemis còn xin chính Thủ tướng nên dẫn đầu phái đoàn hành hương của Ấn Độ đi tham dự biến cố phong thánh cho Mẹ Teresa sẽ được tổ chức tại Rome vào ngày 04 tháng 9 năm 2016 tới. Ông thủ tướng cũng hứa sẽ cứu xét đề nghị này.
Một điểm khác đã được thảo luận là Phái đòan Giám mục đánh giá cao và cảm ơn chính phủ Ấn Độ về những nỗ lực đã và đang được thực hiện hầu giải cứu cha Tom Uzunnalil thuộc Tu hội Salesian, Ngài đã bị bắt cóc tại Yemen và nhóm phiến quân đã gia hạn án tử cho ngài… Chính phủ Ấn đang làm hết sức để giải cứu ngài.
Phái đoàn các Giám mục cũng bày tỏ sự hoan nghênh trước những sáng kiến và nỗ lực của chính phủ giúp cho hàng triệu dân chúng đạt được mức sống tự túc và cải thiện đời sống của người dân, đặc biệt là sự hợp tác cần thiết đã bị thương tổn nhiều trong quá khứ đó là sự đảm bảo hợp tác với Giáo Hội để "xây dựng một xứ Ấn tốt đẹp hơn".
Thanh Quảng sdb
New Delhi theo Thông tấn xã Fides 26/4/2016 - Một phái đoàn các Giám mục Ấn đã gặp gỡ Thủ tướng Ấn Độ Ông Narendra Modi. Phái đoàn các Giám mục được Đức Hồng Y chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Ấn là Baselios Cleemis dẫn đầu, cùng đi có Đức Tổng Giám mục Theodore Mascarenhas, Tổng thư ký và Đức Cha Joseph Chinnayyan, Phó thư ký của Hội đồng Giám mục cùng tháp tùng.
Theo một nguồn tin gửi cho Thông tấn xã Fides thì đoàn đã yêu cầu Thủ tướng Modi mời Đức Giáo Hoàng đến thăm Ấn Độ vào một dịp thuận tiện cho cả đôi bên giữa chính phủ Ấn Độ và Tòa Thánh. Thủ tướng đã cho phái đoàn hay ông sẽ cứu xét nghiêm túc vấn đề này khi trao đổi với các thành viên khác trong nội các chính phủ. Đức Hồng Y Baselios Cleemis còn xin chính Thủ tướng nên dẫn đầu phái đoàn hành hương của Ấn Độ đi tham dự biến cố phong thánh cho Mẹ Teresa sẽ được tổ chức tại Rome vào ngày 04 tháng 9 năm 2016 tới. Ông thủ tướng cũng hứa sẽ cứu xét đề nghị này.
Một điểm khác đã được thảo luận là Phái đòan Giám mục đánh giá cao và cảm ơn chính phủ Ấn Độ về những nỗ lực đã và đang được thực hiện hầu giải cứu cha Tom Uzunnalil thuộc Tu hội Salesian, Ngài đã bị bắt cóc tại Yemen và nhóm phiến quân đã gia hạn án tử cho ngài… Chính phủ Ấn đang làm hết sức để giải cứu ngài.
Phái đoàn các Giám mục cũng bày tỏ sự hoan nghênh trước những sáng kiến và nỗ lực của chính phủ giúp cho hàng triệu dân chúng đạt được mức sống tự túc và cải thiện đời sống của người dân, đặc biệt là sự hợp tác cần thiết đã bị thương tổn nhiều trong quá khứ đó là sự đảm bảo hợp tác với Giáo Hội để "xây dựng một xứ Ấn tốt đẹp hơn".
Cảnh sát Ý phá vỡ âm mưu tấn công khủng bố tại Vatican
Đặng Tự Do
17:54 28/04/2016
![]() |
Trên các phương tiện truyền thông xã hội, Thủ tướng Ý, là ông Matteo Renzi đã lên tiếng cảm ơn các cơ quan chức năng đã thực hiện các vụ bắt giữ này, là “hoạt động chống những kẻ cực đoan rất quan trọng ở phía bắc vào sáng nay.”
Nhà chức trách Italia cho biết một trong những nghi phạm là một người Ý nguyên quán Ma-rốc, là người đã nhận được lệnh của bọn khủng bố Hồi Giáo IS để thực hiện một cuộc tấn công tại Rôma trong Năm Thánh Lòng Thương Xót.
Người đàn ông này tên là Abderrahim Moutahrrick, bị cho là đã nhận được tin nhắn WhatsApp từ một vùng lãnh thổ do bọn khủng bố Hồi Giáo IS kiểm soát với nội dung: “Thưa anh Abderrahim, tôi gửi cho anh ... bài thơ bom ... hãy lắng nghe vị thủ trưởng và tấn công,” Tin nhắn này có nội dung tương tự như tin nhắn được gởi cho những kẻ khủng bố tại Paris và Brussels trong đó “vị thủ trưởng” hay “sheik” ám chỉ tên lãnh đạo của bọn khủng bố Hồi Giáo IS là Abu Bakr al-Baghdadi.
Công tố viên Maurizio Romanelli của thành phố Milan nói rằng Moutahrrick lên kế hoạch tấn công Vatican và Đại sứ quán Israel tại Rôma và cho biết thêm một trong các nghi phạm khác, Abderrahmane Khachia, 23 tuổi, cũng là người Ma-rốc, trong một cuộc trò chuyện bị cơ quan an ninh theo dõi nói: “Tôi muốn đánh bọn Israel tại Rôma”. Các nhà chức trách đã bắt giữ Khachia ở thành phố Varese phía bắc Ý và Moutahrrick tại nơi y cư trú là thành phố Lecco, phía bắc của Milan, thuộc tỉnh Lombardy.
Romanelli nói thêm rằng các nhà điều tra Italia đã tóm được một lô các các tin nhắn trước khi tấn công vào tổ chức khủng bố này và nói rằng mối đe dọa là nghiêm trọng và cụ thể vì các tên khủng bố có thể nhận được lệnh tấn công trực tiếp từ Syria vào bất cứ lúc nào.
Theo hãng tin Ý Ansa, ông Romanelli nhấn mạnh rằng “Đây là một cục diện mới, bởi vì nó không phải là một dấu hiệu chung chung, mà tiêu biểu cho một chỉ dấu cụ thể khi một cá nhân cụ thể được kêu gọi hành động trong lãnh thổ của Ý.”
Nhà chức trách Ý cũng đã phát lệnh bắt giữ một cặp vợ chồng người Ý sinh quán tại Ma-rốc là những người đã đến Syria năm ngoái để tham gia với bọn khủng bố Hồi Giáo IS. Người đàn ông tên là Mohamed Koraichi. Ông bị cáo buộc là kẻ đạo diễn cho Moutahrrick thực hiện các cuộc tấn công trên đất Ý.
Theo chính quyền Ý, Moutahrrick đã tìm cách mua vũ khí từ một băng đảng Albania tại Ý và tuyên bố ý định của mình muốn tấn công Vatican. Bên cạnh đó, y cũng đã có kế hoạch để đưa gia đình gồm vợ và hai con từ 2 đến 4 tuổi đến một lãnh thổ do bọn khủng bố Hồi Giáo IS kiểm soát tại Syria.
“Đối với những kẻ thù này, tôi thề nếu tôi mang được gia đình tôi đến nơi an toàn, tôi sẽ là người đầu tiên mở cuộc tấn công ... tại xứ sở thập tự quân Italia này ... và cả Vatican nếu ý Chúa muốn”. Moutahrrick đã nói như trên với Koraichi trong một cuộc điện đàm bị chính quyền thu âm vào tháng Ba.
Vatican chưa đưa ra lời bình luận chính thức nào liên quan tới vụ này.
Cướp xông vào nhà thờ tại Mễ Tây Cơ trói cha xứ và cướp phá
Đặng Tự Do
18:16 28/04/2016
“Cuộc tấn công bạo lực có vũ trang tại giáo xứ Señor de la Clemencia thuộc tỉnh Irapuato, là một sự sỉ nhục đau đớn cho cả cộng đồng”, Đức Giám Mục của Giáo phận Irapuato, là Đức Cha José de Jesús Martínez Zepeda, nói như trên trong điện văn gởi đến thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc.
Hôm thứ Ba, 26 tháng Tư, bốn tên cướp có vũ trang bước vào phòng thánh của nhà thờ, nơi có một linh mục và hai phụ nữ đang trò chuyện sau thánh lễ ban sáng. Một tên côn đồ đã còng tay vị linh mục và hai người phụ nữ trước khi bọn chúng cướp đi tư trang của họ và tất cả những đồ vật có thể bán được của giáo xứ.
Đức Cha Zepeda cho biết thêm:
“Tôi cảm thấy bị tổn thương khi biết rằng một trong những linh mục của chúng ta bị sỉ nhục như thế. Làm như vậy họ đã xúc phạm toàn thể cộng đồng. Rõ ràng là việc buôn bán vũ khí vẫn đang phát triển mạnh, bởi vì, như linh mục chánh xứ cho biết, tất cả họ đều có súng.”
Đức Cha Zepeda đang dự định khuyến cáo tất cả các giáo xứ đề cao cảnh giác hầu giảm thiểu các rủi ro và đảm bảo an toàn. Ngài lưu ý rằng “tội phạm có tổ chức đang ở khắp mọi nơi, trong nhà, các gia đình đang bị cướp, thậm chí ngay trên đường phố khi bạo lực đầy rẫy, bọn tội phạm không tôn trọng bất cứ ai, kể cả các linh mục.”
Các cộng đồng địa phương cảm thấy rất đau buồn bởi thực tế là Giáo Hội đang giúp rất nhiều gia đình có nhu cầu ở khu vực này, nhưng tiếc là tình trạng phạm pháp và nạn buôn bán vũ khí không ngừng gia tăng.
Hôm thứ Ba, 26 tháng Tư, bốn tên cướp có vũ trang bước vào phòng thánh của nhà thờ, nơi có một linh mục và hai phụ nữ đang trò chuyện sau thánh lễ ban sáng. Một tên côn đồ đã còng tay vị linh mục và hai người phụ nữ trước khi bọn chúng cướp đi tư trang của họ và tất cả những đồ vật có thể bán được của giáo xứ.
Đức Cha Zepeda cho biết thêm:
“Tôi cảm thấy bị tổn thương khi biết rằng một trong những linh mục của chúng ta bị sỉ nhục như thế. Làm như vậy họ đã xúc phạm toàn thể cộng đồng. Rõ ràng là việc buôn bán vũ khí vẫn đang phát triển mạnh, bởi vì, như linh mục chánh xứ cho biết, tất cả họ đều có súng.”
Đức Cha Zepeda đang dự định khuyến cáo tất cả các giáo xứ đề cao cảnh giác hầu giảm thiểu các rủi ro và đảm bảo an toàn. Ngài lưu ý rằng “tội phạm có tổ chức đang ở khắp mọi nơi, trong nhà, các gia đình đang bị cướp, thậm chí ngay trên đường phố khi bạo lực đầy rẫy, bọn tội phạm không tôn trọng bất cứ ai, kể cả các linh mục.”
Các cộng đồng địa phương cảm thấy rất đau buồn bởi thực tế là Giáo Hội đang giúp rất nhiều gia đình có nhu cầu ở khu vực này, nhưng tiếc là tình trạng phạm pháp và nạn buôn bán vũ khí không ngừng gia tăng.
Tổng thống Italia kêu gọi bảo vệ các tín hữu Kitô tại Trung Đông
Đặng Tự Do
18:29 28/04/2016
Trong khi khẳng định rằng bọn khủng bố Hồi Giáo IS “đang phủ một bóng đen đe dọa cái chết lên các thành phố Châu Âu của chúng ta”, Tổng thống Sergio Mattarella của Italia cũng đưa ra một lời kêu gọi “lòng dũng cảm để bảo vệ cộng đồng các tín hữu Kitô bị bách hại tại Trung Đông.”
Trong một điện văn đề ngày 26 tháng 4 gởi tới một hội nghị về các Kitô hữu bị bách hại, Tổng thống Mattarella nói rằng châu Âu có trách nhiệm phải hành động khi đối mặt với “sự diệt chủng” và “thanh lọc sắc tộc” thực sự. Ông kêu gọi một cố gắng đạo đức, chính trị, và ngoại giao mạnh mẽ nhằm giải quyết tai ương khủng bố hiện nay.
Trong một điện văn đề ngày 26 tháng 4 gởi tới một hội nghị về các Kitô hữu bị bách hại, Tổng thống Mattarella nói rằng châu Âu có trách nhiệm phải hành động khi đối mặt với “sự diệt chủng” và “thanh lọc sắc tộc” thực sự. Ông kêu gọi một cố gắng đạo đức, chính trị, và ngoại giao mạnh mẽ nhằm giải quyết tai ương khủng bố hiện nay.
Các Giám Mục Peru nói án tử hình là không thể chấp nhận được
Đặng Tự Do
18:39 28/04/2016
“Cuộc sống con người là một ân sủng từ Thiên Chúa, và do đó chúng ta có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ nó từ giây phút thụ thai đầu tiên cho đến cái chết tự nhiên”. Thông cáo của Hội đồng Thường trực các Giám Mục Peru, đưa ra hôm 26 tháng Tư, đã cho biết như trên.
Trong thông cáo này, các Giám Mục Peru khẳng định quan điểm của Giáo Hội Công Giáo đối với hình phạt tử hình, là một vấn đề được nêu ra trong các cuộc tranh luận bầu cử trong những ngày gần đây.
Trong bản tin gửi đến thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc, các giám mục nhấn mạnh rằng “Giáo Hội công nhận quyền và nghĩa vụ của các cơ quan công quyền để áp đặt các hình phạt tương xứng với mức độ nghiêm trọng của tội phạm, không loại trừ việc sử dụng án tử hình trong các trường hợp cực kỳ nghiêm trọng.”
Tuy nhiên, trường hợp trong đó “việc tử hình phạm nhân là tuyệt đối cần thiết là rất hiếm, nếu không muốn nói là không có trên thực tế”.
Các Giám mục kết luận bằng cách nhắc lại những lời của Đức Thánh Cha Phanxicô:
“Hôm nay hình phạt tử hình là không thể chấp nhận ... tất cả các Kitô hữu và mọi người thiện chí có trách nhiệm không chỉ là đấu tranh cho việc bãi bỏ hình phạt tử hình, mà còn phải cố gắng cải thiện điều kiện sống trong các nhà tù, trong sự tôn trọng phẩm giá con người của các tù nhân.”
Trong thông cáo này, các Giám Mục Peru khẳng định quan điểm của Giáo Hội Công Giáo đối với hình phạt tử hình, là một vấn đề được nêu ra trong các cuộc tranh luận bầu cử trong những ngày gần đây.
Trong bản tin gửi đến thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc, các giám mục nhấn mạnh rằng “Giáo Hội công nhận quyền và nghĩa vụ của các cơ quan công quyền để áp đặt các hình phạt tương xứng với mức độ nghiêm trọng của tội phạm, không loại trừ việc sử dụng án tử hình trong các trường hợp cực kỳ nghiêm trọng.”
Tuy nhiên, trường hợp trong đó “việc tử hình phạm nhân là tuyệt đối cần thiết là rất hiếm, nếu không muốn nói là không có trên thực tế”.
Các Giám mục kết luận bằng cách nhắc lại những lời của Đức Thánh Cha Phanxicô:
“Hôm nay hình phạt tử hình là không thể chấp nhận ... tất cả các Kitô hữu và mọi người thiện chí có trách nhiệm không chỉ là đấu tranh cho việc bãi bỏ hình phạt tử hình, mà còn phải cố gắng cải thiện điều kiện sống trong các nhà tù, trong sự tôn trọng phẩm giá con người của các tù nhân.”
Đức Thánh Cha trả lời thư các tù nhân Italia
Đặng Tự Do
21:38 28/04/2016
Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một lá thư cho các tù nhân bị giam giữ tại một nhà tù ở thành phố Velletri, rất gần Rôma. Tù nhân tại cơ sở này đã viết thư cho Đức Thánh Cha vào đầu năm nay, và giao phó lá thư của họ cho Đức Cha Marcello Semeraro, Giám mục Albano, trong một chuyến viếng thăm mục vụ của ngài tại cơ sở này.
Trong thư, Đức Thánh Cha Phanxicô cảm ơn những người bị giam giữ về những suy nghĩ tốt đẹp của họ dành cho ngài, và bảo đảm với họ và những người khác đang trong những tình cảnh tương tự, là ngài luôn nghĩ đến và cầu nguyện cho họ. Đức Thánh Cha cũng lưu ý rằng trong các chuyến tông du của mình, ngài luôn cố gắng để thực hiện một chuyến viếng thăm các nhà tù địa phương.
Đức Thánh Cha nói thêm rằng Năm Thánh Lòng Thương Xót, cũng là một năm toàn xá cho các tù nhân, và ngài bảo đảm với họ trong Ngày Năm Thánh dành cho những người bị giam giữ diễn ra vào ngày 06 tháng 11, ngài sẽ “hiệp thông” với tất cả các tù nhân trong “tinh thần và lời cầu nguyện cho nhau.”
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng bày tỏ sự thông cảm của ngài khi nhận xét rằng các tù nhân “đang sống một kinh nghiệm trong đó thời gian dường như không dừng lại và cũng chẳng bao giờ hết.” Nhưng, Đức Thánh Cha nói thêm, đúng hơn “thước đo thực sự của thời gian được gọi là hy vọng.” Ngài bày tỏ mong muốn rằng tất cả những ai bị giam giữ có thể “luôn luôn giữ cho ánh sáng niềm hy vọng của đức tin không lụi tàn” trong cuộc sống của họ.
“Hãy luôn luôn thâm tín rằng Thiên Chúa yêu thương bạn cách cá vị,” Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh như trên trong thư cho các tù nhân. Ngài khích lệ họ đừng bao giờ để cho bản thân mình bị chôn kín trong quá khứ của mình, nhưng hãy chuyển đổi quá khứ “thành một cuộc hành trình của sự tăng trưởng trong đức tin và đức ái.” Ngài kêu gọi họ hãy “cho Thiên Chúa một cơ hội” làm cho họ tỏa sáng “thông qua kinh nghiệm của họ”, trong khi nhắc nhớ rằng trong suốt lịch sử nhiều vị thánh “đã đạt được sự thánh thiện trong những tình huống khắc nghiệt và khó khăn”. Đức Thánh Cha kết luận rằng: “Với Chúa Kitô, tất cả đều là có thể.”
Trong thư, Đức Thánh Cha Phanxicô cảm ơn những người bị giam giữ về những suy nghĩ tốt đẹp của họ dành cho ngài, và bảo đảm với họ và những người khác đang trong những tình cảnh tương tự, là ngài luôn nghĩ đến và cầu nguyện cho họ. Đức Thánh Cha cũng lưu ý rằng trong các chuyến tông du của mình, ngài luôn cố gắng để thực hiện một chuyến viếng thăm các nhà tù địa phương.
Đức Thánh Cha nói thêm rằng Năm Thánh Lòng Thương Xót, cũng là một năm toàn xá cho các tù nhân, và ngài bảo đảm với họ trong Ngày Năm Thánh dành cho những người bị giam giữ diễn ra vào ngày 06 tháng 11, ngài sẽ “hiệp thông” với tất cả các tù nhân trong “tinh thần và lời cầu nguyện cho nhau.”
Đức Thánh Cha Phanxicô cũng bày tỏ sự thông cảm của ngài khi nhận xét rằng các tù nhân “đang sống một kinh nghiệm trong đó thời gian dường như không dừng lại và cũng chẳng bao giờ hết.” Nhưng, Đức Thánh Cha nói thêm, đúng hơn “thước đo thực sự của thời gian được gọi là hy vọng.” Ngài bày tỏ mong muốn rằng tất cả những ai bị giam giữ có thể “luôn luôn giữ cho ánh sáng niềm hy vọng của đức tin không lụi tàn” trong cuộc sống của họ.
“Hãy luôn luôn thâm tín rằng Thiên Chúa yêu thương bạn cách cá vị,” Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh như trên trong thư cho các tù nhân. Ngài khích lệ họ đừng bao giờ để cho bản thân mình bị chôn kín trong quá khứ của mình, nhưng hãy chuyển đổi quá khứ “thành một cuộc hành trình của sự tăng trưởng trong đức tin và đức ái.” Ngài kêu gọi họ hãy “cho Thiên Chúa một cơ hội” làm cho họ tỏa sáng “thông qua kinh nghiệm của họ”, trong khi nhắc nhớ rằng trong suốt lịch sử nhiều vị thánh “đã đạt được sự thánh thiện trong những tình huống khắc nghiệt và khó khăn”. Đức Thánh Cha kết luận rằng: “Với Chúa Kitô, tất cả đều là có thể.”
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Tại Sao Cá Chết ?
Đinh Văn Tiến Hùng
18:29 28/04/2016
![]() |
Mà hãy hỏi Cá bị chết do đâu ?
Có phải chăng chính bởi bọn giặc Tàu,
Tuôn độc chất diệt môi trường sinh thái !
Đổ ra biển nguồn nước thừa phế thải,
Chất độc đó đang cuồn cuộn tuôn ra,
Từ ống xả nhà máy Phô-mô-sa,
Khiến tất cả hải sản bị diệt hết.
Hành động ác độc mọi người đều biết,
Thế mà Trọng Lú vẫn cứ làm ngơ,
Còn tên thứ trưởng lớ ngớ giả vờ :
‘Đừng thắc mắc kẻo tổn hại đất nước’
Thật là một lũ tinh thần bạc nhược,
Sống làm người mà chỉ biết cúi đầu,
Làm tôi tớ chẳng khác kiếp ngựa trâu,
Để Tàu Cộng luôn đè đầu cỡi cổ.
Thái độ chúng bị người dân phỉ nhổ,
Uất hận dâng trào, phẫn nộ dâng cao,
Hậu quả các ngươi sẽ thấy ra sao,
Đừng lấp liếm dùng ngôn từ ngụy biện.
Hào khí dân tộc mạnh như sóng biển,
Rồi sẽ cuốn trôi hết cả bọn ngươi,
Đúng là điềm báo Việt Cộng hết thời,
Đang tan rã như muôn ngàn cá chết.
Xin đừng ngạc nhiên sao nhiều cá chết,
Mà hãy hỏi cá bị chết do đâu,
Có phải chăng bởi chính bọn giặc Tàu,
Tuôn độc chất diệt môi trường sinh thái !
ĐINH VĂN TIẾN HÙNG
*Ghi chú: Liên tiếp nhiều ngày đầu tháng 4/16, xuất hiện nhiều cá chết trôi dạt vào bờ biển Vũng Áng (Thanh Hóa)
nơi có nhà máy Formosa, Trung Cộng. Sau đó cá chết lan rộng qua các bờ biển Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế. Nhưng tổng bí thư VC Nguyễn Phú Trọng vẫn im lặng, còn thứ trưởng Tài nguyên & Môi trường
Võ Tuấn Nhân khi bị báo chí phỏng vấn nạt nộ nói :’Đừng hỏi câu đó! Hỏi câu đó là tổn hại cho đất nước.’
Tài Liệu - Sưu Khảo
Nguyên Văn Tông Huấn Amoris Laetitia của Đức Phanxicô (các số 259-279)
Vũ Văn An
02:17 28/04/2016
Chương Bảy: Hướng tới việc giáo dục con cái tốt hơn
259. Cha mẹ luôn ảnh hưởng tới việc phát triển con cái về luân lý, hoặc tốt hoặc xấu. Thành thử, họ nên đảm nhiệm vai trò chủ chốt này và thi hành nó một cách có ý thức, hăng hái, hữu lý và thích đáng. Vì vai trò giáo dục của các gia đình quan trọng như thế, và càng ngày càng phức tạp hơn, nên tôi muốn thảo luận việc này một cách chi tiết.
Con cái ta đang ở đâu?
260. Các gia đình không thể là gì khác hơn là những nơi để nâng đỡ, chỉ bảo và hướng dẫn, bất kể họ phải tái suy nghĩ rất nhiều về các phương pháp sử dụng và khám phá ra những nguồn tài nguyên mới mẻ. Cha mẹ cần cân nhắc việc họ muốn con cái họ phải giáp mặt với những điều gì, và việc này nhất thiết có nghĩa phải quan tâm đến việc ai sẽ cung cấp việc giải trí của chúng, ai sẽ vào phòng chúng qua ngả truyền hình và các dụng cụ điện tử, và chúng sẽ dùng thì giờ rảnh rỗi của chúng với những ai. Chỉ khi nào ta dành thì giờ cho con cái, nói với chúng một cách đơn sơ và đầy quan tâm về những điều quan trọng, và tìm ra các cách lành mạnh để chúng sử dụng thì giờ của chúng, ta mới có thể bảo vệ chúng khỏi nguy hại. Cảnh giác luôn là điều cần thiết và sao lãng không bao giờ có ích. Cha mẹ phải giúp chuẩn bị để trẻ em và các thiếu niên đương đầu được với các nguy cơ, như gây hấn, lạm dụng hoặc ghiền ma túy.
261. Tuy nhiên, ám ảnh không phải là giáo dục. Ta không thể kiểm soát mọi hoàn cảnh mà một đứa con có thể trải qua. Ở đây, điều mãi mãi đúng là “thời gian lớn hơn không gian” (291). Nói cách khác, khởi đầu một diễn trình là điều quan trọng hơn việc khống chế không gian. Nếu các cha mẹ cứ bị ám ảnh với việc phải biết cho bằng được con cái họ đang ở đâu và lo kiểm soát mọi chuyển động của chúng, thì họ chỉ tìm cách khống chế không gian. Nhưng việc này không hề là giáo dục, là củng cố và chuẩn bị để con cái đương đầu với các thách đố. Điều quan trọng hơn cả là khả năng âu yếm giúp chúng lớn mạnh trong tự do, già dặn, kỷ luật tổng thể và thực sự tự lập. Chỉ với cách này, con cái mới tiến tới chỗ sở đắc được các phương thế cần thiết để tự chống đỡ và hành động thông minh và khôn ngoan bất cứ khi nào đương đầu với các khó khăn. Như thế, vấn đề có thực chất ở đây không phải con cái ta đang ở đâu về phương diện thể lý, hay chúng đang ở với ai vào một lúc nhất định nào đó, mà đúng hơn chúng đang ở đâu về phương diện hiện sinh, chúng đang đứng ở đâu về phương diện xác tín, mục tiêu, ước muốn và giấc mơ. Các câu hỏi tôi muốn đặt ra cho các cha mẹ là: “ta có tìm cách hiểu con cái ta thực sự đang ‘ở đâu’ trong hành trình của chúng không? Linh hồn chúng đang ở đâu, ta có thực sự biết hay không? Và trên hết, ta có muốn biết hay không?” (292).
262. Nếu trưởng thành chỉ là việc phát triển một điều gì đó vốn đã có trong mã di truyền của ta, thì ít có việc gì cần phải làm. Nhưng sự khôn ngoan, phán đoán đúng và lương tri không tùy thuộc các nhân tố phát triển chỉ có lượng tính (quantitative), mà đúng hơn tùy thuộc cả một loạt sự việc cùng xuất hiện với nhau ở thẳm sâu mỗi con người, hay đúng hơn, ở chính cốt lõi tự do của ta. Việc không thể tránh được là mỗi đứa trẻ sẽ làm ta ngạc nhiên với những ý nghĩ và dự án phát sinh từ chính tự do ấy khiến ta phải suy nghĩ lại các ý nghĩ của chính ta. Đó là một điều tốt. Giáo dục là khuyến khích việc sử dụng tự do có trách nhiệm để xử lý các vấn đề một cách hợp lương tri và trí thông minh. Nó bao gồm việc đào luyện con người để họ sẵn sàng hiểu rằng đời sống của chính họ và đời sống của cộng đồng đang nằm trong tay họ, và tự do tự nó là một ơn phúc vĩ đại.
Đào tạo đạo đức cho con cái
263. Các cha mẹ dựa vào nhà trường để bảo đảm việc học hành của con cái, nhưng không bao giờ uỷ quyền hoàn toàn cho người khác việc đào tạo chúng về phương diện luân lý. Việc phát triển về cảm giới và đạo đức tối hậu của một con người đặt cơ sở trên một kinh nghiệm đặc thù, tức tin rằng cha mẹ họ đáng tin cậy. Điều này có nghĩa: là những nhà giáo dục, cha mẹ, bằng tình âu yếm và gương sáng của họ, có trách nhiệm truyền dẫn vào con cái lòng tín thác và sự kính trọng trìu mến. Khi con cái, bất chấp mọi lỗi lầm của chúng, không cảm nhận là chúng quan trọng đối với cha mẹ nữa, hay cha mẹ chúng thành thực quan tâm tới chúng nữa, thì việc này gây nên những vết thương sâu hoắc và nhiều khó khăn trên con đường trưởng thành của chúng. Việc thiếu vắng thể lý hay xúc cảm này tạo ra vết thương lớn hơn so với bất cứ sự la mắng nào mà đứa con có thể lãnh nhận vì đã làm một điều gì sai.
264. Cha mẹ cũng có trách nhiệm đào luyện ý chí của con cái mình, cổ vũ các thói quen tốt và khuynh hướng tự nhiên nghiêng về điều thiện. Điều này bao hàm việc trình bầy cho chúng một số phương cách suy nghĩ và hành động đáng ước ao và có giá trị, như là thành phần của diễn trình lớn mạnh tiệm tiến. Ước muốn được hoà hợp vào xã hội, hay thói quen từ bỏ một khoái cảm tức khắc vì cuộc sống chung tốt đẹp và có trật tự hơn tự nó là một giá trị có thể gợi hứng cho đứa trẻ cởi mở hơn với các giá trị lớn hơn. Việc đào tạo luân lý nên luôn luôn diễn ra với các phương pháp tích cực và một cuộc đối thoại biết dạy đứa trẻ một cách nhậy cảm và biết sử dụng thứ ngôn ngữ mà đứa trẻ có thể hiểu được. Nó cũng cần diễn ra một cách qui nạp (inductively), để con cái học được cho mình sự quan trọng của một số giá trị, nguyên tắc và qui luật, đúng hơn là áp đặt những điều này như những chân lý tuyệt đối, không được đặt nghi vấn.
265. Làm điều đúng không phải chỉ là “việc phán đoán điều xem ra tốt nhất” hay biết rõ điều phải làm, dù việc này là việc quan trọng. Ta thường tỏ ta không nhất quán trong các xác tín của mình, bất kể chúng vững chắc ra sao; ngay khi lương tâm ta đưa ra một quyết định luân lý rõ ràng, nhiều nhân tố khác đôi lúc tỏ ra hấp dẫn và mạnh mẽ hơn. Ta cần phải tiến tới chỗ để điều tốt mà trí khôn có thể nắm được có khả năng bén rễ trong ta thành một xu hướng sâu xa về cảm xúc, một thèm khát sự thiện vượt quá mọi hấp dẫn khác và giúp ta hiểu ra rằng điều ta coi như tốt một cách khách quan cũng tốt ‘đối với ta” ở đây và bây giờ. Giáo dục đạo đức tốt bao gồm việc chỉ cho người ta thấy làm điều đúng là điều tốt đối với họ. Ngày nay, càng ngày người ta càng thấy việc đòi hỏi một điều gì đó cần đến cố gắng và hy sinh là điều kém hữu hiệu, mà không chịu chỉ cho người ta thấy rõ các ích lợi mà việc này có thể đem tới.
266. Các thói quen tốt cần được khai triển. Ngay các thói quen của tuổi thơ cũng có thể giúp diễn dịch các giá trị quan trọng đã được nội tâm hóa thành các lối hành động lành mạnh và vững bền. Người ta có thể có tinh thần xã hội và cởi mở với người khác, nhưng nếu trong một thời gian dài họ không được các vị trưởng thượng huấn luyện để nói được những câu như “xin vui lòng”, “cám ơn”, và “xin lỗi”, thì thiên hướng tốt ở bên trong sẽ không dễ dàng xuất hiện ra bên ngoài. Việc củng cố ý chí và việc lặp đi lặp lại một số hành động chuyên biệt chính là những viên gạch xây nên tác phong luân lý; không có việc lặp đi lặp lại một cách có ý thức, tự do và trân trọng một số khuôn thước của tác phong tốt, thì việc giáo dục luân lý không thể diễn ra. Chỉ ước muốn mà thôi, hay chỉ thấy được lôi cuốn vào một giá trị nào đó mà thôi, không đủ để truyền dẫn nhân đức nếu không có các hành vi được thúc đẩy một cách thích đáng này.
267. Tự do là một điều kỳ diệu, nhưng nó cũng có thể bị tiêu tan và khuất dạng. Giáo dục luân lý phải đi đôi với việc vun sới tự do bằng các ý nghĩ, khuyến khích, áp dụng thực tiễn, kích thích, tưởng thưởng, gương sáng, mẫu mực, biểu tượng, suy tư, khích lệ, đối thoại và không ngừng suy nghĩ lại cách ta thực hiện các sự việc; tất cả những điều này có thể giúp ta phát triển các nguyên tắc ổn định nội tâm dẫn chúng ta tới chỗ làm điều thiện một cách tự phát. Nhân đức là một xác tín đã trở thành nguyên tắc hành động vững vàng ở bên trong. Như thế, đời sống nhân đức xây đắp, củng cố và lên khuôn tự do, kẻo ta trở thành nô lệ cho các khuynh hướng hạ nhân phẩm và phản xã hội. Vì chính nhân phẩm cũng đòi mỗi người chúng ta phải “hành động từ một quyết định có ý thức và tự do, như được đánh động và lôi cuốn một cách có bản vị ngay từ bên trong” (293).
Giá trị của việc sửa trị như một thúc đẩy
268. Điều cũng có tính chủ yếu là giúp trẻ em và các thiếu niên hiểu ra rằng tác phong xấu có những hậu quả của nó. Chúng cần được khuyến khích biết đặt mình vào giầy người khác và nhìn nhận các thương tích chúng đã gây ra. Một số hình phạt, những hình phạt dành cho tác phong hung hăng, phản xã hội, có thể có ích một phần cho mục tiêu này. Điều quan trọng là huấn luyện một cách chắc chắn để trẻ em biết xin tha thứ và sửa chữa sự thiệt hại đã làm cho người khác. Khi diễn trình giáo dục đã sinh hoa trái trong sự lớn mạnh của tự do bản thân, trẻ em sẽ tiến tới chỗ biết đánh giá điều này: quả là tốt đẹp được lớn lên trong một gia đình, và thậm chí chấp nhận các đòi hỏi mà diễn trình đào tạo nào cũng đặt ra.
269. Sửa trị cũng là một thúc đẩy bất cứ khi nào các cố gắng của con cái được đánh giá và thừa nhận, và chúng cảm nhận được sự tin tưởng không ngừng và kiên nhẫn của cha mẹ. Trẻ em nào được yêu thương sửa trị đều cảm thấy mình được chăm sóc; chúng thấy rõ: chúng là các cá nhân với các tiềm năng được công nhận. Việc này không đòi cha mẹ phải hoàn hảo, nhưng đòi họ phải có khả năng khiêm nhường biết nhìn nhận các giới hạn của mình và cố gắng cải thiện. Nhưng, một trong những điều con cái cần phải học từ cha mẹ là không nên giận quá mất khôn. Đứa con nào làm điều sai phải được sửa trị, nhưng không bao giờ bị coi như một kẻ thù hay một đối tượng để trút hết thất vọng lên đó. Người lớn cũng cần hiểu ra rằng một số loại tác phong có liên hệ với tính mỏng dòn và có giới hạn của tuổi trẻ. Thái độ lúc nào cũng nghiêng về trừng phạt chỉ gây hại chứ không giúp con cái hiểu ra rằng một số hành động nghiêm trọng hơn các hành động khác. Thái độ này chỉ dẫn tới thoái chí và giận hờn mà thôi: “Hỡi các bậc cha mẹ, đừng khiêu khích con cái mình” (Ep 6:4; xem Cl 3:21).
270. Điều quan trọng là kỷ luật không được dẫn tới thoái chí, nhưng thay vào đó, phải là một kích thích để tiến bộ thêm. Làm thế nào để nội tâm hóa kỷ luật cách tốt nhất? Ta phải bảo đảm ra sao để kỷ luật là một giới hạn có tính xây dựng đặt ra cho hành động của đứa trẻ chứ không phải rào cản án ngữ đường phát triển của nó? Phải tìm ra sự cân bằng giữa hai cực đoan cùng có hại như nhau sau đây. Một là cố gắng làm mọi sự xoay quanh các thèm muốn của đứa con; các đứa con này sẽ lớn lên tuy ý thức được các quyền lợi, nhưng không ý thức được các trách nhiệm của chúng. Cực đoan kia là lấy mất khỏi đứa con việc ý thức được phẩm giá, căn tính bản thân và các quyền lợi của chúng; những đứa con này kết cục sẽ bị tràn ngập bởi bổn phận và nhu cầu phải thể hiện các ước muốn của người khác.
Tính hiện thực kiên nhẫn
271. Giáo dục luân lý bao hàm việc chỉ nên yêu cầu nơi đứa trẻ hay thiếu niên những điều không đòi hy sinh bất tương xứng, và chỉ nên đòi một mức cố gắng không dẫn tới oán hận hay bức bách. Thông thường, điều này được thực hiện bằng cách đề nghị các bước nhỏ có thể hiểu được, chấp nhận được và đánh giá được, dù có phải hy sinh cách tương ứng. Nếu không, vì đòi hỏi thái quá, ta liều mình không nhận được gì. Một khi thoát khỏi uy quyền của ta, đứa trẻ dám ngưng, không làm điều tốt nữa.
272. Đào tạo đạo đức có lúc bị phê phán vì các trải nghiệm bỏ bê, thoái chí, thiếu tình âu yếm hay điển hình xấu trong việc làm cha mẹ. Các giá trị đạo đức bị liên kết với các hình ảnh tiêu cực của những nhân vật làm cha mẹ hay các bất cập của người lớn. Vì lý do này, ta nên giúp các thiếu niên biết rút ra các loại suy: tức đánh giá các giá trị được hiện thân tốt nhất nơi một số người gương mẫu, trong khi được thể hiện một cách bất toàn và tới những mức độ khác nhau nơi một số người khác. Đồng thời, vì do dự trước các trải nghiệm xấu, nên chúng cần được giúp đỡ trong diễn trình hàn gắn nội tâm và nhờ thế lớn mạnh trong khả năng hiểu người khác và sống hòa bình với họ và cộng đồng rộng lớn hơn.
273. Khi đề xuất các giá trị, ta cần diễn tiến một cách chầm chậm, lưu ý tới cỡ tuổi và các năng khiếu của đứa trẻ, chứ không nên có tham vọng áp dụng các phương pháp cứng ngắc, thiếu mềm dẻo. Các đóng góp qúy giá của tâm lý học và của các khoa học giáo dục vốn chứng minh sự cần thiết của một tiến độ tiệm tiến mới mong đạt được các thay đổi tác phong, nhưng chúng cũng chứng minh rằng tự do đòi hỏi nhiều mạng lưới và kích thích, vì để nó một mình, tự do không bảo đảm mang lại sự trưởng thành. Trong hoàn cảnh đời thực, tự do khá giới hạn và có điều kiện. Nó không hề là một khả năng thuần túy có thể chọn điều tốt trong tính tự phát hoàn toàn của nó. Người ta không luôn luôn phân biệt được một cách rõ ràng một hành vi “tự ý” (voluntary) với một hành vi “tự do”. Người ta có thể tự ý muốn một điều xấu với một sức mạnh lớn lao của ý chí, nhưng do một đam mê không cưỡng được hay do một nền giáo dục xấu. Trong trường hợp này, quyết định của họ rất tự ý, nó không mâu thuẫn với xu hướng của chính ý chí họ, nhưng nó đâu có tự do, vì họ đã trở nên bất lực, không thể không chọn lựa điều xấu này. Ta thấy điều này trong trường hợp người ghiền ma túy, khi anh ta muốn có ma túy, anh ta muốn nó hết sức, và vì bị lệ thuộc quá nên lúc này anh ta đâu còn khả năng đưa ra bất cứ quyết định nào khác. Thành thử, quyết định của anh ta là tự ý, nhưng đâu có tự do. Câu “để họ tự do chọn lựa” không có nghĩa gì đối với anh ta vì thực tế anh ta không thể chọn lựa, và để anh ta tiếp xúc với ma túy chỉ làm gia tăng sự lệ thuộc mà thôi. Anh ta cần sự giúp đỡ của người khác và một diễn trình giáo dục.
Đời sống gia đình như một khung cảnh giáo dục
274. Gia đình là trường học đầu tiên dạy các giá trị nhân bản, nơi ta học cách sử dụng tự do cách khôn ngoan. Một số khuynh hướng phát triển lúc tuổi thơ và bén rễ sâu đến nỗi chúng tồn tại suốt đời, hoặc như những lôi cuốn đối với một giá trị đặc thù nào đó hay như việc tự nhiên không thích lối hành đông nào đó. Nhiều người suy nghĩ và hành động một cách nào đó là vì họ cho cách này đúng đắn dựa vào những gì họ đã học, như thể được thẩm thấu, từ những năm tháng đầu đời: “Tôi được dạy như thế đó”. “Tôi được học làm như thế đó”. Trong gia đình, ta cũng có thể học cách biết phê phán một số sứ điệp do các phương tiện truyền thông loan tải. Điều đáng buồn cần phải nói là một số chương trình truyền hình hay hình thức quảng cáo thường gây ảnh hưởng tiêu cực và cắt xén các giá trị vốn được khắc ghi trong đời sống gia đình.
275. Thời nay, thời bị lo âu xao xuyến và các tiến bộ nhanh chóng của kỹ thuật thống trị, một trong các trách vụ quan trọng nhất của các gia đình là cung cấp một nền giáo dục hy vọng. Điều này không có nghĩa ngăn cản con cái chơi các trò chơi điện tử, nhưng đúng hơn, tìm những cách thế giúp chúng phát triển các khả năng phê phán, chứ đừng nghĩ có thể áp dụng tốc độ kỹ thuật số vào mọi sự ở trong đời được. Triển hạn các thèm muốn không có nghĩa bác bỏ chúng mà chỉ là hoãn việc thỏa mãn chúng mà thôi. Khi không giúp trẻ em hay các thiếu niên hiểu ra rằng có những điều cần phải biết chờ đợi, thì chúng dễ bị ám ảnh bởi việc phải thoả mãn các nhu cầu tức khắc và phát triển thói hư “muốn nó ngay bây giờ”. Đây là một ảo tưởng lớn không hề cổ vũ tự do mà chỉ làm nó ra suy yếu. Mặt khác, ta được dạy phải trì hoãn một điều gì đó cho tới lúc thích đáng, ta học cách tự chủ và tránh xa các xung động bốc đồng của ta. Khi trẻ em hiểu ra rằng chúng phải chịu trách nhiệm đối với bản thân chúng, lòng tự trọng của chúng được phong phú hóa. Điều này, ngược lại, dạy chúng biết tôn trọng tự do của người khác. Hiển nhiên, việc này không có nghĩa mong trẻ em hành động như người lớn, nhưng nó cũng không có nghĩa đánh giá thấp khả năng lớn mạnh của chúng trong tự do có trách nhiệm. Trong một gia đình lành mạnh, diễn trình học tập này thường diễn ra qua các đòi hỏi do cuộc sống chung đặt ra.
276. Gia đình là khung cảnh hàng đầu để xã hội hóa, vì nó là nơi đầu tiên ta học cách liên hệ với người khác, lắng nghe và chia sẻ, nhẫn nại và tỏ lòng tôn trọng, giúp đỡ nhau và sống như một. Trách vụ của giáo dục là làm chúng ta cảm nhận được điều này: thế giới và xã hội cũng là tổ ấm của ta; nó huấn luyện để ta biết sống với nhau trong tổ ấm rộng lớn hơn này. Trong gia đình, ta học tập sự gần gũi, chăm sóc và tôn trọng người khác. Ta phá vỡ tình trạng có tính định mệnh chỉ biết có mình và tiến tới chỗ hiểu ra rằng ta đang sống với và bên cạnh nhiều người khác đáng được ta quan tâm, tử tế và âu yếm. Sẽ không có bất cứ mối dây liên kết xã hội nào nếu không có việc sống cạnh nhau đầu tiên, hàng ngày và hầu như cực nhỏ này, nếu không có những nẻo đường giao thoa vào những thời điểm khác nhau trong ngày, nếu không biết lưu tâm đến tất cả những gì tác động đến ta, nếu không giúp đỡ nhau qua những việc tầm thường nhỏ nhoi. Ngày nào, gia đình cũng phải nghĩ ra những cách mới mẻ để đánh giá và thừa nhận các thành viên của mình.
277. Cũng trong gia đình, ta có thể suy nghĩ lại các thói quen tiêu thụ của ta và góp phần vào việc săn sóc môi trường như căn nhà chung của ta. “Gia đình là tác nhân chính của môt sinh thái toàn diện, vì nó là chủ thể xã hội hàng đầu chứa đựng trong mình hai nguyên tắc căn bản của nền văn minh nhân bản trên trái đất: nguyên tắc hiệp thông và nguyên tắc sinh hoa trái” (294). Cũng thế, những lúc khó khăn và bối rối trong đời sống gia đình có thể dạy ta nhiều bài học quan trọng. Điều này xẩy ra khi bệnh hoạn, chẳng hạn, giáng xuống, vì “đối đầu với bệnh hoạn, ngay trong các gia đình, khó khăn cũng sẽ lộ diện do yếu đuối của con người. Nhưng nói chung, thời gian bệnh hoạn giúp cho các mối dây liên kết gia đình lớn mạnh hơn... Nền giáo dục nào không khuyến khích sự nhậy cảm đối với bệnh tật của con người sẽ làm trái tim ra nguội lạnh; nó khiến người trẻ ‘bị gây mê’ trước nỗi đau khổ của người khác, hết khả năng đối đầu với đau khổ và sống cảm nghiệm có giới hạn” (295).
278. Diễn trình giáo dục diễn ra giữa cha mẹ và con cái có thể nhận được trợ giúp hay cản trở từ sự tinh vi mỗi ngày một tăng của các phương tiện truyền thông và tiêu khiển. Khi được sử dụng tốt, các phương tiện này có thể rất hữu ích để nối kết các thành viên gia đình hiện đang sống xa nhau. Các liên lạc thường xuyên sẽ giúp vượt qua nhiều khó khăn (296). Tuy nhiên, điều rõ ràng là các phương tiện này không thể thay thế được nhu cầu phải đối thoại liên ngã và trực tiếp nhiều hơn, một cuộc đối thoại đòi sự hiện diện thể lý hoặc ít nhất cũng nghe được giọng nói của người kia. Ta biết rằng đôi khi các phương tiện này giữ người ta xa nhau hơn là ở với nhau, như khi đến giờ ăn, ai cũng bận “lướt sóng” (surf) trên điện thoại di động, hay khi một người phối ngẫu thiếp ngủ trong lúc chờ người kia chơi với các dụng cụ điện tử cả hàng giờ. Đây cũng là một điều mà các gia đình cần phải thảo luận và giải quyết cách nào đó giúp khuyến khích việc tương tác qua lại mà không áp đặt các ngăn cấm không thực tiễn. Dù sao, ta không thể làm ngơ các nguy cơ mà các hình thức truyền thông mới này đặt ra cho trẻ em và các thiếu niên; đôi khi, chúng còn có thể cổ vũ sự lãnh cảm và xa rời thế giới thực nữa. Việc “tách rời kỹ thuật” này khiến các em dễ dàng bị thao túng bởi những người muốn xâm lăng không gian tư riêng của các em vì các quyền lợi ích kỷ.
279. Cũng không tốt đẹp gì nếu cha mẹ độc đoán. Khi làm cho con cái cảm thấy rằng chỉ có cha mẹ chúng mới đáng tin, thì điều này sẽ cản trở diễn trình xã hội hóa thoả đáng và lớn mạnh trong sự chín chắn về xúc cảm. Để giúp mở rộng mối liên hệ cha mẹ ra các thực tại rộng rãi hơn, “các cộng đồng Kitô hữu được kêu gọi nâng đỡ sứ mệnh giáo dục của các gia đình” (297), nhất là qua việc dạy giáo lý liên quan đến việc khai tâm Kitô Giáo. Để phát huy một nền giáo dục toàn diện, ta cần “canh tân giao ước giữa gia đình và cộng đồng Kitô Giáo” (298). Thượng Hội Đồng muốn nhấn mạnh sự quan trọng của các trường Công Giáo, những định chế “đóng một vai trò sinh tử trong việc trợ giúp các cha mẹ trong bổn phận dưỡng dục con cái họ... Nên khuyến khích các trường Công Giáo trong sứ mệnh giúp học sinh lớn lên thành những người trưởng thành chín chắn biết nhìn thế giới với lòng yêu thương của Chúa Giêsu và hiểu đời sống như lời mời gọi phụng sự Thiên Chúa” (299). Vì lý do này, “Giáo Hội mạnh mẽ khẳng định quyền tự do của mình được giảng dạy giáo huấn của mình và quyền phản đối lương tâm của các nhà giáo dục” (300).
Kỳ Sau: Nhu Cầu Giáo Dục Tính Dục
__________________________________________________________________________________________
(291) Tông Huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 222: AAS 105 (2013), 1111.
(292) Bài Giáo Lý (20 tháng 5, 2015): L’Osservatore Romano, 21 tháng 5, 2015, p. 8.
(293) Gaudium et Spes, 17.
(294) Bài Giáo Lý (30 tháng 9, 2015): L’Osservatore Romano, 1 tháng 10, 2015, p. 8.
(295) Bài Giáo Lý (10 tháng 6, 2015): L’Osservatore Romano, 11 tháng 6, 2015, p. 8.
(296) Cf. Relatio Finalis 2015, 67.
(297) Bài Giáo Lý (20 tháng 5, 2015): L’Osservatore Romano, 21 tháng 5, 2015, p. 8.
(298) Bài Giáo Lý (9 tháng 9, 2015): L’Osservatore Romano, 10 tháng 9, 2015, p. 8.
(299) Relatio Finalis 2015, 68.
(300) Ibid., 58
259. Cha mẹ luôn ảnh hưởng tới việc phát triển con cái về luân lý, hoặc tốt hoặc xấu. Thành thử, họ nên đảm nhiệm vai trò chủ chốt này và thi hành nó một cách có ý thức, hăng hái, hữu lý và thích đáng. Vì vai trò giáo dục của các gia đình quan trọng như thế, và càng ngày càng phức tạp hơn, nên tôi muốn thảo luận việc này một cách chi tiết.
Con cái ta đang ở đâu?
260. Các gia đình không thể là gì khác hơn là những nơi để nâng đỡ, chỉ bảo và hướng dẫn, bất kể họ phải tái suy nghĩ rất nhiều về các phương pháp sử dụng và khám phá ra những nguồn tài nguyên mới mẻ. Cha mẹ cần cân nhắc việc họ muốn con cái họ phải giáp mặt với những điều gì, và việc này nhất thiết có nghĩa phải quan tâm đến việc ai sẽ cung cấp việc giải trí của chúng, ai sẽ vào phòng chúng qua ngả truyền hình và các dụng cụ điện tử, và chúng sẽ dùng thì giờ rảnh rỗi của chúng với những ai. Chỉ khi nào ta dành thì giờ cho con cái, nói với chúng một cách đơn sơ và đầy quan tâm về những điều quan trọng, và tìm ra các cách lành mạnh để chúng sử dụng thì giờ của chúng, ta mới có thể bảo vệ chúng khỏi nguy hại. Cảnh giác luôn là điều cần thiết và sao lãng không bao giờ có ích. Cha mẹ phải giúp chuẩn bị để trẻ em và các thiếu niên đương đầu được với các nguy cơ, như gây hấn, lạm dụng hoặc ghiền ma túy.
261. Tuy nhiên, ám ảnh không phải là giáo dục. Ta không thể kiểm soát mọi hoàn cảnh mà một đứa con có thể trải qua. Ở đây, điều mãi mãi đúng là “thời gian lớn hơn không gian” (291). Nói cách khác, khởi đầu một diễn trình là điều quan trọng hơn việc khống chế không gian. Nếu các cha mẹ cứ bị ám ảnh với việc phải biết cho bằng được con cái họ đang ở đâu và lo kiểm soát mọi chuyển động của chúng, thì họ chỉ tìm cách khống chế không gian. Nhưng việc này không hề là giáo dục, là củng cố và chuẩn bị để con cái đương đầu với các thách đố. Điều quan trọng hơn cả là khả năng âu yếm giúp chúng lớn mạnh trong tự do, già dặn, kỷ luật tổng thể và thực sự tự lập. Chỉ với cách này, con cái mới tiến tới chỗ sở đắc được các phương thế cần thiết để tự chống đỡ và hành động thông minh và khôn ngoan bất cứ khi nào đương đầu với các khó khăn. Như thế, vấn đề có thực chất ở đây không phải con cái ta đang ở đâu về phương diện thể lý, hay chúng đang ở với ai vào một lúc nhất định nào đó, mà đúng hơn chúng đang ở đâu về phương diện hiện sinh, chúng đang đứng ở đâu về phương diện xác tín, mục tiêu, ước muốn và giấc mơ. Các câu hỏi tôi muốn đặt ra cho các cha mẹ là: “ta có tìm cách hiểu con cái ta thực sự đang ‘ở đâu’ trong hành trình của chúng không? Linh hồn chúng đang ở đâu, ta có thực sự biết hay không? Và trên hết, ta có muốn biết hay không?” (292).
262. Nếu trưởng thành chỉ là việc phát triển một điều gì đó vốn đã có trong mã di truyền của ta, thì ít có việc gì cần phải làm. Nhưng sự khôn ngoan, phán đoán đúng và lương tri không tùy thuộc các nhân tố phát triển chỉ có lượng tính (quantitative), mà đúng hơn tùy thuộc cả một loạt sự việc cùng xuất hiện với nhau ở thẳm sâu mỗi con người, hay đúng hơn, ở chính cốt lõi tự do của ta. Việc không thể tránh được là mỗi đứa trẻ sẽ làm ta ngạc nhiên với những ý nghĩ và dự án phát sinh từ chính tự do ấy khiến ta phải suy nghĩ lại các ý nghĩ của chính ta. Đó là một điều tốt. Giáo dục là khuyến khích việc sử dụng tự do có trách nhiệm để xử lý các vấn đề một cách hợp lương tri và trí thông minh. Nó bao gồm việc đào luyện con người để họ sẵn sàng hiểu rằng đời sống của chính họ và đời sống của cộng đồng đang nằm trong tay họ, và tự do tự nó là một ơn phúc vĩ đại.
Đào tạo đạo đức cho con cái
263. Các cha mẹ dựa vào nhà trường để bảo đảm việc học hành của con cái, nhưng không bao giờ uỷ quyền hoàn toàn cho người khác việc đào tạo chúng về phương diện luân lý. Việc phát triển về cảm giới và đạo đức tối hậu của một con người đặt cơ sở trên một kinh nghiệm đặc thù, tức tin rằng cha mẹ họ đáng tin cậy. Điều này có nghĩa: là những nhà giáo dục, cha mẹ, bằng tình âu yếm và gương sáng của họ, có trách nhiệm truyền dẫn vào con cái lòng tín thác và sự kính trọng trìu mến. Khi con cái, bất chấp mọi lỗi lầm của chúng, không cảm nhận là chúng quan trọng đối với cha mẹ nữa, hay cha mẹ chúng thành thực quan tâm tới chúng nữa, thì việc này gây nên những vết thương sâu hoắc và nhiều khó khăn trên con đường trưởng thành của chúng. Việc thiếu vắng thể lý hay xúc cảm này tạo ra vết thương lớn hơn so với bất cứ sự la mắng nào mà đứa con có thể lãnh nhận vì đã làm một điều gì sai.
264. Cha mẹ cũng có trách nhiệm đào luyện ý chí của con cái mình, cổ vũ các thói quen tốt và khuynh hướng tự nhiên nghiêng về điều thiện. Điều này bao hàm việc trình bầy cho chúng một số phương cách suy nghĩ và hành động đáng ước ao và có giá trị, như là thành phần của diễn trình lớn mạnh tiệm tiến. Ước muốn được hoà hợp vào xã hội, hay thói quen từ bỏ một khoái cảm tức khắc vì cuộc sống chung tốt đẹp và có trật tự hơn tự nó là một giá trị có thể gợi hứng cho đứa trẻ cởi mở hơn với các giá trị lớn hơn. Việc đào tạo luân lý nên luôn luôn diễn ra với các phương pháp tích cực và một cuộc đối thoại biết dạy đứa trẻ một cách nhậy cảm và biết sử dụng thứ ngôn ngữ mà đứa trẻ có thể hiểu được. Nó cũng cần diễn ra một cách qui nạp (inductively), để con cái học được cho mình sự quan trọng của một số giá trị, nguyên tắc và qui luật, đúng hơn là áp đặt những điều này như những chân lý tuyệt đối, không được đặt nghi vấn.
265. Làm điều đúng không phải chỉ là “việc phán đoán điều xem ra tốt nhất” hay biết rõ điều phải làm, dù việc này là việc quan trọng. Ta thường tỏ ta không nhất quán trong các xác tín của mình, bất kể chúng vững chắc ra sao; ngay khi lương tâm ta đưa ra một quyết định luân lý rõ ràng, nhiều nhân tố khác đôi lúc tỏ ra hấp dẫn và mạnh mẽ hơn. Ta cần phải tiến tới chỗ để điều tốt mà trí khôn có thể nắm được có khả năng bén rễ trong ta thành một xu hướng sâu xa về cảm xúc, một thèm khát sự thiện vượt quá mọi hấp dẫn khác và giúp ta hiểu ra rằng điều ta coi như tốt một cách khách quan cũng tốt ‘đối với ta” ở đây và bây giờ. Giáo dục đạo đức tốt bao gồm việc chỉ cho người ta thấy làm điều đúng là điều tốt đối với họ. Ngày nay, càng ngày người ta càng thấy việc đòi hỏi một điều gì đó cần đến cố gắng và hy sinh là điều kém hữu hiệu, mà không chịu chỉ cho người ta thấy rõ các ích lợi mà việc này có thể đem tới.
266. Các thói quen tốt cần được khai triển. Ngay các thói quen của tuổi thơ cũng có thể giúp diễn dịch các giá trị quan trọng đã được nội tâm hóa thành các lối hành động lành mạnh và vững bền. Người ta có thể có tinh thần xã hội và cởi mở với người khác, nhưng nếu trong một thời gian dài họ không được các vị trưởng thượng huấn luyện để nói được những câu như “xin vui lòng”, “cám ơn”, và “xin lỗi”, thì thiên hướng tốt ở bên trong sẽ không dễ dàng xuất hiện ra bên ngoài. Việc củng cố ý chí và việc lặp đi lặp lại một số hành động chuyên biệt chính là những viên gạch xây nên tác phong luân lý; không có việc lặp đi lặp lại một cách có ý thức, tự do và trân trọng một số khuôn thước của tác phong tốt, thì việc giáo dục luân lý không thể diễn ra. Chỉ ước muốn mà thôi, hay chỉ thấy được lôi cuốn vào một giá trị nào đó mà thôi, không đủ để truyền dẫn nhân đức nếu không có các hành vi được thúc đẩy một cách thích đáng này.
267. Tự do là một điều kỳ diệu, nhưng nó cũng có thể bị tiêu tan và khuất dạng. Giáo dục luân lý phải đi đôi với việc vun sới tự do bằng các ý nghĩ, khuyến khích, áp dụng thực tiễn, kích thích, tưởng thưởng, gương sáng, mẫu mực, biểu tượng, suy tư, khích lệ, đối thoại và không ngừng suy nghĩ lại cách ta thực hiện các sự việc; tất cả những điều này có thể giúp ta phát triển các nguyên tắc ổn định nội tâm dẫn chúng ta tới chỗ làm điều thiện một cách tự phát. Nhân đức là một xác tín đã trở thành nguyên tắc hành động vững vàng ở bên trong. Như thế, đời sống nhân đức xây đắp, củng cố và lên khuôn tự do, kẻo ta trở thành nô lệ cho các khuynh hướng hạ nhân phẩm và phản xã hội. Vì chính nhân phẩm cũng đòi mỗi người chúng ta phải “hành động từ một quyết định có ý thức và tự do, như được đánh động và lôi cuốn một cách có bản vị ngay từ bên trong” (293).
Giá trị của việc sửa trị như một thúc đẩy
268. Điều cũng có tính chủ yếu là giúp trẻ em và các thiếu niên hiểu ra rằng tác phong xấu có những hậu quả của nó. Chúng cần được khuyến khích biết đặt mình vào giầy người khác và nhìn nhận các thương tích chúng đã gây ra. Một số hình phạt, những hình phạt dành cho tác phong hung hăng, phản xã hội, có thể có ích một phần cho mục tiêu này. Điều quan trọng là huấn luyện một cách chắc chắn để trẻ em biết xin tha thứ và sửa chữa sự thiệt hại đã làm cho người khác. Khi diễn trình giáo dục đã sinh hoa trái trong sự lớn mạnh của tự do bản thân, trẻ em sẽ tiến tới chỗ biết đánh giá điều này: quả là tốt đẹp được lớn lên trong một gia đình, và thậm chí chấp nhận các đòi hỏi mà diễn trình đào tạo nào cũng đặt ra.
269. Sửa trị cũng là một thúc đẩy bất cứ khi nào các cố gắng của con cái được đánh giá và thừa nhận, và chúng cảm nhận được sự tin tưởng không ngừng và kiên nhẫn của cha mẹ. Trẻ em nào được yêu thương sửa trị đều cảm thấy mình được chăm sóc; chúng thấy rõ: chúng là các cá nhân với các tiềm năng được công nhận. Việc này không đòi cha mẹ phải hoàn hảo, nhưng đòi họ phải có khả năng khiêm nhường biết nhìn nhận các giới hạn của mình và cố gắng cải thiện. Nhưng, một trong những điều con cái cần phải học từ cha mẹ là không nên giận quá mất khôn. Đứa con nào làm điều sai phải được sửa trị, nhưng không bao giờ bị coi như một kẻ thù hay một đối tượng để trút hết thất vọng lên đó. Người lớn cũng cần hiểu ra rằng một số loại tác phong có liên hệ với tính mỏng dòn và có giới hạn của tuổi trẻ. Thái độ lúc nào cũng nghiêng về trừng phạt chỉ gây hại chứ không giúp con cái hiểu ra rằng một số hành động nghiêm trọng hơn các hành động khác. Thái độ này chỉ dẫn tới thoái chí và giận hờn mà thôi: “Hỡi các bậc cha mẹ, đừng khiêu khích con cái mình” (Ep 6:4; xem Cl 3:21).
270. Điều quan trọng là kỷ luật không được dẫn tới thoái chí, nhưng thay vào đó, phải là một kích thích để tiến bộ thêm. Làm thế nào để nội tâm hóa kỷ luật cách tốt nhất? Ta phải bảo đảm ra sao để kỷ luật là một giới hạn có tính xây dựng đặt ra cho hành động của đứa trẻ chứ không phải rào cản án ngữ đường phát triển của nó? Phải tìm ra sự cân bằng giữa hai cực đoan cùng có hại như nhau sau đây. Một là cố gắng làm mọi sự xoay quanh các thèm muốn của đứa con; các đứa con này sẽ lớn lên tuy ý thức được các quyền lợi, nhưng không ý thức được các trách nhiệm của chúng. Cực đoan kia là lấy mất khỏi đứa con việc ý thức được phẩm giá, căn tính bản thân và các quyền lợi của chúng; những đứa con này kết cục sẽ bị tràn ngập bởi bổn phận và nhu cầu phải thể hiện các ước muốn của người khác.
Tính hiện thực kiên nhẫn
271. Giáo dục luân lý bao hàm việc chỉ nên yêu cầu nơi đứa trẻ hay thiếu niên những điều không đòi hy sinh bất tương xứng, và chỉ nên đòi một mức cố gắng không dẫn tới oán hận hay bức bách. Thông thường, điều này được thực hiện bằng cách đề nghị các bước nhỏ có thể hiểu được, chấp nhận được và đánh giá được, dù có phải hy sinh cách tương ứng. Nếu không, vì đòi hỏi thái quá, ta liều mình không nhận được gì. Một khi thoát khỏi uy quyền của ta, đứa trẻ dám ngưng, không làm điều tốt nữa.
272. Đào tạo đạo đức có lúc bị phê phán vì các trải nghiệm bỏ bê, thoái chí, thiếu tình âu yếm hay điển hình xấu trong việc làm cha mẹ. Các giá trị đạo đức bị liên kết với các hình ảnh tiêu cực của những nhân vật làm cha mẹ hay các bất cập của người lớn. Vì lý do này, ta nên giúp các thiếu niên biết rút ra các loại suy: tức đánh giá các giá trị được hiện thân tốt nhất nơi một số người gương mẫu, trong khi được thể hiện một cách bất toàn và tới những mức độ khác nhau nơi một số người khác. Đồng thời, vì do dự trước các trải nghiệm xấu, nên chúng cần được giúp đỡ trong diễn trình hàn gắn nội tâm và nhờ thế lớn mạnh trong khả năng hiểu người khác và sống hòa bình với họ và cộng đồng rộng lớn hơn.
273. Khi đề xuất các giá trị, ta cần diễn tiến một cách chầm chậm, lưu ý tới cỡ tuổi và các năng khiếu của đứa trẻ, chứ không nên có tham vọng áp dụng các phương pháp cứng ngắc, thiếu mềm dẻo. Các đóng góp qúy giá của tâm lý học và của các khoa học giáo dục vốn chứng minh sự cần thiết của một tiến độ tiệm tiến mới mong đạt được các thay đổi tác phong, nhưng chúng cũng chứng minh rằng tự do đòi hỏi nhiều mạng lưới và kích thích, vì để nó một mình, tự do không bảo đảm mang lại sự trưởng thành. Trong hoàn cảnh đời thực, tự do khá giới hạn và có điều kiện. Nó không hề là một khả năng thuần túy có thể chọn điều tốt trong tính tự phát hoàn toàn của nó. Người ta không luôn luôn phân biệt được một cách rõ ràng một hành vi “tự ý” (voluntary) với một hành vi “tự do”. Người ta có thể tự ý muốn một điều xấu với một sức mạnh lớn lao của ý chí, nhưng do một đam mê không cưỡng được hay do một nền giáo dục xấu. Trong trường hợp này, quyết định của họ rất tự ý, nó không mâu thuẫn với xu hướng của chính ý chí họ, nhưng nó đâu có tự do, vì họ đã trở nên bất lực, không thể không chọn lựa điều xấu này. Ta thấy điều này trong trường hợp người ghiền ma túy, khi anh ta muốn có ma túy, anh ta muốn nó hết sức, và vì bị lệ thuộc quá nên lúc này anh ta đâu còn khả năng đưa ra bất cứ quyết định nào khác. Thành thử, quyết định của anh ta là tự ý, nhưng đâu có tự do. Câu “để họ tự do chọn lựa” không có nghĩa gì đối với anh ta vì thực tế anh ta không thể chọn lựa, và để anh ta tiếp xúc với ma túy chỉ làm gia tăng sự lệ thuộc mà thôi. Anh ta cần sự giúp đỡ của người khác và một diễn trình giáo dục.
Đời sống gia đình như một khung cảnh giáo dục
274. Gia đình là trường học đầu tiên dạy các giá trị nhân bản, nơi ta học cách sử dụng tự do cách khôn ngoan. Một số khuynh hướng phát triển lúc tuổi thơ và bén rễ sâu đến nỗi chúng tồn tại suốt đời, hoặc như những lôi cuốn đối với một giá trị đặc thù nào đó hay như việc tự nhiên không thích lối hành đông nào đó. Nhiều người suy nghĩ và hành động một cách nào đó là vì họ cho cách này đúng đắn dựa vào những gì họ đã học, như thể được thẩm thấu, từ những năm tháng đầu đời: “Tôi được dạy như thế đó”. “Tôi được học làm như thế đó”. Trong gia đình, ta cũng có thể học cách biết phê phán một số sứ điệp do các phương tiện truyền thông loan tải. Điều đáng buồn cần phải nói là một số chương trình truyền hình hay hình thức quảng cáo thường gây ảnh hưởng tiêu cực và cắt xén các giá trị vốn được khắc ghi trong đời sống gia đình.
275. Thời nay, thời bị lo âu xao xuyến và các tiến bộ nhanh chóng của kỹ thuật thống trị, một trong các trách vụ quan trọng nhất của các gia đình là cung cấp một nền giáo dục hy vọng. Điều này không có nghĩa ngăn cản con cái chơi các trò chơi điện tử, nhưng đúng hơn, tìm những cách thế giúp chúng phát triển các khả năng phê phán, chứ đừng nghĩ có thể áp dụng tốc độ kỹ thuật số vào mọi sự ở trong đời được. Triển hạn các thèm muốn không có nghĩa bác bỏ chúng mà chỉ là hoãn việc thỏa mãn chúng mà thôi. Khi không giúp trẻ em hay các thiếu niên hiểu ra rằng có những điều cần phải biết chờ đợi, thì chúng dễ bị ám ảnh bởi việc phải thoả mãn các nhu cầu tức khắc và phát triển thói hư “muốn nó ngay bây giờ”. Đây là một ảo tưởng lớn không hề cổ vũ tự do mà chỉ làm nó ra suy yếu. Mặt khác, ta được dạy phải trì hoãn một điều gì đó cho tới lúc thích đáng, ta học cách tự chủ và tránh xa các xung động bốc đồng của ta. Khi trẻ em hiểu ra rằng chúng phải chịu trách nhiệm đối với bản thân chúng, lòng tự trọng của chúng được phong phú hóa. Điều này, ngược lại, dạy chúng biết tôn trọng tự do của người khác. Hiển nhiên, việc này không có nghĩa mong trẻ em hành động như người lớn, nhưng nó cũng không có nghĩa đánh giá thấp khả năng lớn mạnh của chúng trong tự do có trách nhiệm. Trong một gia đình lành mạnh, diễn trình học tập này thường diễn ra qua các đòi hỏi do cuộc sống chung đặt ra.
276. Gia đình là khung cảnh hàng đầu để xã hội hóa, vì nó là nơi đầu tiên ta học cách liên hệ với người khác, lắng nghe và chia sẻ, nhẫn nại và tỏ lòng tôn trọng, giúp đỡ nhau và sống như một. Trách vụ của giáo dục là làm chúng ta cảm nhận được điều này: thế giới và xã hội cũng là tổ ấm của ta; nó huấn luyện để ta biết sống với nhau trong tổ ấm rộng lớn hơn này. Trong gia đình, ta học tập sự gần gũi, chăm sóc và tôn trọng người khác. Ta phá vỡ tình trạng có tính định mệnh chỉ biết có mình và tiến tới chỗ hiểu ra rằng ta đang sống với và bên cạnh nhiều người khác đáng được ta quan tâm, tử tế và âu yếm. Sẽ không có bất cứ mối dây liên kết xã hội nào nếu không có việc sống cạnh nhau đầu tiên, hàng ngày và hầu như cực nhỏ này, nếu không có những nẻo đường giao thoa vào những thời điểm khác nhau trong ngày, nếu không biết lưu tâm đến tất cả những gì tác động đến ta, nếu không giúp đỡ nhau qua những việc tầm thường nhỏ nhoi. Ngày nào, gia đình cũng phải nghĩ ra những cách mới mẻ để đánh giá và thừa nhận các thành viên của mình.
277. Cũng trong gia đình, ta có thể suy nghĩ lại các thói quen tiêu thụ của ta và góp phần vào việc săn sóc môi trường như căn nhà chung của ta. “Gia đình là tác nhân chính của môt sinh thái toàn diện, vì nó là chủ thể xã hội hàng đầu chứa đựng trong mình hai nguyên tắc căn bản của nền văn minh nhân bản trên trái đất: nguyên tắc hiệp thông và nguyên tắc sinh hoa trái” (294). Cũng thế, những lúc khó khăn và bối rối trong đời sống gia đình có thể dạy ta nhiều bài học quan trọng. Điều này xẩy ra khi bệnh hoạn, chẳng hạn, giáng xuống, vì “đối đầu với bệnh hoạn, ngay trong các gia đình, khó khăn cũng sẽ lộ diện do yếu đuối của con người. Nhưng nói chung, thời gian bệnh hoạn giúp cho các mối dây liên kết gia đình lớn mạnh hơn... Nền giáo dục nào không khuyến khích sự nhậy cảm đối với bệnh tật của con người sẽ làm trái tim ra nguội lạnh; nó khiến người trẻ ‘bị gây mê’ trước nỗi đau khổ của người khác, hết khả năng đối đầu với đau khổ và sống cảm nghiệm có giới hạn” (295).
278. Diễn trình giáo dục diễn ra giữa cha mẹ và con cái có thể nhận được trợ giúp hay cản trở từ sự tinh vi mỗi ngày một tăng của các phương tiện truyền thông và tiêu khiển. Khi được sử dụng tốt, các phương tiện này có thể rất hữu ích để nối kết các thành viên gia đình hiện đang sống xa nhau. Các liên lạc thường xuyên sẽ giúp vượt qua nhiều khó khăn (296). Tuy nhiên, điều rõ ràng là các phương tiện này không thể thay thế được nhu cầu phải đối thoại liên ngã và trực tiếp nhiều hơn, một cuộc đối thoại đòi sự hiện diện thể lý hoặc ít nhất cũng nghe được giọng nói của người kia. Ta biết rằng đôi khi các phương tiện này giữ người ta xa nhau hơn là ở với nhau, như khi đến giờ ăn, ai cũng bận “lướt sóng” (surf) trên điện thoại di động, hay khi một người phối ngẫu thiếp ngủ trong lúc chờ người kia chơi với các dụng cụ điện tử cả hàng giờ. Đây cũng là một điều mà các gia đình cần phải thảo luận và giải quyết cách nào đó giúp khuyến khích việc tương tác qua lại mà không áp đặt các ngăn cấm không thực tiễn. Dù sao, ta không thể làm ngơ các nguy cơ mà các hình thức truyền thông mới này đặt ra cho trẻ em và các thiếu niên; đôi khi, chúng còn có thể cổ vũ sự lãnh cảm và xa rời thế giới thực nữa. Việc “tách rời kỹ thuật” này khiến các em dễ dàng bị thao túng bởi những người muốn xâm lăng không gian tư riêng của các em vì các quyền lợi ích kỷ.
279. Cũng không tốt đẹp gì nếu cha mẹ độc đoán. Khi làm cho con cái cảm thấy rằng chỉ có cha mẹ chúng mới đáng tin, thì điều này sẽ cản trở diễn trình xã hội hóa thoả đáng và lớn mạnh trong sự chín chắn về xúc cảm. Để giúp mở rộng mối liên hệ cha mẹ ra các thực tại rộng rãi hơn, “các cộng đồng Kitô hữu được kêu gọi nâng đỡ sứ mệnh giáo dục của các gia đình” (297), nhất là qua việc dạy giáo lý liên quan đến việc khai tâm Kitô Giáo. Để phát huy một nền giáo dục toàn diện, ta cần “canh tân giao ước giữa gia đình và cộng đồng Kitô Giáo” (298). Thượng Hội Đồng muốn nhấn mạnh sự quan trọng của các trường Công Giáo, những định chế “đóng một vai trò sinh tử trong việc trợ giúp các cha mẹ trong bổn phận dưỡng dục con cái họ... Nên khuyến khích các trường Công Giáo trong sứ mệnh giúp học sinh lớn lên thành những người trưởng thành chín chắn biết nhìn thế giới với lòng yêu thương của Chúa Giêsu và hiểu đời sống như lời mời gọi phụng sự Thiên Chúa” (299). Vì lý do này, “Giáo Hội mạnh mẽ khẳng định quyền tự do của mình được giảng dạy giáo huấn của mình và quyền phản đối lương tâm của các nhà giáo dục” (300).
Kỳ Sau: Nhu Cầu Giáo Dục Tính Dục
__________________________________________________________________________________________
(291) Tông Huấn Evangelii Gaudium (24 tháng 11, 2013), 222: AAS 105 (2013), 1111.
(292) Bài Giáo Lý (20 tháng 5, 2015): L’Osservatore Romano, 21 tháng 5, 2015, p. 8.
(293) Gaudium et Spes, 17.
(294) Bài Giáo Lý (30 tháng 9, 2015): L’Osservatore Romano, 1 tháng 10, 2015, p. 8.
(295) Bài Giáo Lý (10 tháng 6, 2015): L’Osservatore Romano, 11 tháng 6, 2015, p. 8.
(296) Cf. Relatio Finalis 2015, 67.
(297) Bài Giáo Lý (20 tháng 5, 2015): L’Osservatore Romano, 21 tháng 5, 2015, p. 8.
(298) Bài Giáo Lý (9 tháng 9, 2015): L’Osservatore Romano, 10 tháng 9, 2015, p. 8.
(299) Relatio Finalis 2015, 68.
(300) Ibid., 58
Nguyên Văn Tông Huấn Amoris Laetitia của Đức Phanxicô (các số 280-290)
Vũ Văn An
23:02 28/04/2016
Chương Bẩy: Hướng Tới Việc Giáo Dục Con Cái Tốt Hơn (tiếp theo)
Nhu cầu giáo dục tính dục
280. Công Đồng Vatican II đề cập tới việc phải đem lại cho trẻ em và các thiếu niên “một nền giáo dục tích cực và khôn ngoan về tính dục khi họ đang lớn lên” với “trọng tâm thích đáng đặt vào các tiến bộ trong các khoa tâm lý, sư phạm và giáo khoa” (301). Ta nên tự hỏi liệu các định chế giáo dục của ta đã tiếp nhận thách đố này chưa. Quả thực không dễ bàn đến vấn đề giáo dục tính dục trong một thời đại trong đó, tính dục bị tầm thường hóa và nghèo nàn hóa. Nó chỉ có thể được xem xét bên trong khuôn khổ giáo dục lòng yêu thương và tự hiến cho nhau. Nhờ cách này, ngôn ngữ tính dục sẽ không bị nghèo nàn hóa một cách đáng buồn nhưng được soi sáng và phong phú hóa. Thúc đẩy tính dục có thể được điều hướng bằng diễn trình lớn mạnh trong việc tự biết và tự kiểm soát chính mình, những việc vốn có thể nuôi dưỡng các khả năng có giá trị để đạt tới niềm vui và những cuộc gặp gỡ yêu thương.
281. Giáo dục tính dục cung cấp tín liệu trong khi phải nhớ rằng trẻ em và các thiếu niên chưa đạt tới sự chín chắn trọn vẹn. Tín liệu phải được cung cấp đúng lúc và thích ứng với độ tuổi của các em. Nó sẽ không giúp được gì nếu áp đảo các em bằng đủ mọi dữ kiện mà không giúp chúng phát triển năng khiếu phê phán để xử lý cuộc tấn công vũ bão của các ý tưởng và gợi ý mới, của cơn lũ khiêu dâm và sức nặng kích thích vốn làm méo mó tính dục. Giới trẻ cần hiểu ra rằng họ đang bị oanh kích tới tấp bởi các sứ điệp vô bổ đối với việc tăng trưởng sự chín chắn của họ. Ta nên giúp đỡ để họ nhận ra và đi tìm các ảnh hưởng tích cực, trong khi xa tránh những điều có thể làm tê liệt khả năng yêu thương của họ. Ta cũng phải hiểu ra rằng ta cần “một ngôn ngữ mới và thích đáng hơn để dẫn nhập trẻ em và các thiếu niên vào chủ đề tính dục” (302).
282. Nền giáo dục tính dục nào cổ vũ được cảm thức thùy mị nết na lành mạnh là nền giáo dục rất có giá trị, bất kể một số người ngày nay coi thùy mị nết na như phế tích của một thời xa xưa. Thùy mị nết na là một phương thế tự nhiên để ta bảo vệ sự tư riêng bản thân và ngăn ngừa ta khỏi trở thành những đối tượng bị lợi dụng. Không có cảm thức thùy mị nết na này, lòng âu yếm và tính dục có thể bị giản lược chỉ còn là một ám ảnh đối với dục quan và các tác phong không lành mạnh vốn làm méo mó khả năng yêu thương của ta, và đối với các hình thức bạo lực tính dục có thể dẫn tới việc đối xử vô nhân đạo hoặc gây thương tích cho người khác.
283. Giáo dục tính dục thường chủ yếu bàn đến “việc bảo vệ” bằng cách thực hành việc “làm tình an toàn”. Các kiểu nói này chuyên chở một thái độ tiêu cực đối với cùng đích tự nhiên của tính dục là sinh sản, như thể đứa trẻ có thể sinh ra là một kẻ thù cần được phòng thủ. Kiểu suy nghĩ này cổ vũ lòng yêu mình thái quá (narcissism) và tính gây hấn thay vì chấp nhận. Điều luôn luôn vô trách nhiệm là mời gọi thiếu niên đùa bỡn với thân xác và các thèm muốn của họ, như thể họ đã sở đắc được sự chín chắn, các giá trị, sự cam kết hỗ tương và các mục tiêu của riêng hôn nhân. Kết cục, vô tình, họ chỉ được khuyến khích sử dụng người khác như một phương tiện để thoả mãn các nhu cầu hay các giới hạn của mình. Điều quan trọng là phải dạy họ biết nhậy cảm đối với các cách diễn tả khác nhau của lòng yêu thương, biết quan tâm và săn sóc lẫn nhau, biết tôn trọng một cách yêu thương và thông đạt có ý nghĩa sâu xa. Tất cả những điều này sẽ chuẩn bị để họ biết tự hiến thân một cách toàn diện và quảng đại, một hiến thân, sau khi đã công khai cam kết, sẽ được diễn tả qua việc hiến thân xác cho nhau. Do đó, kết hợp tính dục trong hôn nhân sẽ trở thành dấu hiệu của một cam kết bao trùm tất cả, được tất cả những gì đi trước nó phong phú hóa.
284. Giới trẻ không nên bị lừa trong việc lẫn lộn hai bình diện thực tại: “lôi cuốn tính dục tạm thời tạo nên ảo giác kết hợp, thế nhưng, nếu không có lòng yêu thương, ‘sự kết hợp’ này sẽ để những kẻ xa lạ mãi mãi xa lạ như trước” (303). Ngôn ngữ thân xác đòi phải có thời kỳ tập việc kiên nhẫn để học tập cách giải thích và vận dụng các thèm muốn để có thể tự hiến một cách chân chính. Khi tham vọng muốn lập tức cho đi mọi sự, rất có thể ta chẳng cho đi được gì. Hiểu rõ tính mỏng dòn và bối rối của người trẻ là một chuyện mà khuyến khích họ kéo dài sự thiếu chín chắn trong cách biểu lộ lòng yêu thương của họ lại là một chuyện khác hẳn. Nhưng ngày nay, ai nói tới những điểu này? Ai có khả năng khiến người trẻ nghiêm túc? Ai giúp họ chuẩn bị cách nghiêm chỉnh để đón nhận lòng yêu thương vĩ đại và quảng đại này? Hiện nay, người ta rất coi nhẹ việc giáo dục tính dục.
285. Giáo dục tính dục cũng bao gồm việc tôn trọng và đánh giá cao các dị biệt, như một cách giúp giới trẻ thắng vượt tính chỉ biết có mình ngõ hầu có thể cởi mở và chấp nhận người khác. Ngoài các khó khăn dễ hiểu mà các cá nhân có thể gặp phải, giới trẻ cần được giúp đỡ để chấp nhận thân xác họ như đã được tạo nên, vì “nghĩ rằng ta có quyền tuyệt đối trên thân xác ta, kết cục, một cách tinh tế, sẽ khiến ta nghĩ rằng ta có quyền tuyệt đối trên sáng thế... Biết đánh giá thân xác ta như là nam hay nữ cũng là điều cần thiết để ta tự biết mình trong cuộc gặp gỡ những người khác với ta. Nhờ cách này, ta có thể hân hoan chấp nhận các ơn phúc chuyên biệt của một người đàn ông hay một người đàn bà khác, vốn là công trình của Thiên Chúa Hóa Công, và tìm được sự phong phú hỗ tương” (304). Chỉ khi nào hết sợ khác biệt, ta mới thoát khỏi não trạng lấy mình làm trung tâm, chỉ lưu tâm tới mình. Giáo dục tính dục nên giúp giới trẻ biết chấp nhận thân xác họ và tránh cái cao vọng muốn “triệt tiêu sự dị biệt giới tính vì không còn biết phải xử lý với nó ra sao” (305).
286. Ta cũng không thể làm ngơ sự kiện này: việc tạo hình cho cung cách hiện hữu của ta, bất kể là nam hay nữ, không hề chỉ là kết quả của các nhân tố sinh học hay di truyền học mà thôi, mà của nhiều yếu tố liên quan đến tính khí, lịch sử gia đình, văn hóa, kinh nghiệm, giáo dục, ảnh hưởng của bạn bè, các thành viên trong gia đình và những người được tôn kính, cũng như các hoàn cảnh đào tạo. Đúng là ta không thể tách biệt yếu tố nam yếu tố nữ ra khỏi công trình sáng tạo của Thiên Chúa, một công trình có trước mọi quyết định và kinh nghiệm của ta, và là nơi hiện hữu các yếu tố sinh học mà ta không thể làm ngơ. Nhưng điều cũng đúng là nam tính và nữ tính không phải là những phạm trù cứng ngắc. Cách hiện hữu như người nam của người chồng, chẳng hạn, có thể được thích ứng một cách mềm dẻo với lịch trình làm việc của người vợ. Nhận làm việc nhà hay một vài khía cạnh nuôi dưỡng con cái không làm người chồng bớt là đàn ông chút nào hay hàm nghĩa thất bại, vô trách nhiệm hay gây xấu hổ chi. Con cái cần được giúp đỡ để chấp nhận “các trao đổi” lành mạnh này như những chuyện bình thường, không hề làm giảm phẩm giá của người cha. Phương thức cứng ngắc sẽ biến thành việc quá nhấn mạnh tới yếu tố nam hay yếu tố nữ, và sẽ không giúp trẻ em và các thiếu niên biết đánh giá tính hỗ tương chân chính đã nhập thân trong các điều kiện đích thực của hôn nhân. Sự cứng ngắc này, ngược lại, sẽ gây trở ngại cho việc phát triển các khả năng của cá nhân, đến độ dẫn họ tới chỗ nghĩ, chẳng hạn, rằng tập tành nghệ thuật hay khiêu vũ là không nam tính chút nào, hay thi hành quyền lãnh đạo là không nữ tính chút nào. Cám ơn Chúa, suy nghĩ này nay đã thay đổi, nhưng ở một số nơi, các quan niệm thiếu sót vẫn còn đang giới hạn quyền tự do chính đáng và gây trở ngại cho việc phát triển căn tính và tiềm năng chuyên biệt của trẻ em một cách chân chính.
Lưu truyền đức tin
287. Việc nuôi dưỡng con cái đòi phải có một diễn trình có thứ tự để lưu truyền đức tin. Việc này hiện đang bị làm cho khó khăn bởi các lối sống đương thời, các lịch trình làm việc và tính phức tạp của thế giới ngày nay, nơi nhiều người đang phải chạy đua với nhịp độ điên cuồng chỉ để sinh tồn (306). Dù thế, tổ ấm vẫn phải tiếp tục là nơi ta học cách biết đánh giá ý nghĩa và vẻ đẹp của đức tin, biết cầu nguyện và phục vụ người lân cận. Việc này bắt đầu với phép rửa, trong đó, như Thánh Augustinô từng nói, các bà mẹ mang con cái họ tới “hợp tác vào việc sinh hạ thánh thiêng” (307). Cuộc hành trình lớn mạnh trong sự sống mới này bắt đầu như thế đó. Đức tin là hồng ơn của Thiên Chúa, tiếp nhận được trong phép rửa, chứ không phải công trình của ta, thế nhưng cha mẹ là phương thế Chúa dùng để nó lớn lên và phát triển. Do đó, “quả là đẹp đẽ khi các bà mẹ dạy con thơ của mình hôn gió Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Trong cử chỉ này, có biết bao yêu thương trong đó! Lúc ấy, trái tim đứa con trở thành một nơi cầu nguyện (308). Truyền thụ đức tin giả thiết cha mẹ phải tín thác thực sự nơi Thên Chúa, tìm kiếm Người và cảm nhận được nhu cầu cần có Chúa, vì chỉ bằng cách này, “thế hệ này mới ca ngợi các công trình của Ngài cho thế hệ kia nghe, và công bố các kỳ công của Ngài” (Tv 144:4) và “các người cha cho con cái họ biết lòng trung tín của Ngài” (Is 38:19). Điều này có nghĩa: ta cần xin Chúa hành động trong trái tim chúng, tức những nơi chính ta không với tới được. Hạt mù-tạt, nhỏ nhoi là thế, đã trở nên cây lớn (xem Mt 13:31-32); điều này dạy ta nhìn thấy sự không tương xứng giữa hành động của ta và các hậu quả của những hành động này. Ta biết rằng ta không sở hữu hồng phúc này, nhưng ta được trao phó việc chăm sóc nó. Thế nhưng, cam kết có tính sáng tạo của ta tự nó là một lễ dâng giúp ta khả năng hợp tác với kế hoạch của Thiên Chúa. Vì lý do này, “các cặp vợ chồng và các cha mẹ nên được đánh giá thích đáng như các tác nhân tích cực trong việc dạy giáo lý... Dạy giáo lý trong gia đình rất có ích như một phương pháp hữu hiệu để huấn luyện các cha mẹ trẻ biết ý thức sứ mệnh làm những nhà truyền giảng Tin Mừng ngay trong gia đình mình” (309).
288. Giáo dục đức tin cần được thích ứng với từng đứa con, vì các tài nguyên và công thức cũ không luôn luôn hữu hiệu. Trẻ em cần các biểu tượng, hành động và truyện kể. Vì các thiếu niên thường có vấn đề đối với quyền bính và qui luật, nên tốt nhất, ta nên khuyến khích các trải nghiệm đức tin riêng của các em và cung cấp cho chúng những chứng từ hấp dẫn, những chứng từ chiếm được cảm tình chỉ nhờ vẻ đẹp của chúng mà thôi. Cha mẹ nào mong nuôi dưỡng đức tin của con cái đều phải nhậy cảm đối với các khuôn mẫu lớn mạnh của chúng, vì chúng biết rằng trải nghiệm tâm linh không được áp đặt mà phải được tự do đề xuất. Điều chủ yếu là con cái thực sự thấy được điều này: đối với cha mẹ chúng, cầu nguyện là một việc thực sự quan trọng. Bởi thế, những lúc gia đình cầu nguyện và các hành vi sùng kính có thể mạnh mẽ đối với việc truyền giảng Tin Mừng hơn cả các lớp giáo lý hay các bài giảng. Ở đây, tôi muốn bầy tỏ lòng biết ơn cách riêng tới tất cả các bà mẹ vẫn tiếp tục cầu nguyện, như Thánh Monica, cho những đứa con đã lạc xa Chúa Kitô.
289. Công việc lưu truyền đức tin cho con cái, theo nghĩa làm dễ dàng việc phát biểu và lớn mạnh của nó, giúp toàn bộ gia đình trong sứ mệnh truyền giảng Tin Mừng của họ. Tự nhiên nó bắt đầu với việc truyền bá đức tin cho mọi người chung quanh họ, cả bên ngoài khung cảnh gia đình. Con cái lớn lên trong các gia đình có tinh thần truyền giáo thường sẽ trở nên các nhà truyền giáo; lớn lên trong các gia đình ấm cúng và thân thiện, chúng học được cách liên hệ với thế giới theo cách này, mà không từ bỏ đức tin và các xác tín của chúng. Ta biết rằng chính Chúa Giêsu đã ăn uống với các người tội lỗi (xem Mc 2:16; Mt 11:19), chuyện trò với người đàn bà Samaria (xem Ga 4:7-26), tiếp Nicôđêmô lúc đêm hôm (xem Ga 3:1-21), để một gái điếm rửa chân cho mình (xem Lc 7:36-50) và không do dự đặt tay lên người bệnh (xem Mc 1:40-45; 7:33). Điều này cũng đúng đối với các tông đồ của Người: các ngài không coi thường người khác, hoặc tụ tập thành những nhóm ưu tú nho nhỏ, tách biệt hẳn cuộc sống của dân mình. Dù các nhà cầm quyền xách nhiễu các ngài, các ngài vẫn được “toàn dân” thương mến (Cv 2:47; xem 4:21, 33; 5:13).
290. Như thế, gia đình là một tác nhân của hành động mục vụ qua việc minh nhiên công bố Tin Mừng và di sản của nó gồm nhiều hình thức làm chứng: liên đới với người nghèo, cởi mở đối với các dị biệt giữa người ta, gìn giữ sáng thế, liên đới với các gia đình khác, nhất là những gia đình túng thiếu nhất, cả tinh thần lẫn vật chất, cả dấn thân cho việc cổ vũ ích chung bằng việc biến đổi các cơ cấu xã hội bất công, bắt đầu với khu vực họ sinh sống, tham gia các công việc thương người về tinh thần và thể xác” (310). Tất cả những điều này đều nói lên niềm tin sâu xa Kitô giáo của ta vào lòng yêu thương của Chúa Cha, Đấng luôn hướng dẫn và nâng đỡ ta, một lòng yêu thương được biểu hiện trong việc tự hiến hoàn toàn của Chúa Giêsu Kitô, Đấng nay vẫn đang sống giữa chúng ta và giúp chúng ta khả năng cùng nhau đương đầu với giông bão cuộc đời trong mọi giai đoạn của nó. Trong mọi gia đình, Tin Mừng cần được vang vọng trở lại, bất kể lúc thịnh vượng cũng như lúc gian nan, làm nguồn ánh sáng khắp nẻo đường đi. Mọi người chúng ta đều có thể nói được rằng nhờ kinh nghiệm sống trong gia đình “chúng ta đã tin vào lòng yêu thương mà Thiên Chúa dành cho chúng ta” (1Ga 4:16). Chỉ dựa vào kinh nghiệm này việc chăm sóc mục vụ của Giáo Hội dành cho các gia đình mới giúp họ trở nên vừa là Giáo Hội tại gia vừa là chất men của việc truyền giảng Tin Mừng trong xã hội.
Kỳ Sau: Chương Tám: Đồng Hành, Biện Phân và Hội Nhập Sự Yếu Đuối
__________________________________________________________________________________________________________
(301) Công Đồng Vatican II, Tuyên Ngôn về Giáo Dục Kitô Giáo, Gravissimum Educationis, 1.
(302) Relatio Finalis 2015, 56.
(303) Erich Fromm, The Art of Loving, New York, 1956, p. 54.
(304) Thông Điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 155.
(305) Bài Giáo Lý (15 tháng 4, 2015): L’Osservatore Romano, 16 tháng 4, 2015, p. 8.
(306) Cf. Relatio Finalis 2015, 13-14.
(307) Thánh Augustinô, De sancta virginitate 7,7: PL 40, 400.
(308) Bài Giáo Lý (26 tháng 8, 2015): L’Osservatore Romano, 27 tháng 8, 2015, p. 8.
(309) Relatio Finalis 2015, 89.
(310) Ibid., 93.
Nhu cầu giáo dục tính dục
280. Công Đồng Vatican II đề cập tới việc phải đem lại cho trẻ em và các thiếu niên “một nền giáo dục tích cực và khôn ngoan về tính dục khi họ đang lớn lên” với “trọng tâm thích đáng đặt vào các tiến bộ trong các khoa tâm lý, sư phạm và giáo khoa” (301). Ta nên tự hỏi liệu các định chế giáo dục của ta đã tiếp nhận thách đố này chưa. Quả thực không dễ bàn đến vấn đề giáo dục tính dục trong một thời đại trong đó, tính dục bị tầm thường hóa và nghèo nàn hóa. Nó chỉ có thể được xem xét bên trong khuôn khổ giáo dục lòng yêu thương và tự hiến cho nhau. Nhờ cách này, ngôn ngữ tính dục sẽ không bị nghèo nàn hóa một cách đáng buồn nhưng được soi sáng và phong phú hóa. Thúc đẩy tính dục có thể được điều hướng bằng diễn trình lớn mạnh trong việc tự biết và tự kiểm soát chính mình, những việc vốn có thể nuôi dưỡng các khả năng có giá trị để đạt tới niềm vui và những cuộc gặp gỡ yêu thương.
281. Giáo dục tính dục cung cấp tín liệu trong khi phải nhớ rằng trẻ em và các thiếu niên chưa đạt tới sự chín chắn trọn vẹn. Tín liệu phải được cung cấp đúng lúc và thích ứng với độ tuổi của các em. Nó sẽ không giúp được gì nếu áp đảo các em bằng đủ mọi dữ kiện mà không giúp chúng phát triển năng khiếu phê phán để xử lý cuộc tấn công vũ bão của các ý tưởng và gợi ý mới, của cơn lũ khiêu dâm và sức nặng kích thích vốn làm méo mó tính dục. Giới trẻ cần hiểu ra rằng họ đang bị oanh kích tới tấp bởi các sứ điệp vô bổ đối với việc tăng trưởng sự chín chắn của họ. Ta nên giúp đỡ để họ nhận ra và đi tìm các ảnh hưởng tích cực, trong khi xa tránh những điều có thể làm tê liệt khả năng yêu thương của họ. Ta cũng phải hiểu ra rằng ta cần “một ngôn ngữ mới và thích đáng hơn để dẫn nhập trẻ em và các thiếu niên vào chủ đề tính dục” (302).
282. Nền giáo dục tính dục nào cổ vũ được cảm thức thùy mị nết na lành mạnh là nền giáo dục rất có giá trị, bất kể một số người ngày nay coi thùy mị nết na như phế tích của một thời xa xưa. Thùy mị nết na là một phương thế tự nhiên để ta bảo vệ sự tư riêng bản thân và ngăn ngừa ta khỏi trở thành những đối tượng bị lợi dụng. Không có cảm thức thùy mị nết na này, lòng âu yếm và tính dục có thể bị giản lược chỉ còn là một ám ảnh đối với dục quan và các tác phong không lành mạnh vốn làm méo mó khả năng yêu thương của ta, và đối với các hình thức bạo lực tính dục có thể dẫn tới việc đối xử vô nhân đạo hoặc gây thương tích cho người khác.
283. Giáo dục tính dục thường chủ yếu bàn đến “việc bảo vệ” bằng cách thực hành việc “làm tình an toàn”. Các kiểu nói này chuyên chở một thái độ tiêu cực đối với cùng đích tự nhiên của tính dục là sinh sản, như thể đứa trẻ có thể sinh ra là một kẻ thù cần được phòng thủ. Kiểu suy nghĩ này cổ vũ lòng yêu mình thái quá (narcissism) và tính gây hấn thay vì chấp nhận. Điều luôn luôn vô trách nhiệm là mời gọi thiếu niên đùa bỡn với thân xác và các thèm muốn của họ, như thể họ đã sở đắc được sự chín chắn, các giá trị, sự cam kết hỗ tương và các mục tiêu của riêng hôn nhân. Kết cục, vô tình, họ chỉ được khuyến khích sử dụng người khác như một phương tiện để thoả mãn các nhu cầu hay các giới hạn của mình. Điều quan trọng là phải dạy họ biết nhậy cảm đối với các cách diễn tả khác nhau của lòng yêu thương, biết quan tâm và săn sóc lẫn nhau, biết tôn trọng một cách yêu thương và thông đạt có ý nghĩa sâu xa. Tất cả những điều này sẽ chuẩn bị để họ biết tự hiến thân một cách toàn diện và quảng đại, một hiến thân, sau khi đã công khai cam kết, sẽ được diễn tả qua việc hiến thân xác cho nhau. Do đó, kết hợp tính dục trong hôn nhân sẽ trở thành dấu hiệu của một cam kết bao trùm tất cả, được tất cả những gì đi trước nó phong phú hóa.
284. Giới trẻ không nên bị lừa trong việc lẫn lộn hai bình diện thực tại: “lôi cuốn tính dục tạm thời tạo nên ảo giác kết hợp, thế nhưng, nếu không có lòng yêu thương, ‘sự kết hợp’ này sẽ để những kẻ xa lạ mãi mãi xa lạ như trước” (303). Ngôn ngữ thân xác đòi phải có thời kỳ tập việc kiên nhẫn để học tập cách giải thích và vận dụng các thèm muốn để có thể tự hiến một cách chân chính. Khi tham vọng muốn lập tức cho đi mọi sự, rất có thể ta chẳng cho đi được gì. Hiểu rõ tính mỏng dòn và bối rối của người trẻ là một chuyện mà khuyến khích họ kéo dài sự thiếu chín chắn trong cách biểu lộ lòng yêu thương của họ lại là một chuyện khác hẳn. Nhưng ngày nay, ai nói tới những điểu này? Ai có khả năng khiến người trẻ nghiêm túc? Ai giúp họ chuẩn bị cách nghiêm chỉnh để đón nhận lòng yêu thương vĩ đại và quảng đại này? Hiện nay, người ta rất coi nhẹ việc giáo dục tính dục.
285. Giáo dục tính dục cũng bao gồm việc tôn trọng và đánh giá cao các dị biệt, như một cách giúp giới trẻ thắng vượt tính chỉ biết có mình ngõ hầu có thể cởi mở và chấp nhận người khác. Ngoài các khó khăn dễ hiểu mà các cá nhân có thể gặp phải, giới trẻ cần được giúp đỡ để chấp nhận thân xác họ như đã được tạo nên, vì “nghĩ rằng ta có quyền tuyệt đối trên thân xác ta, kết cục, một cách tinh tế, sẽ khiến ta nghĩ rằng ta có quyền tuyệt đối trên sáng thế... Biết đánh giá thân xác ta như là nam hay nữ cũng là điều cần thiết để ta tự biết mình trong cuộc gặp gỡ những người khác với ta. Nhờ cách này, ta có thể hân hoan chấp nhận các ơn phúc chuyên biệt của một người đàn ông hay một người đàn bà khác, vốn là công trình của Thiên Chúa Hóa Công, và tìm được sự phong phú hỗ tương” (304). Chỉ khi nào hết sợ khác biệt, ta mới thoát khỏi não trạng lấy mình làm trung tâm, chỉ lưu tâm tới mình. Giáo dục tính dục nên giúp giới trẻ biết chấp nhận thân xác họ và tránh cái cao vọng muốn “triệt tiêu sự dị biệt giới tính vì không còn biết phải xử lý với nó ra sao” (305).
286. Ta cũng không thể làm ngơ sự kiện này: việc tạo hình cho cung cách hiện hữu của ta, bất kể là nam hay nữ, không hề chỉ là kết quả của các nhân tố sinh học hay di truyền học mà thôi, mà của nhiều yếu tố liên quan đến tính khí, lịch sử gia đình, văn hóa, kinh nghiệm, giáo dục, ảnh hưởng của bạn bè, các thành viên trong gia đình và những người được tôn kính, cũng như các hoàn cảnh đào tạo. Đúng là ta không thể tách biệt yếu tố nam yếu tố nữ ra khỏi công trình sáng tạo của Thiên Chúa, một công trình có trước mọi quyết định và kinh nghiệm của ta, và là nơi hiện hữu các yếu tố sinh học mà ta không thể làm ngơ. Nhưng điều cũng đúng là nam tính và nữ tính không phải là những phạm trù cứng ngắc. Cách hiện hữu như người nam của người chồng, chẳng hạn, có thể được thích ứng một cách mềm dẻo với lịch trình làm việc của người vợ. Nhận làm việc nhà hay một vài khía cạnh nuôi dưỡng con cái không làm người chồng bớt là đàn ông chút nào hay hàm nghĩa thất bại, vô trách nhiệm hay gây xấu hổ chi. Con cái cần được giúp đỡ để chấp nhận “các trao đổi” lành mạnh này như những chuyện bình thường, không hề làm giảm phẩm giá của người cha. Phương thức cứng ngắc sẽ biến thành việc quá nhấn mạnh tới yếu tố nam hay yếu tố nữ, và sẽ không giúp trẻ em và các thiếu niên biết đánh giá tính hỗ tương chân chính đã nhập thân trong các điều kiện đích thực của hôn nhân. Sự cứng ngắc này, ngược lại, sẽ gây trở ngại cho việc phát triển các khả năng của cá nhân, đến độ dẫn họ tới chỗ nghĩ, chẳng hạn, rằng tập tành nghệ thuật hay khiêu vũ là không nam tính chút nào, hay thi hành quyền lãnh đạo là không nữ tính chút nào. Cám ơn Chúa, suy nghĩ này nay đã thay đổi, nhưng ở một số nơi, các quan niệm thiếu sót vẫn còn đang giới hạn quyền tự do chính đáng và gây trở ngại cho việc phát triển căn tính và tiềm năng chuyên biệt của trẻ em một cách chân chính.
Lưu truyền đức tin
287. Việc nuôi dưỡng con cái đòi phải có một diễn trình có thứ tự để lưu truyền đức tin. Việc này hiện đang bị làm cho khó khăn bởi các lối sống đương thời, các lịch trình làm việc và tính phức tạp của thế giới ngày nay, nơi nhiều người đang phải chạy đua với nhịp độ điên cuồng chỉ để sinh tồn (306). Dù thế, tổ ấm vẫn phải tiếp tục là nơi ta học cách biết đánh giá ý nghĩa và vẻ đẹp của đức tin, biết cầu nguyện và phục vụ người lân cận. Việc này bắt đầu với phép rửa, trong đó, như Thánh Augustinô từng nói, các bà mẹ mang con cái họ tới “hợp tác vào việc sinh hạ thánh thiêng” (307). Cuộc hành trình lớn mạnh trong sự sống mới này bắt đầu như thế đó. Đức tin là hồng ơn của Thiên Chúa, tiếp nhận được trong phép rửa, chứ không phải công trình của ta, thế nhưng cha mẹ là phương thế Chúa dùng để nó lớn lên và phát triển. Do đó, “quả là đẹp đẽ khi các bà mẹ dạy con thơ của mình hôn gió Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Trong cử chỉ này, có biết bao yêu thương trong đó! Lúc ấy, trái tim đứa con trở thành một nơi cầu nguyện (308). Truyền thụ đức tin giả thiết cha mẹ phải tín thác thực sự nơi Thên Chúa, tìm kiếm Người và cảm nhận được nhu cầu cần có Chúa, vì chỉ bằng cách này, “thế hệ này mới ca ngợi các công trình của Ngài cho thế hệ kia nghe, và công bố các kỳ công của Ngài” (Tv 144:4) và “các người cha cho con cái họ biết lòng trung tín của Ngài” (Is 38:19). Điều này có nghĩa: ta cần xin Chúa hành động trong trái tim chúng, tức những nơi chính ta không với tới được. Hạt mù-tạt, nhỏ nhoi là thế, đã trở nên cây lớn (xem Mt 13:31-32); điều này dạy ta nhìn thấy sự không tương xứng giữa hành động của ta và các hậu quả của những hành động này. Ta biết rằng ta không sở hữu hồng phúc này, nhưng ta được trao phó việc chăm sóc nó. Thế nhưng, cam kết có tính sáng tạo của ta tự nó là một lễ dâng giúp ta khả năng hợp tác với kế hoạch của Thiên Chúa. Vì lý do này, “các cặp vợ chồng và các cha mẹ nên được đánh giá thích đáng như các tác nhân tích cực trong việc dạy giáo lý... Dạy giáo lý trong gia đình rất có ích như một phương pháp hữu hiệu để huấn luyện các cha mẹ trẻ biết ý thức sứ mệnh làm những nhà truyền giảng Tin Mừng ngay trong gia đình mình” (309).
288. Giáo dục đức tin cần được thích ứng với từng đứa con, vì các tài nguyên và công thức cũ không luôn luôn hữu hiệu. Trẻ em cần các biểu tượng, hành động và truyện kể. Vì các thiếu niên thường có vấn đề đối với quyền bính và qui luật, nên tốt nhất, ta nên khuyến khích các trải nghiệm đức tin riêng của các em và cung cấp cho chúng những chứng từ hấp dẫn, những chứng từ chiếm được cảm tình chỉ nhờ vẻ đẹp của chúng mà thôi. Cha mẹ nào mong nuôi dưỡng đức tin của con cái đều phải nhậy cảm đối với các khuôn mẫu lớn mạnh của chúng, vì chúng biết rằng trải nghiệm tâm linh không được áp đặt mà phải được tự do đề xuất. Điều chủ yếu là con cái thực sự thấy được điều này: đối với cha mẹ chúng, cầu nguyện là một việc thực sự quan trọng. Bởi thế, những lúc gia đình cầu nguyện và các hành vi sùng kính có thể mạnh mẽ đối với việc truyền giảng Tin Mừng hơn cả các lớp giáo lý hay các bài giảng. Ở đây, tôi muốn bầy tỏ lòng biết ơn cách riêng tới tất cả các bà mẹ vẫn tiếp tục cầu nguyện, như Thánh Monica, cho những đứa con đã lạc xa Chúa Kitô.
289. Công việc lưu truyền đức tin cho con cái, theo nghĩa làm dễ dàng việc phát biểu và lớn mạnh của nó, giúp toàn bộ gia đình trong sứ mệnh truyền giảng Tin Mừng của họ. Tự nhiên nó bắt đầu với việc truyền bá đức tin cho mọi người chung quanh họ, cả bên ngoài khung cảnh gia đình. Con cái lớn lên trong các gia đình có tinh thần truyền giáo thường sẽ trở nên các nhà truyền giáo; lớn lên trong các gia đình ấm cúng và thân thiện, chúng học được cách liên hệ với thế giới theo cách này, mà không từ bỏ đức tin và các xác tín của chúng. Ta biết rằng chính Chúa Giêsu đã ăn uống với các người tội lỗi (xem Mc 2:16; Mt 11:19), chuyện trò với người đàn bà Samaria (xem Ga 4:7-26), tiếp Nicôđêmô lúc đêm hôm (xem Ga 3:1-21), để một gái điếm rửa chân cho mình (xem Lc 7:36-50) và không do dự đặt tay lên người bệnh (xem Mc 1:40-45; 7:33). Điều này cũng đúng đối với các tông đồ của Người: các ngài không coi thường người khác, hoặc tụ tập thành những nhóm ưu tú nho nhỏ, tách biệt hẳn cuộc sống của dân mình. Dù các nhà cầm quyền xách nhiễu các ngài, các ngài vẫn được “toàn dân” thương mến (Cv 2:47; xem 4:21, 33; 5:13).
290. Như thế, gia đình là một tác nhân của hành động mục vụ qua việc minh nhiên công bố Tin Mừng và di sản của nó gồm nhiều hình thức làm chứng: liên đới với người nghèo, cởi mở đối với các dị biệt giữa người ta, gìn giữ sáng thế, liên đới với các gia đình khác, nhất là những gia đình túng thiếu nhất, cả tinh thần lẫn vật chất, cả dấn thân cho việc cổ vũ ích chung bằng việc biến đổi các cơ cấu xã hội bất công, bắt đầu với khu vực họ sinh sống, tham gia các công việc thương người về tinh thần và thể xác” (310). Tất cả những điều này đều nói lên niềm tin sâu xa Kitô giáo của ta vào lòng yêu thương của Chúa Cha, Đấng luôn hướng dẫn và nâng đỡ ta, một lòng yêu thương được biểu hiện trong việc tự hiến hoàn toàn của Chúa Giêsu Kitô, Đấng nay vẫn đang sống giữa chúng ta và giúp chúng ta khả năng cùng nhau đương đầu với giông bão cuộc đời trong mọi giai đoạn của nó. Trong mọi gia đình, Tin Mừng cần được vang vọng trở lại, bất kể lúc thịnh vượng cũng như lúc gian nan, làm nguồn ánh sáng khắp nẻo đường đi. Mọi người chúng ta đều có thể nói được rằng nhờ kinh nghiệm sống trong gia đình “chúng ta đã tin vào lòng yêu thương mà Thiên Chúa dành cho chúng ta” (1Ga 4:16). Chỉ dựa vào kinh nghiệm này việc chăm sóc mục vụ của Giáo Hội dành cho các gia đình mới giúp họ trở nên vừa là Giáo Hội tại gia vừa là chất men của việc truyền giảng Tin Mừng trong xã hội.
Kỳ Sau: Chương Tám: Đồng Hành, Biện Phân và Hội Nhập Sự Yếu Đuối
__________________________________________________________________________________________________________
(301) Công Đồng Vatican II, Tuyên Ngôn về Giáo Dục Kitô Giáo, Gravissimum Educationis, 1.
(302) Relatio Finalis 2015, 56.
(303) Erich Fromm, The Art of Loving, New York, 1956, p. 54.
(304) Thông Điệp Laudato Si’ (24 tháng 5, 2015), 155.
(305) Bài Giáo Lý (15 tháng 4, 2015): L’Osservatore Romano, 16 tháng 4, 2015, p. 8.
(306) Cf. Relatio Finalis 2015, 13-14.
(307) Thánh Augustinô, De sancta virginitate 7,7: PL 40, 400.
(308) Bài Giáo Lý (26 tháng 8, 2015): L’Osservatore Romano, 27 tháng 8, 2015, p. 8.
(309) Relatio Finalis 2015, 89.
(310) Ibid., 93.
Văn Hóa
Tàn cơn binh lửa
Bảo Giang
08:08 28/04/2016
1105. Gío về đâu, mưa sầu tang tóc.
Mất cao nguyên mẹ khóc Thừa Thiên.
Một chiều đất nước ngả nghiêng,
Cộng về gieo khổ cho riêng từng người.
Đất Phú Xuân, một thời dựng nghiệp.
Nước sông Hương cách biệt chia ly.
Chạy qua đồn vắng Tam Kỳ,
Non côi đá lở bên bờ Quảng Nam.
Tràn mặt đất da vàng thành xám.
Giữa lưng mây lửa bám không rời.
Quy Nhơn, Phù Cát nghẹn lời,
Người xa Đồng Đế bỏ thời Quang Trung.
Đâu chiến tích anh hùng thuở trước.
Đây bao người từng bước, lệ rơi.
Thành cao ai khóc thương Hời,
Lũng sâu dân Việt dậy lời oán than.
Lớp sóng tan vượt ngang Đà Nẵng.
Ngọn đỏ gào phố vắng Nha Trang.
Biển xanh có lắm Dã Tràng,
Lâm Đồng, Quảng Ngãi, Phan Rang đổi hồng.
Cửa Hội An hừng đông sớm dậy.
Ngõ Khánh Dương cầu gẫy vì mìn.
Ai người ngồi nhớ Phú Yên,
Chị xa Đại Lãnh còn nhìn sông Ba.
Khóc đi em Tuy Hòa đã khuất.
Ngủ đi anh Huế mất lối về.
Cam Ranh, Phan Thiết não nề,
Bình Tuy trái gío giữa hè thêm đau.
Đường An Lộc trăng sầu bóng lặng,
Đất Tây Ninh mưa nắng hững hờ.
Vũng Tàu sóng cuốn gãy cờ.
Sân bay nắng đợi, bóng chờ ai đi?
Miền Gia Định xụt xùi nước mắt.
Đất Biên Hòa mẹ dắt con đi.
Mở đường hai chữ biệt ly,
Cửa thành đã khép biết khi nào về?
Bỏ Bình Dương, Lai Khê rã gánh.
Rời Long Thành, Định Quán đã tan.
Trên cao đỉnh núi Chứa Chan.
Phước Tuy muối đổ quan san nặng sầu.
Đất đổi màu niềm đau Xuân Lộc.
Nước cuối giòng đổ dốc tay buông.
Giữa làng ai vỗ tay suông,
Thành đô mở hội diễn tuồng lui quân:
“Ai một lần vì dân vị nước,
Thề một lòng đi trước đoàn quân!”
Chiêm tinh liệu đoán bằng thần,
Tuồng chưa diễn hết Nguyễn quân bỏ dùi.
Vồ được trống Dương vùi trận thế.
Cờ chưa đi tính kế đầu hàng.
Ba mươi trống gõ tàng tàng,
Vũ, văn xếp sẵn hai hàng đu giây.
Trời uất hận miền tây lẻ bóng.
Biển lạnh lùng bọt sóng vỡ tan.
Khắp thành dậy tiếng oán than,
Cổng làng mẹ góa khóc đàn con côi.
Nước non ơi, hoa rơi có vận.
Lỡ duyên rồi gởi phận nơi nao?
Đêm nay trăng sáng phương nào,
Để riêng bóng tối chuyển vào nước Nam!
Ngước trông lên hoa Vàng tan nát.
Ngó ra khơi dạ thắt lòng son.
Còn gì duyên phận nước non,
Mẹ già ôm lấy xác con cũng rầu.
Rồi sớm mai vương sầu nắng dậy.
Cuối trời chiều chẳng thấy hùng binh.
Vàng đi bóng Đỏ khắp thành.
Ngồi đây lớp lớp những hình không tên!
1209. Nhớ khi xưa hai bên ném đá.
Sông núi còn hồn đã vỡ tan.
Cần Thơ, giọt lệ chứa chan,
Nguyễn, Lê* khuất bóng giang san đổi màu.
Mặt nước lặng mưa sầu khôn xiết.
Mất anh rồi nước hết tương lai.
Sao băng nào phải một Hai,*
Ngoài biên mất Vỹ* cùng ngày Phú* đi! *
(tên các vị tướng tuẫn tiết)
Đất khóc người nam nhi chí cả.
Nước cạn nguồn vội vã cơn đau.
Mẹ gìa bóng ngả vườn sau,
Trước sân lệ máu khởi đầu điêu linh....
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Cầu Vồng
Tấn Đạt
18:06 28/04/2016
![]() |
Ảnh của Tấn Đạt
Cầu Vồng anh bắc em sang
Ngân Hà nước chảy mênh mang đôi bờ
Ngọt ngào một dải sông thơ
Phù vân hư ảo, bây giờ trắng tay..
(Trích thơ của BL)
VietCatholic TV
Câu Chuyện Gia Đình: Khi con cái lìa xa Giáo Hội
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
12:19 28/04/2016
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Một số thanh thiếu niên trôi dạt khi tìm kiếm bản sắc riêng của mình. Một số đã bị tổn thương bởi những người trong Giáo Hội. Những người khác trượt vào những lối sống xung đột với giáo huấn của Giáo Hội. Nhiều người vào đại học, kết thân với những người ngoài Kitô giáo hay những giáo sư hoài nghi, và dần dần mất đi niềm tin của mình. Một số bước vào thế giới, bắt đầu xây dựng một gia đình, bị cuốn trôi trong công việc, sở thích, và cuộc sống gia đình, và rồi mất niềm tin trong những tất bật này.
Có rất nhiều câu chuyện nhưng hầu hết đều có chung một hệ quả tương tự: những người trẻ tuổi rời xa khỏi Giáo Hội.
Tất nhiên, tất cả chúng ta đều cố gắng hết sức để lôi kéo họ trở lại. Nhưng sự tuyệt vọng đôi khi có thể dẫn chúng ta đến việc theo đuổi các mục tiêu đúng nhưng bằng các phương pháp sai. Vì vậy, nếu bạn muốn lôi kéo con bạn trở lại, chúng ta hãy nhìn kỹ vào ba chiến lược, mà bạn không nên sử dụng. Mỗi bước đi sai lầm sẽ chỉ tạo ra thêm một bức tường ngăn chặn con bạn trở về với Giáo Hội.
1. Thứ nhất là buộc đi lễ.
“Chán quá! Ước gì tôi có thể làm cho nó bắt đầu đi lễ trở lại!” Maria phàn nàn với tôi, buồn phiền vì đứa con ở tuổi dậy thì. “Nó chẳng đoái hoài gì đến những gì tôi làm - cầu xin, nài nỉ, ra lệnh, khóc lóc – cũng chẳng làm sao lay động được nó. Một vài lần tôi đã có thể buộc nó phải đi lễ bằng cách đe dọa không trả tiền điện thoại di động của nó hoặc cắt không cho nó tiền tiêu xài nữa, nhưng nó chỉ đến ngồi trong nhà thờ mặt lạnh như tiền, cáu kỉnh ra vẻ không muốn đến đó.”
Đây là một mẹo rất quan trọng và có lẽ đáng ngạc nhiên: hãy ngừng buộc con em mình tham dự Thánh Lễ.
Điên à? Chắc chắn không điên đâu! Nếu bạn muốn con cái bạn có một tiến bộ lâu dài trong đức tin, hãy nhớ rằng tham dự Thánh Lễ phải là bước cuối cùng của bài toán đố, không phải là bước đầu tiên. Đó phải là điểm đến cuối cùng, là hoa quả và hệ quả của một mối quan hệ cá vị với Chúa Giêsu Kitô, chứ không phải là nguyên nhân dẫn đến mối quan hệ này.
Bạn phải đặt để những khối đá xây dựng đầu tiên khác ngõ hầu Thánh Lễ có thể mang lại những ơn ích cho linh hồn con bạn. Một linh mục gần đây nhận xét với tôi rằng: “Nếu ai đó đến dự Thánh Lễ, nhưng không muốn và không chuẩn bị trước, người ấy có nguy cơ lớn là bệnh hoạn về tâm linh. Nếu chương trình nghị sự của chúng ta chỉ đơn giản là làm cho mọi người đi lễ - nếu đó là tất cả những gì chúng ta cố gắng làm, mà không cần bất kỳ bước trung gian nào - thì tôi e rằng chúng ta có thể làm cho dân chúng bị bệnh nặng hơn, từ góc độ tâm linh”.
Ý tưởng đó có vẻ rắc rối đấy, nhưng nó bắt nguồn từ Thánh Phaolô, trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô. Ngài viết: “Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình. Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng có lắm người đã chết.”
Thánh Phaolô đã ám chỉ đến những đau khổ thể lý người dân Côrintô đã phải chịu như là hậu quả của việc cử hành thánh lễ mà không có sự tôn kính thích hợp, và đặc biệt là không nhận ra sự hiện diện thật của Chúa Giêsu trong Bí Tích Thánh Thể.
Trong thời đại chúng ta, Thiên Chúa không mấy khi trừng phạt một người với bệnh tật hay tử vong chỉ vì ngủ gật trong Thánh Lễ hoặc đón nhận Bí Tích Thánh Thể không xứng đáng. Nhưng nếu chúng ta đến với Thánh Lễ mà không chuẩn bị trước, không tập trung, hoặc không muốn tham gia, thì chúng ta có thể bị ảnh hưởng tinh thần nghiêm trọng. Thay vì kết hiệp chúng ta với Thiên Chúa, Thánh Lễ có thể tách ly mối quan hệ đó.
Tất nhiên, hầu hết các bậc cha mẹ không có ý định này. Khi họ buộc con mình đi lễ, họ đang hành động theo ý nghĩ tốt và biết rằng 1) Chúa Giêsu hiện diện trong Thánh Lễ một cách đặc biệt, vì vậy 2) họ phải làm mọi thứ có thể được để con mình có mặt ở đó.
Tư tưởng nhấn mạnh đến việc tham dự thánh lễ đã được thúc đẩy bởi nền văn hóa Tin Lành đang bao quanh chúng ta, trong đó các buổi thờ phượng chung được xem như là một cửa ngõ để tham gia đầy đủ trong đời sống Kitô hữu. Nếu anh chị em Tin Lành của chúng ta muốn đưa một người bạn lạc xa Giáo Hội của họ trở lại, động thái đầu tiên của họ là đưa người ấy đến nhà thờ, mọi chuyện khác tính sau. Một khi người đó đã chịu đến nhà thờ, họ tin là người ấy sẽ tìm thấy sự đón tiếp nồng nhiệt, một thông điệp mạnh mẽ và liên quan tới mình, và một lời mời gọi tham gia vào một nhóm nhỏ. Nói cách khác, nếu con đường trở nên người môn đệ của Chúa là một cái phễu, thì Tin Lành đặt các buổi nhóm trong nhà thờ ở phía trên, ở đầu cái phễu, trong khi những người Công Giáo đặt Thánh Lễ ở phía dưới, ở phần cuối của cái phễu.
Vì vậy, lần sau khi bạn đang muốn quyết liệt bắt con em mình phải tham dự Thánh lễ, cho dù bạn biết trong lòng nó đang muốn kháng cự, thì hãy lùi lại một chút. Đừng bắt buộc nó, và đừng lặp đi lặp rằng bỏ Lễ là một tội trọng – đúng là như thế, nhưng cơ bản là có nói như thế cũng là vô ích ở giai đoạn này. Trước hết, hãy gieo những hạt giống khác.
2. Chỉ trích lối sống của nó.
Abraham Piper, người trôi dạt khỏi Giáo Hội khi còn là một thiếu niên, có lời khuyên tốt cho cha mẹ của những đứa trẻ đã chọn một quyết định đạo đức xấu: đó là “Bất chấp những hành vi của con mình nhằm thể hiện sự bất tín của nó, luôn luôn chúng ta phải chắc chắn rằng chúng ta chú ý đến căn bệnh trong tâm hồn của nó chứ không phải là các triệu chứng bên ngoài”.
Bắt đầu với những mệnh lệnh về đạo đức thường là không lay động được những người trẻ tuổi. Nếu điều đầu tiên con bạn nghe là “đừng làm điều đó” hoặc “thay đổi cuộc sống của mày đi” hay “cắt đứt ngay cái mối quan hệ đó đi cho tao” nó sẽ nhanh chóng đẩy bạn ra ngoài. Bạn có thể sẽ làm mất đi luôn cơ hội để hùng hồn thuyết phục nó trở lại với Thiên Chúa và Giáo Hội của Người. Điều này không có nghĩa là bạn chỉ nên quan sát cách yên lặng và thụ động khi con bạn đưa ra những quyết định sai lầm. Thay vào đó, nó có nghĩa là phương pháp tiếp cận đầu tiên của bạn nên được đánh dấu bởi sự dịu dàng và kiên nhẫn, chứ không phải là nóng giận chỉ trích nó.
Đức Thánh Cha Phanxicô thường xuyên chỉ trích cách tiếp cận “mệnh lệnh đạo đức” như vậy. Trong cuộc phỏng vấn lớn đầu tiên của mình trong tư cách là giáo hoàng, ngài giải thích tại sao chiến lược tốt nhất là chúng ta nên giới thiệu ai đó về Chúa Giêsu Kitô trước khi nói đến các yêu cầu đạo đức bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ đó. Ngài nói: “Điều quan trọng nhất là việc công bố ngay từ đầu: Chúa Giêsu Kitô đã cứu rỗi bạn.. .. Tuyên bố trong một phong cách truyền giáo phải tập trung vào các yếu tố thiết yếu, về những điều cần thiết: đây cũng là những gì mê hoặc và thu hút hơn, những gì thiêu đốt con tim người ta, như đã xảy ra với các môn đệ trên đường Emmaus. Chúng ta phải tìm kiếm một sự cân bằng mới, nếu không, ngay cả công trình luân lý của Giáo Hội cũng sẽ sụp đổ như ngôi nhà làm bằng giấy, đánh mất sự tươi mới và hương thơm của Tin Mừng. Những đề xuất từ Tin Mừng phải đơn sơ, sâu sắc và rạng rỡ hơn. Chính từ đề xuất như thế, sẽ tuôn trào các hệ quả luân lý. Việc công bố tình yêu cứu độ của Thiên Chúa phải đi trước mệnh lệnh luân lý và tôn giáo. Hôm nay đôi khi dường như thứ tự ngược lại là phổ biến hơn.”
Hầu hết mọi người trẻ ngày nay tin vào một cái gì đó gọi là “moralistic therapeutic deism” (tức là thuyết cho rằng thế giới này có các thần minh nên con người phải ăn ngay ở lành), trong đó tập trung chủ yếu vào những điều được làm và những điều đức tin không cho phép làm (vì thế có hạn từ “moralistic”). Tuy nhiên, là một người cha, người mẹ, mục tiêu của bạn không chỉ đơn giản là cải thiện luân lý hoặc thay đổi hành vi. Mục tiêu của bạn phải là thu hút con em mình vào một mối quan hệ phát triển không ngừng với Chúa Giêsu trong Giáo Hội của Người. Một khi bạn làm điều đó, những thay đổi về đạo đức chắc chắn sẽ đi theo.
Nhưng chúng ta hãy thẳng thắn: điều này không dễ dầu gì. Nó đòi phải cắn lưỡi nhiều lần khi bạn cảm thấy sự thôi thúc phải quở trách con bạn khi biết rằng nó đang lìa xa Chúa. Tuy nhiên, như Bert Ghezzi khẳng định rỏ ràng, “Các vết sẹo sẽ có giá trị của nó!”
(Đôi khi, quở trách đạo đức là cần thiết để một đứa trẻ bắt đầu trở về với Giáo Hội. Những đứa con ngỗ nghịch đôi khi cần một ai đó kéo chúng ra khỏi những hoang mang về đạo đức của chúng và nói thẳng với chúng “Những quyết định này đang hủy hoại cuộc sống của con” hoặc “Con có thể đạt được nhiều hơn nữa nếu con chọn một con đường khác”. Nhưng thường thì sẽ tốt hơn nếu những sửa sai đó không phải là điều đầu tiên chúng nghe thấy và lý tưởng hơn khi nó đến từ một người bạn đáng tin cậy, người cố vấn, hoặc người khác quan trọng đối với nó. Mối quan hệ của bạn với trẻ bướng bỉnh thường là đã quá mong manh và cần được bảo vệ bằng mọi giá. Đừng mạo hiểm bắt đầu với một lời khiển trách dữ dội.)
3. La rầy liên tục
Nhiều bậc cha mẹ la rầy liên tục, thúc bách, và quấy rầy con cái của họ - thậm chí cả khi chúng đã trưởng thành - để buộc chúng đi nhà thờ thường xuyên hơn hoặc để thay đổi lối sống của chúng. Chiến lược này hầu như không bao giờ có tác dụng, và trong thực tế, nó thường có tác dụng ngược lại: nhiều người cố tránh xa Giáo Hội Công Giáo chỉ vì cha mẹ của họ liên tục quấy rầy họ.
Vì vậy, ngay bây giờ bạn hãy cố tránh đưa ra những câu hỏi như “Tại sao con làm như thế với cha mẹ?” Hoặc “Khi nào con hết lười biếng và đi nhà thờ trở lại?” Gần như không thể nào làm cho con cái cảm nhận được hoàn toàn nỗi đau của bạn, không thể nào làm cho chúng biết bạn tuyệt vọng đến mức nào để lôi kéo chúng trở lại với Giáo Hội. Vì vậy, không đáng để lãng phí năng lượng của bạn vào những lời cằn nhằn cố làm cho chúng có cảm giác tội lỗi.
Những tiếng thở dài thườn thượt, những lời than van thụ động dai dẳng kêu trời trách đất còn tệ hơn những lời cằn nhằn trách móc trực tiếp. Sarah, một phụ nữ trẻ đã lâu không đi lễ, nói với tôi: “Tôi không thể chịu đựng được khi mẹ tôi nói chuyện với tôi về nhà thờ nhưng tôi thậm chí còn ghét cay ghét đắng hơn nhiều khi mẹ tôi chỉ la một chút, rồi thở dài, hay chắc lưỡi. Mẹ tôi không ngớt lời khen em tôi đi dự Thánh Lễ và làm cho tôi có cảm giác rằng em tôi mới chính là một người con gái tốt.”
Thánh Gioan Phaolô Đệ Nhị, có lẽ là nhà truyền giáo hiệu quả nhất của thế kỷ 20, tổng kết một chiến lược khác tốt hơn. Ngài nói đơn giản như thế này “Giáo Hội đề nghị chứ không áp đặt gì cả.” Những bậc cha mẹ thành công trong việc lôi kéo con cái của họ trở lại với Giáo Hội không cằn nhằn hay ép buộc con cái họ về mặt tôn giáo. Thay vào đó họ mời gọi, nhẹ nhàng và trân trọng, thông qua trò chuyện ấm áp và tình yêu vô điều kiện. Đừng phàn nàn về những khuyết điểm của con quý vị; nhưng mời gọi chúng vươn tới một cái gì đó tốt hơn. Đề xuất, nhưng đừng áp đặt.


